Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Mô hình hóa các nhân tố tác động tới khoảng cách giữa thành thị và nông thôn VN trong thời kỳ hội nhập kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (967.4 KB, 96 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
MỤC LỤC
Nhóm phân tích: Bất bình đẳng Việt Nam
1
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ BIỂU ĐỒ
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: GDP thực tế và tốc độ tăng trưởng Việt Nam ....................................13
Biểu đồ 2: Biểu đồ chi tiêu các nhóm dân cư năm 2004 ......................................19
Biểu đồ 3: Biểu đồ chi tiêu các nhóm dân cư năm 2006 ......................................20
Biểu đồ 4: Khoảng cách logRPCE các hộ thành thị và nông thôn.................................45
Biểu đồ 5: Phân bổ logRPCE theo các phân vị ....................................................46
Biểu đồ 6: Phần trăm chênh lệch logRPCE thành thị và nông thôn .....................47
Biểu đồ 7: Kernel density estimate – tính toán từ VLSS 2006, 2008 ................... 48
Biểu đồ 8: Chênh lệch phúc lợi hộ gia đình các dân tộc ở nông thôn ................... 54
Biểu đồ 9: Lượng kiều hối VN ........................................................................... 60
Biểu đồ 10: Phân tích năm 2006 .........................................................................76
Biểu đồ 11: Phân tích năm 2008 .........................................................................65

Nhóm phân tích: Bất bình đẳng Việt Nam
2
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
LỜI MỞ ĐẦU
Thực hiện chủ trương đổi mới giáo dục của trường đại học Kinh tế Quốc
dân. Nhóm sinh viên khoa Kế hoạch Phát triển thực hiện báo cáo thực tập tốt
nghiệp với đề tài nghiên cứu khoa học: “ Mô hình hóa các nhân tố tác động tới
khoảng cách giữa thành thị và nông thôn Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
kinh tế”
Việt Nam tiến hành đổi mới và mở cửa nền kinh tế bắt đầu năm 1986 và
đã đạt được những thành tựu lớn trong công cuộc xóa đói giảm nghèo. World


Bank đánh giá rất cao những nỗ lực của Việt Nam trong xóa đói giảm nghèo và
Việt Nam đang trở thành một trong những hình mẫu thành công cho các dự án
xóa đói giảm nghèo của thế giới. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đó như
nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra đã có dấu hiệu chênh lệch mức sống giữa các nhóm
dân cư. Sự phân hóa giàu nghèo là vấn đề có ảnh hưởng sâu sắc tới nhiều tầng
lớp dân cư trong xã hội đòi hỏi Chính phủ phải có các chính sách nhằm giảm bớt
sự bất bình đẳng đó.
Trong bài nghiên cứu này chúng tôi đã mô hình hóa tác động của các nhân
tố tới bất bình đẳng thành thị nông thôn của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
kinh tế thế giới. Chúng tôi kỳ vọng rằng có thể đánh giá mức độ tác động của các
yếu tố tới khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, từ đó gợi mở những chính
sách có thể áp dụng để thu hẹp khoảng cách đó.
Bài viết của chúng tôi được chia thành 4 phần chính:
Chương 1: Việt Nam và vấn đề bất bình đẳng
Chương 2: Tổng quan các mô hình nghiên cứu về bất bình đẳng
Chương 3: Mô hình hóa các nhân tố tác động tới bất bình đẳng thành
thị nông thôn tại Việt Nam: Lý thuyết và Kết quả
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 3
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
Chương 4: Đề xuất chính sách nhằm giảm thiểu hiện tượng bất bình
đẳng thành thị nông thôn tại Việt Nam
Chúng tôi xin chân thành cám ơn PGS.TS Phan Thị Nhiệm đã tận tình
hướng dẫn nhóm thực hiện đề tài. Cám ơn GS TS Nguyễn Khắc Minh, PGS TS
Nguyễn Thị Minh – Trưởng bộ môn Toán Kinh tế ĐH Kinh tế Quốc dân đã có
những góp ý hoàn thiện bài làm của nhóm. Do khả năng và thời gian có hạn nên
bài viết chắc chắn sẽ còn nhiều khiếm khuyết, rất mong những đánh giá, góp ý
của mọi độc giả. Chi tiết xin liên hệ nhóm phân tích chính sách khoa Kế hoạch
Phát triển – ĐH Kinh tế Quốc dân:
Email:
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 4

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
CHƯƠNG 1: VIỆT NAM VÀ VẤN ĐỀ BẤT BÌNH ĐẲNG
1. Thành tựu trong phát triển kinh tế của Việt Nam giai đoạn đổi mới
và hội nhập kinh tế thế giới
Kinh tế Việt Nam có xuất phát điểm thấp kém, sản xuất nông nghiệp là
chủ yếu, lại trải qua thời gian dài chiến tranh vì vậy thời kỳ những năm 70,80 rất
kém phát triển với nền kinh tế vận hành theo cơ chế bao cấp. Hậu quả là thiếu
hụt những sản phẩm thiết yếu phục vụ nhu cầu người dân, tình trạng trì trệ diễn
ra, nguy cơ khủng hoảng kinh tế hiện hữu. Nhận thức đuợc thực trạng đó, Đảng
ta khởi xướng quá trình Đổi mới tại đại hội VI năm 1986. Nền kinh tế đã có
những chuyển biến tích cực, nguy cơ khủng hoảng bị đẩy lùi, lạm phát được
kiềm chế. Từ đầu những năm 1990 tỷ lệ tăng trưởng của Việt Nam luôn duy trì ở
mức cao (gần 8%/ năm) đứng thứ hai ở Châu Á, sau Trung Quốc.
Bảng 1: Số liệu tốc độ tăng trưởng kinh tế qua các giai đoạn từ sau đổi mới
Giai đoạn Tốc độ tăng trưởng /năm
1986- 1990 3.9%
1991- 1995 8.2%
1996 -2000 7.0%
2001- 2008 7.4%
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
1.1. Giai đoạn 1986-1990: Giai đoạn đầu đổi mới.
Đây là giai đoạn đầu của thời kỳ Đổi mới mà bắt đầu là đổi mới cơ chế
quản lý. Trong thời gian này đã ban hành nhiều nghị quyết và quyết định của
Đảng và Chính phủ nhằm cải tiến quản lý kinh tế, chính sách tiền tệ, chính sách
nông nghiệp... Những năm ngay tiếp sau đó Việt Nam đã liên tục thực hiện các
biện pháp cải cách mạnh mẽ:
+ Phi tập thể hóa nông nghiệp, tự do hóa giá cả.
+ Phát triển khu vực kinh tế tư nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 5
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm

+ Mở cửa kinh tế, giảm thuế hải quan, bãi bỏ độc quyền ngoại thương của
Nhà nước.
Tuy nhiên trong những năm đầu của kế hoạch 5 năm này cơ chế cũ chưa
mất đi, cơ chế mới chưa hình thành nên Đổi mới chưa có hiệu quả đáng kể.
Trung bình trong 5 năm, tổng sản phẩm trong nước tăng 3,9%/năm.
Vào những năm cuối của thập kỷ 80, tình hình bắt đầu biến chuyển rõ rệt.
Riêng lĩnh vực nông nghiệp có sự tiến bộ đột biến. Năm 1988, Việt Nam đưa ra
chế độ khoán nông nghiệp, giao đất cho nông dân, lấy hộ nông dân làm đơn vị
kinh tế. Kết quả là nếu năm 1988 phải nhập 450 nghìn tấn lương thực thì năm
1989 xuất khẩu gạo đạt gần 1 triệu tấn và năm 1990 thành nước xuất khẩu gạo
đứng thứ 3 trên thế giới với 1,5 triệu tấn. Một số ngành công nghiệp then chốt
như điện, thép cán, xi măng, dầu thô đạt mức tăng trưởng khá.
Giá trị xuất nhập khẩu bình quân tăng 28,0%/năm, tỷ lệ nhập siêu giảm
nhanh. Nếu trong các năm 19761980 tỷ lệ giữa xuất và nhập là 1/4 thì những
năm 1986  1990 chỉ còn 1/1,8. Một thành công lớn là siêu lạm phát đã được
kiềm chế và đẩy lùi (năm 1986 lạm phát là 774,7 %, thì năm 1987 là 223,1 %,
1989 là 34,7% và 1990 là 67,4%).
Thành công của công cuộc Đổi mới giai đoạn 1986 - 1990 là sản xuất
được phục hồi, kinh tế tăng trưởng, lạm phát bị đẩy lùi, và đặc biệt đã chuyển đổi
cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới tạo điều kiển những bước
chuyển biến các giai đoạn tiếp theo.
1.2. Giai đoạn 1991-1996: Đổi mới đạt kết quả quan trọng.
Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 6/1991 đã đưa ra chiến
lược "Ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000" đồng thời đề ra
phương hướng, nhiệm vụ cho kế hoạch 5 năm 1991-1995.
- Thời kỳ 1991 – 1995 cải cách kinh tế được tiếp tục tiến hành.
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 6
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
- Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân (1/1991) tạo điều kiện cho
kinh tế tư nhân phát triển.

- Pháp Lệnh ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng đã
tạo khuôn khổ pháp luật cho hệ thống ngân hàng thương mại ra đời.
- Thâm hụt ngân hàng được giảm đáng kể và được bù đắp, hoàn toàn qua
công trái, trái phiếu kho bạc và vay nước ngoài. Việc tăng cung tiền và tín dụng
được xác định phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế.
- Luật Đất đai (7/1993) cho phép hộ gia đình và cá nhân được quyền sử
dụng đất với 5 quyền: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê và thế chấp. Khó
khăn lớn lúc này là nền kinh tế vẫn bị bao vây, cấm vận trong bối cảnh các nước
Đông Ấu và các nước thuộc Liên Xô (cũ) rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Song,
thời kỳ này Việt Nam cũng có những thuận lợi cơ bản: đường lối đổi mới bước
đầu phát huy tác dụng tích cực, các đơn vị kinh tế sau một thời kỳ khó khăn đã
dần thích nghi với cơ chế quản ký mới. Quá trình mở cửa hội nhập thu được kết
quả bước đầu: xuất khẩu dầu thô và gạo gia tăng, nguồn vốn ODA cho Việt Nam
bắt đầu thực hiện từ 1993 đến 1995 các nhà tài trợ đã cam kết giành cho Việt
Nam số vốn là 6 tỷ USD cũng đến cuối 1995 vốn FDI được cấp phép đăng ký là
16,5 tỷ USD. Mộ số thành tựu kinh tế nổi bật trong giai đoạn này là:
Cơ chế quản lý kinh tế đã thay đổi căn bản:
Trong nền kinh tế xuất hiện nhiều thành phần: quốc doanh, tư bản nhà
nước, tư bản tư nhân, hợp tác xã, cá thể... trong đó kinh tế ngoài quốc doanh
chiếm 60% tổng sản phẩm trong nước.
Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao:
Trong 5 năm 1991-1995 tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân 8,2%.
Năm 1996 tăng 9,5%. Sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lương thực phát
triển liên tục và vững chắc mỗi năm tăng thêm 1 triệu tấn lương thực. Sản xuất
công nghiệp đã từng bước thích nghi với cơ chế quản lý mới, bình quân mỗi năm
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 7
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
tăng 13,5%, là mức tăng cao nhất từ trước tới lúc đó. Sản xuất trong nước đã có
tích luỹ, đảm bảo trên 90 % quĩ tích luỹ và quĩ tiêu dùng hàng năm.
Từ 1991- 1995 có 1401 dự án FDI với 20,413 tỷ USD vốn đăng ký. Đây là

thời kỳ vốn FDI vào Việt Nam tăng cao nhất, khoảng 50%/năm. Về xuất khẩu,
trong giai đoạn này, kim ngạch xuất khẩu bình quân mỗi năm tăng 27%, gấp 3
lần tốc độ tăng GDP.
Đổi mới cơ cấu kinh tế:
Cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng khu vực công
nghiệp và dịch vu, giảm dần của khu vực nông, lâm ngư nghiệp. Cơ cấu vùng
kinh tế cũng bắt đầu thay đổi theo hướng hình thành các vùng trọng điểm, các
khu công nghiệp tập trung, các khu chế xuất và các vùng chuyên canh sản xuất
lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp.
Lạm phát tiếp tục bị kiềm chế và đẩy lùi:
Thời kỳ này nhờ sản xuất phát triển, lưu thông hàng hoá thông thoáng lại
có thêm kinh nghiêm chống lạm phát mấy năm trước nên giá cả ổn định dần. Giá
hàng hoá và dịch vụ năm 1991 tăng 67,5 %; năm 1993 chỉ tăng 5,2 %; năm 1996
xuống 4,5%.
Tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại:
Đến cuối năm 1996, Việt Nam có quan hệ kinh tế thương mại chính thức
với trên 120 nước, kim ngạch ngoại thương gia tăng nhanh chóng, bình quân trên
20%/năm. Nhiều nước và tổ chức quốc tế đã dành cho Việt Nam viện trợ không
hoàn lại hoặc cho vay để đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Việt Nam đã có những
chính sách, hoạt động kinh tế đối ngoại tích cực, chủ động hội nhập với kinh tế
khu vực và thế giới, đa phương hóa và đa dạng hóa các mối quan hệ với các
nước, các tổ chức tài chính trên thế giới. Trong đó có các mốc quan trọng đáng
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 8
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
chú ý là: năm 1992, ký các hiệp định hợp tác kinh tế - thương mại với EU, năm
1994 Mỹ bình thường hóa quan hệ và xóa bỏ cấm vận với Việt Nam, năm 1995
gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á.
1.3. Giai đoạn từ 1996- 2000: Tiếp tục tăng cường đổi mới.
Nghị quyết đại hội Đảng lần VIII (7/1996) về kế hoạch 5 năm 1996 –
2000 đã chỉ rõ cấn phải đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng

bộ, tập trung phát triển nông nghiệp và nông thôn, tạo thuận lợi cho các doanh
nghiệp phát triển.
Thời kỳ này Việt Nam đối đầu với nhiều khó khăn, thách thức : thiên tai
liên tiếp, gây những thiệt hại nặng nề, những tác động bất lợi từ khủng hoảng tại
chính tiền tệ khu vực, áp lực của việc thực hiện chương trình CFPT/AFTA. Để
tiếp tục đổi mới, nhiều chính sách liên quan tới môi trường đầu tư được ban hành
như luật thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, luật doanh nghiệp
mới.
Do tác động của khủng hoảng tài chính khu vực việc thu hút vốn đầu tư
trực tiếp của nước ngoài có xu hướng giảm sút, Việt Nam đã tìm cách phát huy
nội lực của cả nền kinh tế. Từ giữa năm 1999 Chính phủ đã đề ra các giải pháp
đồng bộ về kích cầu thông qua đầu tư, đẩy mạnh huy động các nguồn vốn trong
nước: bổ sung thêm vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước và tín dụng ưu đãi. Phát
hành công trái và trái phiếu công trình, chỉ đạo các ngân hàng cho vay trung và
dài hạn, kể cả cho vay ngoại tệ để nhập thiết bị.
Cũng do tác động của khủng hoảng tài chính khu vực và thiệt hại do thiên
tai, bão lụt, tốc độ tăng trưởng kinh tế sau khi đạt 9.5% (năm 1995) đã bắt đầu
giảm dần, đến năm 1999 chỉ đạt 4.8% là mức thấp nhất sau hơn 10 năm đổi mới.
song nhờ sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân Việt Nam đã không để xảy ra những
biến động lớn về môi trường vĩ mô và ổn định được đời sống nhân dân. Nền kinh
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 9
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
tế vẫn có những dấu hiệu đáng mừng như công tác thu hút và giải ngân vốn ODA
đã có tiến bộ dần qua các năm. Từ năm 1993-1999 Việt Nam đã giải ngân được
6,3 tỷ USD, chiếm hơn 40% so với nguồn ODA đã được cam kết. Việt Nam cũng
đã dần nối lại quan hệ với cộng đồng thế giới (nối lại viện trợ quốc tế) và liên tục
ký kết nhiều hiệp định thương mại với nước ngoài góp phần đẩy nhanh quá trình
tăng trưởng kinh tế và hội nhập quốc tế được khởi động cùng chính sách đổi mới:
- Năm 1998 Việt Nam gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái
Bình Dương (APEC), điều này đã tạo ra nhiều thuận lợi cho quan hệ thương mại

của Việt Nam với các nước trong khu vực.
- Năm 2001, Việt Nam ký hiệp định thương mại song phương với Mỹ
(United States Bilateral Trade Agreement – USBTA), Hiệp định này đã mở cửa
thị trường Mỹ cho hàng hóa Việt Nam (tuy nhiên, vẫn áp dụng hạn ngạch), hàng
xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ được áp dụng quy chế tối huệ quốc từ
năm 2002 trong khuôn khổ áp dụng Hiệp định này, mức thuế quan trng bình áp
dụng cho hàng xuất khẩu của Việt Nam đa giảm từ 40% xuống còn 3 – 4%, đổi
lại Việt Nam cũng cắt giảm thuế quan với hàng nhập khẩu từ Mỹ và đưa ra nhiều
cam kết về mở cửa cho đầu tư từ Mỹ.
1.4. Giai đoạn 2001-2005
Tháng 4 năm 2001, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã thông qua Chiến
lược phát triển Kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Phương hướng, Nhiệm vụ kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005 nhằm đẩy nhanh hơn nữa tốc
độ tăng trưởng kinh tế và chất lượng phát triển xã hội của đất nước.
Chỉ tiêu kế hoạch đặt ra là đưa GDP năm 2005 gấp 2 lần so với năm 1995.
Để được như vậy, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm thời kỳ 5 năm
2001-2005 phải đạt 7,5%, trong đó dự kiến nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,3%,
công nghiệp và xây dựng tăng 10,8%, dịch vụ tăng 6,2%. Về kinh tế đối ngoại,
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 10
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
phấn đấu nâng tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm. Cơ cấu kinh tế trong
GDP đến năm 2005 sẽ chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
với mục tiêu tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp 20 - 21%, tỷ trọng công nghiệp và
xây dựng khoảng 38 - 39%, và tỷ trọng các ngành dịch vụ 41 - 42%.
Thực hiện đường lối chính sách đó, Việt Nam đã tập trung cải cách hành
chính và tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi, mở rộng hợp tác quốc tế,
tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, nhờ đó kinh tế Việt
Nam tiếp tục duy trì được sức phát triển tương đối nhanh và ổn định.
Kết quả đạt được là tốc độ tăng trưởng GDP vẫn duy trì được xu hướng
tăng dần, mức tăng bình quân trong cả thời kỳ đạt 7,55/năm. Công nghiệp là

ngành kinh tế có tốc độ tăng trưởng giá trị cao nhất, đạt trên 10% mỗi năm. Tốc
độ tăng của lĩnh vực dịch vụ đạt xấp xỉ tốc độ tăng GDP, trong khi giá trị sản
xuất nông nghiệp phục hồi trở lại với mức tăng trên 4% sau khi sụt giảm xuống
mức gần 3% năm 2001 (do biến động giá sản phẩm nông nghiệp trên thị trường
thế giới). Với mức tăng như vậy, cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng
công nghiệp hóa hiện đại hóa, năm 2002 tỷ trọng nông nghiệp còn khoảng
23%GDP, công nghiệp đạt cao nhất 38,6% và dịch vụ 35,5%.
Các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển, kinh tế nhà nước tiếp tục được
đổi mới, tuy còn chậm nhưng đã từng bước nâng cao hiệu quả trong hoạt động
sản xuất kinh doanh. Các hình thức đổi mới doanh nghiệp nhà nước cũng đã đa
dạng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đẩy nhanh tiến trình này.
Hội nhập kinh tế quốc tế và kinh tế đối ngoại có bước tiến mới rất quan
trọng. Quan hệ quốc tế được mở rộng, các cam kết quốc tế được triển khai thực
hiện tốt, đồng thời ký kết nhiều hiệp định đa phương, song phương, tạo bước
phát triển mới về kinh tế đối ngoại. Việt Nam đã ký kết và gia nhập khu vực mậu
dịch tự do AFTA của ASEAN vào năm 2003, điểu này đã mang lại nhiều thuận
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 11
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
lợi cho hàng hóa của Việt Nam khi lưu thông trên thị trường các nước trong khu
vực. Cũng nhờ đó thị trường xuất khẩu đã được duy trì và mở rộng, tổng kim
ngạch xuất khẩu tăng 17,5%/năm, tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2005 chiếm
trên 60% GDP và đạt 390 USD/ người. Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
liên tục tăng, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có chuyển biến tích cực qua từng
năm và bước đầu đã có dự án đầu tư ra nước ngoài. Vay trả nợ nước ngoài được
quản lý tốt. Công tác chính trị đối ngoại được tăng cường, thực hiện tốt đường lối
đối ngoại đoạc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, mở rộng quan hệ với các
nước. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên.
Bên cạnh đó những chú trọng của Chính phủ nhằm giải quyết các vấn đề
xã hội đã đem lại được những kết quả đáng mừng. Công tác giải quyết việc làm,
xoá đói giảm nghèo đạt kết quả tốt, vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của

Liên hợp quốc. Từ năm 2000 đến năm 2005, tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động.
Năm 2005, thất nghiệp ở thành thị giảm xuống còn 5,3%; thời gian sử dụng lao
động ở nông thôn đạt 80%. Theo chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ
30%năm 1992 xuống dưới 7% năm 2005. Theo chuẩn quốc tế (1
USD/người/ngày) thì tỷ lệ đói nghèo của Việt Nam đã giảm từ 58% năm 1993
xuống còn 28,9% năm 2002. Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được quam
tâm và có nhiều tiến bộ. Chỉ số phát triển con người được nâng lên, từ mức dưới
trung bình (0,498) năm 1990, tăng lên mức trên trung bình (0,688) năm 2002;
năm 2005 Việt Nam xếp thứ 112 trên 177 nước được điều tra. Mạng lưới y tế
được củng cố và phát triển, y tế chuyên ngành được nâng cấp, ứng dụng công
nghệ tiên tiến; việc phòng chống các bệnh xã hội được đẩy mạnh; tuổi thọ trung
bình từ 68 tuổi năm 1999 nâng lên 71,3 tuổi vào năm 2005.
1.5. Giai đoạn 2006-nay:
Việt Nam nhận thức sâu sắc rằng là một nước nghèo, GDP bình quân đầu
người chưa cao, vấn đề đặt ra là phải phát triển nhanh về kinh tế đi đôi với phát
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 12
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
triển hài hoà các mặt của xã hội, đảm bảo cải thiện mọi mặt đời sống của người
dân, bảo vệ môi trường sinh thái để phát triển lâu bền cho thế hệ mai sau, trên cơ
sở đó mục tiêu xoá đói giảm nghèo mới có thể tiếp tục thực hiện tốt. Chính vì
vậy, Việt Nam đã tập trung thực hiện một số giải pháp vĩ mô, giữ vững môi
trường kinh tế- xã hội ổn định, mở rộng kinh tế đối ngoại, tạo ra bước đột phá về
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức để phát triển nền
kinh tế cao và ổn định trong nhiều năm: năm 2006 GDP tăng 8.2%, năm 2007
tăng 8.48%, năm 2008 tăng 6.23%.
Chúng ta đã thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Xuất
khẩu, nhập khẩu tăng trưởng cao và ổn định, nguồn vốn FDI đổ vào nước một
cách tương đối vững chắc đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế rất mạnh mẽ. Tỷ trọng
của xuất khẩu trong GDP những năm gần đây đã đạt gần 50% trong khi tỷ trọng
của khu vực FDI trong GDP cũng đạt tới gần 14% .Đầu năm 2007, Việt Nam trở

thành thành viên chính thức của WTO sau hơn 10 năm đàm phán và 20 năm kể
từ khi thực hiện chính sách đổi mới. Là thành viêc của WTO, Việt Nam được
hưởng quy chế tối huệ quốc của tất cả các nước thành viên khác (được xóa bỏ
hạn ngạch đối với hàng xuất khẩu), đồng thời Việt Nam cũng phải áp dụng các
quy định của WTO. Sự kiện gia nhập WTO là kết tinh của một quá trình bền bỉ
cải cách kinh tế và hội nhập quốc tế của Việt Nam, mở đầu cho một thời kỳ phát
triển mạnh mẽ thương mại quốc tế. Quá trình mở cửa hội nhập đã cho thấy sản
phẩm của Việt Nam có thể cạnh tranh và tìm chỗ đứng ở nhiều thị trường quốc
tế. Hàng hóa Việt Nam đã có mặt ở hơn 100 nước trên thế giới, trong đó các thị
trường chủ yếu là Hoa Kỳ (18%), EU (17%) và ASEAN (16,8%). Kim ngạch
nhập khẩu cũng đã tăng 38 lần, từ 2,1 tỷ USD năm 1986 lên trên 80 tỷ USD năm
2008, tăng trưởng với tốc độ bình quân 16,1%/năm. Hàng hóa nhập khẩu chủ yếu
phục vụ hoạt động sản xuất, bình quân chiếm gần 90% tổng kim ngạch nhập
khẩu trong giai đoạn 1986-2008, trong đó nhập máy móc thiết bị chiếm gần 30%,
nhập khẩu nguyên vật liệu chiếm gần 60%. Hàng hóa được nhập khẩu từ khoảng
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 13
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
trên 200 nước, nhưng chiếm thị phần lớn nhất vẫn là hàng có xuất xứ từ
ASEAN5, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, EU.
Bảng 2: Tổng sản phẩm trong nước và tốc độ tăng trưởng theo giá
so sánh của Việt Nam từ 2000 đến nay
Năm GDP (tỷ đồng)
Tôc độ tăng trưởng
GDP(%)
2000
273666 6.79
2001
292535 6.89
2002
313247 7.08

2003
336242 7.34
2004
362435 7.79
2005
393031 8.44
2006
425373 8.23
2007
461443 8.48
2008
490191 6.23
Biểu đồ 1: GDP thực tế và tốc độ tăng trưởng Việt Nam
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 14
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
2. Bất bình đẳng của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới
2.1 Tổng quan về bất bình đẳng
Các quốc gia đang phát triển thực hiện chuyển đổi nền kinh tế đều trải
qua các giai đoạn phát triển trong đó xuất hiện hiện tượng bất đồng đều giữa các
nhóm dân cư về đặc điểm cũng như cơ hội phát triển. Đây là một hiện tượng xã
hội phức tạp tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - văn hoá - xã hội và
đang có chiều hướng gia tăng có thể gây ra những bất ổn có thể dẫn đến những
xung đột xã hội. Đặc biệt là tác động đói nghèo và bất bình đẳng giữa các vùng,
giữa nông thôn và thành thị khác nhau đáng kể.
2.1.1. Công bằng xã hội
Công bằng xã hội là một khái niệm có tính chất lịch sử, có nội dung
khác nhau trong những hoàn cảnh điều kiện khác nhau. Có hai cách hiểu khác
nhau về công bằng xã hội.
Thứ nhất, khái niệm công bằng ngang là sự đối xử như nhau đối với
những người có tính trạng kinh tế như nhau. Theo quan điểm này, hai cá nhân có

tình trạng kinh tế như nhau (được xét theo một tiêu thức nào đó như thu nhập,
hoàn cảnh gia đình, tôn giáo, dân tộc…) thì chính sách của chính phủ không
được phân biệt đối xử.
Thứ hai, khái niệm công bằng dọc là đối xử khác nhau với những người
có khác biệt bẩm sinh hoặc có tình trạng kinh tế ban đầu khác nhau nhằm khắc
phục những khác biệt sẵn có. Theo cách hiểu này chính sách của chính phủ được
phép đối xử có phân biệt với những người có tình trạng kinh tế khác nhau, với
điều kiện sau khi chịu tác động của chính sách thì những khác biệt đó phải được
giảm bớt.
2.1.2. Bất bình đẳng
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 15
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
Phúc lợi của một cá nhân/gia đình là nguồn lực kinh tế mà cá nhân/gia
đình đó nhận được, làm chủ và tiêu dùng. Nguồn lực kinh tế đo lường là thu
nhập, tài sản những sản phẩm mà con người tiêu thụ. Trong kinh tế học vi mô,
phúc lợi kinh tế hay thỏa dụng (utility) của một cá nhân thường được xem là
hàm đồng biến với tiêu thụ và thời gian nghỉ ngơi của cá nhân đó.
Trong các nghiên cứu ứng dụng, vì sự giới hạn của dữ kiện, các nhà
kinh tế phải dựa vào các thống kê có sẵn như thu nhập hay chi tiêu. Mức độ
chênh lệch kinh tế tùy thuộc rất nhiều vào tiêu chuẩn dùng để xác định mức phúc
lợi kinh tế.
Bất bình đẳng kinh tế có thể nhìn nhận như là sự khác biệt thu nhập/chi
tiêu thực tế giữa các nhóm dân cư. Nếu sự sai lệch càng ít thì mức độ bất bình
đẳng càng thấp và ngược lại.
Trong bài chúng tôi chỉ chú trọng phân tích bất bình đẳng giữa các vùng.
2.2 Bất bình đẳng vùng
Tỷ lệ hộ nghèo ở các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên (hai vùng tập trung
đông đồng bào dân tộc thiểu số), Bắc Trung Bộ, đồng bằng sông Cửu Long gấp
4.5 lần tỷ lệ nghèo chung của cả nước. Bất bình đẳng giữa các vùng có thể được
đo bằng tốc độ tăng chi tiêu giữa các vùng. Nếu vùng Đông Nam Bộ và vùng

đồng bằng sông Hồng (hai vùng kinh tế trọng điểm) tăng chi tiêu dùng ở mức
133% và 111% trong giai đoạn 1993 – 2004 thì tốc độ này ở vùng Tây Bắc, đồng
bằng sông Cửu Long và Nam Trung Bộ thấp hơn nhiều, chỉ là 52%, 63% và
67%.
Tỷ lệ tăng chi tiêu dùng ở thành thị so với nông thôn tăng từ 1.91 năm
1993 lên 2.24 năm 2004. Không chỉ có thế tỷ lệ hộ nghèo giữa nông thôn và
thành thị của mỗi vùng luôn có sự khác biệt đáng kể. Người dân trong khu vực
đô thị được hưởng lợi nhiều nhất từ công tác xóa đói giảm nghèo. Trong khi tại
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 16
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
các khu vực nông thôn, dân nghèo vẫn còn chiếm tỷ lệ lớn (đặc biệt tại các khu
vực sinh sống của các dân tộc thiểu số)
Bảng 3: Tỷ lệ hộ nghèo phân theo thành thị nông thôn và phân theo vùng (%)
Năm 2004 2006 2007 2008
Cả nước
18.1 15.5 14.8 13.5
Thành thị
8.6 7.7 7.4 6.7
Nông thôn
21.2 18.0 17.7 16.2
Theo vùng
Đồng bằng sông Hồng
12.7 10.0 9.5 8.4
Trung du và miền núi phía Bắc
29.4 27.5 26.5 25.9
Bắc Trung Bộ và duyên hải miền
Trung
25.3 22.2 21.4 19.8
Tây Nguyên
29.2 24.0 23.0 21.0

Đông Nam Bộ
4.6 3.1 3.0 2.3
Đồng bằng sông Cửu Long
15.3 13.0 12.4 11.1
(Nguồn: Niên giám thống kê 2008)
World Bank đã có nghiên cứu chuyên đề về bất bình đẳng và khẳng định
ở Việt Nam đang có khoảng cách giữa khu vực thành thị - nông thôn và bất bình
đẳng ngay trong nội bộ các khu vực. Khoảng cách thu nhập - chi tiêu giữa khu
vực nông thôn và thành thị có sự gia tăng lớn trong giai đoạn 1993-2006. Tuy
tỉ lệ nghèo đói ở cả hai khu vực nông thôn và đô thị đều giảm dần trong những
năm gần đây, nhưng ở nông thôn không giảm nhanh bằng đô thị. Điều này đã
làm cho sự chênh lệch về tỉ lệ nghèo giữa nông thôn và đô thị ngày càng doãng
ra từ 2,65 lần (1993) lên 4,95 lần (1998), 5,4 lần (2002) và lên đến 6,94 lần
(2004). Điều đó cũng có nghĩa rằng sự bất bình đẳng về tỉ lệ nghèo giữa nông
thôn và đô thị ngày càng lớn theo thời gian (1993 - 2004). Tức là nông thôn ngày
càng nghèo đi “tương đối” nhiều hơn so với đô thị. Tỷ lệ bất bình đẳng (theo tính
toán với hệ số Gini) tương đối thấp ở các vùng phần lớn dân số sống ở nông
thôn. Những huyện có tỉ lệ bất bình đẳng cao là những vùng có cả dân số nông
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 17
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
thôn và thành thị, với mức độ đô thị hoá từ 20– 80%. Các kết quả này khẳng định
quan điểm chung là các huyện thành thị có tỉ lệ bất bình đẳng cao hơn các huyện
nông thôn. Ở khu vực đô thị lớn lại có tỉ lệ bất bình đẳng cao, vì ở các vùng này
thường có các hộ giàu nhất cả nước và cả những hộ mới nhập cư thu nhập của họ
không cao hơn thu nhập của hộ nông thôn.
Trong giai đoạn 1993 – 1998, gia tăng bất bình đẳng nói chung chủ yếu
là sự gia tăng bất bình đẳng giữa đô thị và nông thôn, mặc dù tầm quan trọng của
nó trong bất bình đẳng chung hiện nay có xu hướng ngày càng giảm dần. Phân
tích hệ số bất bình đẳng Theil cho thấy nếu trong giai đoạn 1993 – 1998 gia tăng
bất bình đẳng ở Việt Nam là do gia tăng bất bình đẳng giữa các vùng thành thị và

nông thôn và chỉ có 4% còn giai đoạn 1998 – 2004 bất bình đẳng thành thị nông
thôn chiếm 39% toàn bộ bất bình đẳng.
2.3Tác động của quá trình hội nhập kinh tế tới bất bình đẳng Việt Nam
Sau 12 năm nỗ lực liên tục, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên
của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào tháng 1 năm 2007. Trong 12 năm
qua, Việt Nam đã có nhiều bước tiến lớn trong việc thực hiện cải cách và tự do
hóa nền kinh tế. Quá trình mở cửa, hội nhập đã cho thấy sản phẩm Việt Nam có
thể cạnh tranh và tìm được chỗ đứng ở nhiều thị trường trên thế giới. Kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam đã tăng gần 40 lần sau 20 năm, từ 789 triệu USD lên
32,4 tỷ USD, bình quân tăng trưởng 21,2%/năm. Giá trị xuất khẩu chiếm trong
GDP đạt mức 68,2% năm 2007 và 71,3% năm 2008. Nếu như năm 1986, Việt
Nam chưa có mặt hàng xuất khẩu nào có kim ngạch vượt quá 200 triệu USD thì
đến năm 2008, đã có rất nhiều mặt hàng có kim ngạch vượt 1 tỷ USD như là dầu
thô, điện tử và linh kiện điện tử, hàng may mặc, giày dép, thủy sản, gạo và sản
phẩm gỗ, chiếm hơn 2/3 tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam. Với những thành
quả kinh tế đáng khích lệ này đã tạo điều kiện cho Việt Nam thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế tạo điều kiện cho việc xóa đói giảm nghèo.
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 18
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
Quá trình mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, như một bộ
phận hữu cơ của công cuộc đổi mới, kết hợp và hỗ trợ quá trình giải phóng lực
lượng sản xuất trong nước, đã đem lại những thành quả to lớn về kinh tế, xã hội
trong hai thập kỷ vừa qua. Hội nhập kinh tế đã thúc đẩy kinh tế tăng trưởng
nhanh, đồng thời đã và đang tác động trực tiếp và gián tiếp, tích cực và tiêu cực,
phức hợp và đa diện về mặt xã hội. Tác động xã hội của quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế có thể được phản ánh gián tiếp thông qua tác động của quá trình này
đến tăng trưởng kinh tế, từ đó thúc đẩy sự phát triển con người, làm gia tăng mức
sống, giảm nghèo, phân tầng xã hội, hay góp phần làm biến đổi cơ cấu kinh tế.
Qua đó làm biến đổi cơ cấu xã hội, tác động tới quản lý kinh tế và xã hội, đến sự
thay đổi thể chế và công nghệ và làm biến đổi con người, các nhóm xã hội về tư

duy, hành vi…hay tác động trực tiếp tới quan hệ hợp tác và cạnh tranh giữa các
tổ chức kinh tế và xã hội, đến bất bình đẳng xã hội, cũng như tới xóa đói giảm
nghèo .
Hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy sự gia tăng mức sống nhưng cũng làm
gia tăng sự phân tầng xã hội.
Phân tầng xã hội phản ánh cấu trúc xã hội có bất bình đẳng giữa các
nhóm người trong quá trình vận động và phát triển của xã hội. Đối với một xã
hội có nền kinh tế chuyển đổi và đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng sâu rộng như nước ta, với tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao,
liên tục trong thời gian dài, thì nhiều khả năng phân tầng xã hội ngày càng gia
tăng. Đây trở thành vấn đề xã hội mang tính cấp thiết được quan tâm đặc biệt
trong giai đoạn hiện nay.
Phân tầng xã hội trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng
gia tăng, dù rằng xã hội Việt Nam đang phát triển tương đối công bằng so với các
nước khác cùng trình độ phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế đã chia sẻ lợi ích
cho đông đảo các tầng lớp xã hội, cho đa số người dân ở mọi vùng đất nước,
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 19
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
trong đó có cả người nghèo, các nhóm xã hội yếu thế. Nhưng vẫn còn sự khác
biệt, sự không công bằng và những nhóm hưởng lợi ít hơn, thậm chí bị rủi ro,
mất mát. Hệ số Gini tăng trong giai đoạn 1993 – 2002 (tăng từ 0,34 vào năm
1993 tới 0,37 năm 2002), hệ số này hầu như không thay đổi trong giai đoạn 2002
– 2004 và giảm nhẹ trong giai đoạn 2004 – 2006 (hệ số Gini giảm từ 0,37 vào
năm 2004 xuống 0,36 vào năm 2006).
Tuy nhiên bất bình đẳng tương đối đang tăng, nếu so sánh khoảng cách
chi tiêu dùng giữa nhóm 20% giàu nhất với 20% nghèo nhất. Năm 1993, chi tiêu
dùng của hộ gia đình giàu nhất gấp 5 lần so với các hộ nghèo nhất thì năm 2004
khoảng cách này tăng lên thành 6 lần. Tỷ lệ của nhóm giàu nhất trong tổng chi
tiêu dùng xã hội tăng từ 41.8% năm 1993 tăng lên 43.3% năm 2006 trong khi đó
tỷ lệ này của nhóm nghèo nhất lại giảm tương ứng từ 8.4% xuống còn 7.2% cùng

thời kỳ (Viện Khoa học xã hội Việt Nam).
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 20
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
Bảng 4: Tỷ lệ chi tiêu của các nhóm ngũ phân vị trong dân số(%)
Năm 1993 1998 2002 2004 2006
Nghèo nhất 8.4 8.2 7.8 7.1 7.2
Gần nghèo nhất 12.3 11.9 11.2 11.2 11.5
Trung bình 16.0 15.5 14.6 15.2 15.8
Gần giàu nhất 21.5 21.2 20.6 21.8 22.3
Giàu nhất 41.8 43.3 45.9 44.7 43.3
Tổng 100.0 100.0 100.0 100.0 100.0
Giàu nhất / Nghèo nhất 5.0 5.3 5.9 6.3 6.0
Hệ sồ Gini cho chi tiêu 0.34 0.35 0.37 0.37 0.36
(Nguồn: Báo cáo phát triển Việt Nam 2006)
Biểu đồ 2: Biểu đồ chi tiêu các nhóm dân cư năm 2004
chi tiêu các nhóm dân cư năm 2004
Nghèo nhất
Gần nghèo nhất
Trung bình
Gần giàu nhất
Giàu nhất
Biểu đồ 3: Biểu đồ chi tiêu các nhóm dân cư năm 2006
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 21
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
Chi tiêu các nhóm dân cư năm 2006
Nghèo nhất
Gần nghèo nhất
Trung bình
Gần giàu nhất
Giàu nhất

Đầu tư nước ngoài góp phần làm tăng bất bình đẳng
Sự mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế là nhân tố quan trọng thu hút nguồn
vốn đầu tư nước ngoài chảy vào Việt Nam. Trong những năm vừa qua, nguồn
vốn này không ngừng gia tăng và trở thành một bộ phận quan trọng trong tăng
trưởng kinh tế. Điều đó cũng thể hiện vai trò của FDI đối với việc hình thành thu
nhập của người dân Việt Nam. Tuy nhiên vốn FDI tập trung không đồng đều
cũng có thể là nguyên nhân gây ra sự chênh lệch thu nhập của các hộ gia đình.
Vốn FDI tập trung vào các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với 57.2%
vốn đăng ký và 49.6% vốn thực hiện cả nước. Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc
chiếm khoảng 26% tổng vốn FDI đăng ký và 28.7% vốn thực hiện. FDI trong
giai đoạn đổi mới và hội nhập vừa qua đã được tập trung vào lĩnh vực công
nghiệp và xây dựng (62.4% vốn đăng ký) mà phần lớn ở các thành thị. Trong giai
đoạn 2000-2005, việc làm mới được tạo ra bởi các doanh nghiệp FDI tăng trung
bình 24,4%/năm, bỏ xa khu vực doanh nghiệp nhà nước và tư nhân (lần lượt là
3,3% và 2,3%). Kết quả là tỷ trọng việc làm được tạo ra bởi các doanh nghiệp
FDI đã tăng từ 0,6% năm 2000 lên 1,6% năm 2005 ở Việt Nam. Tuy con số này
còn rất khiêm tốn nhưng với đà tăng trưởng nhanh như vậy, đặc biệt là sau khi
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 22
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
Việt Nam gia nhập WTO, triển vọng việc làm được tạo ra bởi thành phần kinh tế
này khá sáng sủa.
Trong ngắn hạn làn sóng FDI vào Việt Nam có thể làm tăng sự bất bình
đẳng về thu nhập không chỉ ở khu vực thành thị, mà cả giữa khu vực thành thị và
nông thôn. Mức lương cao hơn ở khu vực thành thị sẽ kích thích làn sóng nhập
cư từ nông thôn, trong khi thu nhập của lao động ở nông thôn không được cải
thiện. Điều này làm khoảng cách giữa vùng kinh tế trọng điểm với các vùng
khác, giữa nông thôn và thành thị, giữa các nhóm lao động, giữa các ngành nghề
và các khu vực kinh tế bị giãn ra tương đối.
Hội nhập kinh tế thế giới tạo ra môi trường cạnh tranh gay gắt hơn bao
giờ hết tạo ra những thử thách đối với mọi mặt nền kinh tế. Đáng ngại nhất là đối

với khu vực nông thôn nói chung và nông nghiệp nói riêng. Việt Nam đã và đang
bị thử thách bởi Hiệp định thương mãi Mỹ Việt (US-VN Bilateral Trace
Agreement), gọi tắt là BTA và khu vực thương mại tự do Đông Nam Á (ASEAN
Free Trade Area) gọi tắt là AFTA. Nhưng ảnh hưởng của WTO sẽ mạnh mẽ hơn
nhiều vì hai lý do chính: luật lệ của WTO đòi hỏi nhiều hơn AFTA và BTA, và
áp dụng chung cho tất cả các nước hội viên buôn bán với Việt Nam; những nước
hội viên đã gia nhập WTO có quyền áp đặt những điều kiện khắt khe hơn đối với
những quốc gia đang thương lượng xin vào. Ví dụ Trung Quốc mới vào WTO,
đã gây một vài khó khăn cho Việt Nam. Khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ rất có
thể phải chấm dứt mọi hình thức trợ cấp nông dân, trong khi đó, những nước Tây
phương, đặc biệt là Hoa Kỳ, Liên Hiệp Âu Châu và Nhật Bản, là những nước hội
viên ngay từ khi WTO thành lập vào năm 1995 vẫn có quyền chi tiêu khoảng 300
tỉ đô la để tài trợ nông dân của họ hàng năm. Khu vực nông thôn của Việt Nam
sẽ bị ảnh hưởng nặng nhất vì kỹ thuật nông nghiệp của Việt Nam vẫn còn thô sơ,
năng suất tương đối thấp, giá sản suất lại cao. Thí dụ giá bắp và đậu nành nội địa
lần lượt vào khoảng trên 140 USD /tấn và 350 USD /tấn, so với giá trên thị
trường quốc tế vào khoảng 80 USD/tấn và 180 USD /tấn vào năm 2001.
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 23
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
Ngoài ra, hạ tầng cơ sở ở nông thôn Việt Nam vẫn còn lạc hậu, mặc dù đã
đạt được nhiều tiến bộ trong vài năm qua. Đường xá và hải cảng thiếu phát triển
làm gia tăng thời gia và chi phí chuyên chở. Trong tình trạng như vậy, khu vực
nông thôn và nông nghiệp của Việt Nam sẽ bị đe dọa bởi ảnh hưởng tiêu cực của
làn sóng toàn cầu hóa, đặc biệt đối với những nông phẩm sản xuất với số lượng
lớn như bắp, đậu nành, đường và bông gòn. Toàn cầu hóa có khuynh hướng biến
đổi một nền nông nghiệp tự túc, đa canh và ở mức độ gia đình của một nước
chậm tiến như Việt Nam thành một nền nông nghiệp doanh thương, hướng về
xuất cảng và đơn canh. Như vậy, toàn cầu hóa trong trường hợp này đe dọa an
ninh thực phẩm quốc gia.
Những cuộc cải tổ và phát triển kinh tế, nhất là những dự án đầu tư ngoại

quốc vào công nghệ, thường tập trung tại các khu vực thành thị, do đó nông dân
không được hưởng sự phát triển kinh tế đồng đều. Lợi tức không tăng bằng khu
vực thành thị. Khác biệt giàu nghèo càng ngày càng lớn. Kết quả của cuộc điều
nghiên của tổng cục thống kê Việt Nam vào năm 2002 cho thấy lợi tức của nhóm
người thuộc 10% giàu nhất gấp 12.5 lợi tức của nhóm người thuộc 10% nghèo
nhất ở Việt Nam. Điều này gây ra một ảnh hưởng của việc gia nhập WTO đó là
sẽ làm tăng thêm khoảng cách giữa thành thị và nông thôn một cách đáng kể. Lý
do là phần lớn đầu tư mới của nước ngoài sẽ đổ vào vùng thành thị, đặc biệt là
khu vực mới được mở cửa như ngành du lịch bao gồm bảo hiểm, ngân hàng, bán
lẻ và bán sỉ, xuất nhập cảng, phân phối, chuyên chở, giải trí, pháp lý, xây cất, địa
ốc, viễn thông, … Trong khi đo mức tiêu thụ của nhóm người giàu sẽ làm gia
tăng giá cả. Lợi tức của nông dân tăng ít hơn lợi tức ở thành thị và chậm hơn tốc
độ tăng của giá cả vì vậy mức sống của nông dân sẽ giảm. Đó là trường hợp đã
xảy ra tại Trung Quốc và rất có thể xảy ra tại Việt Nam như nhiều nhà phân tích
đã phán đoán.
Như vậy chúng ta việc hội nhập sâu hơn vào kinh tế thế giới có thể đã
làm gay gắt hơn bất bình đẳng của Việt Nam trong những năm vừa qua. Khi tốc
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 24
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: PGS. TS Phan Thị Nhiệm
độ tăng trưởng kinh tế cao hơn tất yếu sẽ làm thay đổi nhiều mặt về xã hội, trong
đó có thể làm gia tăng bất bình đẳng xã hội bởi vì chênh lệch trong đầu tư FDI
giữa các vùng, bởi cơ hội việc làm và thu nhập là khác nhau giữa nhiều nhóm xã
hội, vốn vật chất, vốn tài nguyên, vốn tài chính, vốn con người giữa các nhóm
này. Các nhóm nông dân thiếu đất hay bị mất đất canh tác, bị tổn thương bởi
thiên tai, dịch bệnh hay ủi ro cá nhân, đồng bào dân tộc thiểu số ở các vùng sâu,
vùng xa, người di cư tự do vào các đô thị, người nghèo và cận nghèo... là các
nhóm dễ rơi xuống đáy của các thang bậc xã hội và lâm vào cảnh bần cùng hơn.
Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa Kế hoạch Phát triển Trang 25

×