Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

TIỂU LUẬN: Tăng cường huy động vốn tại NHTMCP Công Thương Việt Nam – Chi nhánh Nam Thăng Long ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 78 trang )







TIỂU LUẬN:
Tăng cường huy động vốn tại
NHTMCP Công Thương Việt Nam –
Chi nhánh Nam Thăng Long






LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập phát triển và cạnh tranh toàn cầu hiện nay, đi đôi với sự
phát triển cũng đồng nghĩa với việc loại bỏ những cá thể yếu, không có khả năng cạnh
tranh đứng vững trên thị trường. Vậy để trở thành một cá thể mạnh, có khả năng phát
triển bền vững trên thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn cố gắng nỗ lực xây dựng
một doanh nghiệp với quy mô và trình độ quản lý tốt đạt hiệu quả kinh doanh. Ngân hàng
cũng là một nghành không nằm ngoài quy luật đó đặc biệt là các NHTM với việc kinh
doanh mang tính đặc thù là kinh doanh tiền tệ. Như vậy để phát triển và kinh doanh tốt
đòi hỏi ngân hàng luôn phải đảm bảo khối lượng tiền tệ cho việc kinh doanh được thuận
lợi.
Trong thời kì hiện nay, khi cơn khủng hoảng tài chính (xuất phát từ Mỹ và ảnh
hưởng tới toàn cầu) vừa đi qua đã để lại cho nền kinh tế những tác động xấu ảnh hưởng
đến toàn bộ nền kinh tế. Không chỉ các doanh nghiệp sản xuất hay kinh doanh mà ngay
cả các NHTM mạch máu của nền kinh tế cũng bị tác động ảnh hưởng lớn. Do đó việc
kinh doanh của các NHTM cũng gặp không ít khó khăn khi khối lượng tín dụng thì lớn


mà nguồn vốn ngân hàng có thể huy động chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu tín dụng
của nền kinh tế.
Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn duy trì phổ biến thói quen dùng tiền mặt cho thấy
được Việt Nam vẫn còn là tiềm năng cho sự phát triển của các ngân hàng, tuy nhiên các
ngân hàng luôn luôn lâm vào tình trạng thiếu vốn kinh doanh có thể thấy được tầm quan
trọng của vấn đề vốn. Đặc biệt NHTMCP Công Thương Việt Nam cũng là một đơn vị
luôn luôn muốn tăng cường nguồn vốn huy động để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh
cũng như hoàn thành mục tiêu kế hoạch thu hút vốn được giao. Chính vì lý do đó mà em
đã chọn đề tài: “Tăng cường huy động vốn tại NHTMCP Công Thương Việt Nam –
Chi nhánh Nam Thăng Long” cho chuyên đề thực tập cuối khóa của mình nhằm tìm
hiểu sâu sắc hơn về vấn đề huy động vốn cũng như tăng cường huy động vốn của các
NHTM nói riêng và NHTMCPCTVN – CN Nam Thăng Long đồng thời đóng góp một
phần nhỏ về cái nhìn trực quan về công tác huy động vốn cho chi nhánh.



Kết cấu đề tài gồm 3 phần:
Chương 1: Lý luận cơ bản về công tác huy động vốn của NHTM
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại NHTMCPCTVN–CN Nam Thăng
Long.
Chương 3: Một số biện pháp nhằm tăng cường công tác huy động vốn tại
NHTMCPCTVN – CN Nam Thăng Long.



Chương 1: Lý luận cơ bản về công tác huy động vốn của NHTM

1.1 Tổng quan về NHTM.
1.1.1. Khái quát về NHTM
1.1.1.1. Khái niệm về NHTM.

Có thể nói ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Nó như một lẽ tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển của một xã hội.
Ngân hàng được hình thành và phát triển cùng với sự tiến bộ xã hội nói chung và sự phát
triển của nền kinh tế nói riêng. Ngân hàng đầu tiên được thành lập năm 1782 với những
hoạt động sơ khai, nhưng cùng với sự phát triển của xã hội đến nay ngân hàng đã trở
thành một hệ thống tài chính lớn và được coi như huyết mạch của nền kinh tế. Có thể có
rất nhiều những quan niệm khác nhau về ngân hàng nhưng có thế hiểu ngân hàng là các
tổ chức tài chính cung cấp một dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết
kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một
tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Có rất nhiều cách tổ chức và quản lý hệ thống ngân hàng, tùy thuộc vào trình độ
quản lý cũng như sự tiến bộ của từng xã hội. Ở Việt Nam thì hệ thống ngân hàng được
chia làm hai cấp. Bao gồm cấp 1 là Ngân hàng nhà nước và cấp 2 là các ngân hàng
thương mại. Ngân hàng nhà nước đóng vai trò như là ngân hàng của các ngân hàng
thương mại. Còn hệ thống các NHTM bao gồm các NHTM Quốc doanh, NHTM cổ phần,
ngân hàng tư nhân, với chức năng chính là trung gian tài chính và thực hiện các dịch vụ
ngân hàng. Có thể hiểu khái quát về ngân hàng thương mại thông qua một số khái niệm
về ngân hàng thương mại sau:
Tại Mỹ : Ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp các
dịch vụ tài chính và hoạt động trong nghành công nghiệp dịch vụ tài chính.



Tại Pháp: ngân hàng thương mại là những doanh nghiệp hay cơ sở nào thường
xuyên nhận của công chúng dưới hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ
vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
Ở Việt Nam hiện nay theo luật tổ chức tín dụng 12/12/1997 thì : “Ngân hàng thương
mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các
hoạt động khác có liên quan”. (Trong đó : tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp
được thành lập theo luật này và các quy định khác của pháp luật liên quan để hoạt động

kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi
để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán). Như vậy thì ngân hàng thương mại
theo quan niệm trên chỉ ra một cách rất chung chung về ngân hàng thương mại nhưng
chúng ta có thể hiểu rằng ngân hàng thương mại là một tổ chức tín dụng nhưng nó được
thực hiện thêm các nghiệp vụ mà một tổ chức tín dụng không được thực hiện.
1.1.1.2. Các chức năng của của ngân hàng.
Trung gian tài chính.
Ngân hàng hoạt động chủ yếu là chuyển tiền tiết kiệm thành đầu tư, do đó đòi hỏi
phải có sự tiếp xúc với các tổ chức hay cá nhân trong nền kinh tế, những cá nhân, tổ
chức kinh tế có thể thừa vốn, họ không biết kinh doanh hay đầu tư vào đâu và cả những
cá nhân hay tổ chức kinh tế họ đang có nhu cầu đầu tư hay kinh doanh vào đâu đó nhưng
lại không có vốn. Vậy làm sao để cả các chủ thể thiếu vốn và các chủ thể thừa vốn gặp
nhau. Đây là một vấn đề lớn bởi chủ thể thừa vốn và thiếu vốn có thể gặp nhau nhưng họ
lại không thể đáp ứng tuyệt đối nhu cầu của nhau bởi tính quy mô, không gian và thời
gian, tính an toàn và tính sinh lời hợp lý,….Vì vậy ngân hàng ra đời đóng vai trò là trung
gian đáp ứng được nhu cầu cho các bên, bên chủ thể thừa vốn thì có thể đáp ứng nhu cầu
về mức sinh lời do cách quản lý khoa học của ngân hàng sẽ làm giảm chi phí phát sinh
nghiệp vụ, cũng như cam kết về tính an toàn của số vốn mà chủ thể đã bỏ ra để đảm bảo
yêu cầu, trong khi đó thì các chủ thể thiếu vốn có thể tìm thấy nguồn vốn của mình đảm
bảo về tính quy mô, tính sinh lời của nguồn vốn. Do quản lý mang tính khoa học và chuyên
môn hóa mà những trung gian tài chính đã đáp ứng được nhu cầu cho chủ thể thừa vốn và



chủ thể thiếu vốn về mặt sinh lời của đồng vốn đã kích thích tiết kiệm và đầu tư, trung gian
tài chính đã tập hợp được vốn giải quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp.
Với vai trò là trung gian tài chính ngoài ra ngân hàng còn khỏa lấp được lỗ hổng do
sự không hoàn hảo của thị trường tài chính gây ra, khi các ngân hàng đứng ra bảo lãnh
cho các công ty cổ phần phát hành chứng khoán. Làm nhiệm vụ đưa chứng khoán ra công
chúng đầu tư với những thông tin cần thiết, tạo được sự tin tưởng cho nhà đầu tư.

Ngoài ra ngân hàng còn là một tổ chức kinh doanh rủi ro, trong khi ngân hàng nhận
tiền gửi của khách hàng với một sự đảm bảo an toàn về số vốn mà họ có thể nhận được
trong tương lai nhưng ngân hàng lại đem cho vay với rủi ro khá cao để nhận lại được tiền
lãi trong tương lai và đem lại lợi nhuận cho ngân hàng, bằng những nghiệp vụ chuyên
môn hóa và được đào tạo bài bản, ngân hàng tìm kiếm khách hàng phù hợp với mình sao
cho đáp ứng được các điều kiện về rủi ro có thể thu hồi vốn. Điều đó cũng chính là yếu tố
làm cho ngân hàng ngày càng hoàn thiện hơn và phát triển ngày càng rộng rãi hơn với
chức năng thẩm định thông tin .
Tạo phương tiện thanh toán.
Nhờ đặc trưng đi vay và cho vay của ngân hàng mà ngân hàng đã tạo ra phương tiện
thanh toán.Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng như hiện nay khách hàng
hiểu rằng nếu họ có số dư trên tài khoản thanh toán thì họ có thể chi trả để có được món
hàng hóa hoặc dịch vụ theo yêu cầu. Do đó hiện nay dịch vụ thanh toán qua ngân hàng
với rất nhiều ưu điểm đang ngày càng phát triển và trở nên phổ biến hơn. Theo quan điểm
hiện đại thì đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ nhất đó là lượng tiền giấy, tiền
xu trong lưu thông, thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của khách hàng, và
thứ ba là số dư tiền gửi trên tài khoản tiết kiệm hoặc tài khoản tiền gửi có kì hạn của
khách hàng,… Trong khi đó nhu cầu thanh toán của khách hàng khá lớn do đó khách
hàng cần phải đi vay ngân hàng. Khi ngân hàng cho vay thì số dư trên tài khoản thanh
toán của khách hàng tăng lên. Do đó mà bằng việc cho vay hay nói cách khác là tạo tín
dụng mà ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán.



Thậm chí toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các
khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay.
Khi khách hàng tại một ngân hàng dùng tiền vay để chi trả cho một khách hàng khác
thuộc một ngân hàng khác, từ đó tạo ra các khoản cho vay khác, cứ như thế nên toàn bộ
hệ thống ngân hàng có thể tạo ra lượng tiền gửi gấp bội thông qua hoạt động cho vay. Do
đó cần phải có sự điều tiết để kiểm soát tình trạng này, và chính phủ các quốc gia đã sử

dụng công cụ như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ thanh toán tiền mặt qua ngân hàng để khống
chế và kiểm soát.
Trung gian thanh toán.
Ngân hàng thực hiện chức năng thanh toán hộ cho khách hàng. Ở hầu hết các quốc
gia hiện nay ngân hàng là một trung gian thanh toán phổ biến nhất, thay mặt khách hàng
của mình ngân hàng thực hiện thanh toán cho các hàng hóa và dịch vụ theo yêu cầu của
khách hàng. Để thuận tiện cho việc thanh toán ngân hàng đã đưa ra cho khách hàng
nhiều hình thức thanh toán phù hợp thuận tiện, phạm vi thanh toán ngày càng phát
triển tại các ngân hàng, không chỉ là trong cùng hệ thống ngân hàng, mà còn trong cả
nước với các ngân hàng trong nước và các ngân hàng quốc tế.
1.1.1.3. Các hoạt động chủ yếu của NHTM.
Theo thời gian cùng với sự phát triển của xã hội, cùng với đòi hỏi khách quan các
hoạt động của ngân hàng ngày càng phong phú và đa dạng hơn.
Hoạt động huy động vốn.
Nhận tiền gửi:
Do nguồn vốn tự có của ngân hàng rất ít thường vào khoảng tầm 10% lượng vốn
kinh doanh do đó việc huy động vốn (huy động tiền gửi) là rất quan trọng. Và một trong
những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng,
ngân hàng nhận tiền gửi của khách hàng với cam kết là sẽ trả đủ cả gốc và lãi cho khách
hàng đúng thời gian giao ước. Trong môi trường cạnh tranh để tìm và giành được các
khoản tiền gửi các ngân hàng đã phải trả lãi cho các khoản tiền gửi như là một phần



thưởng cho khách hàng về việc đã sẵn sàng hy sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho
phép ngân hàng tạm thời sử dụng số tiền đó để kinh doanh. Số tiền đó ngân hàng sẽ đem
cho vay lại để nhận được khoản lãi cao hơn, phần chênh lệch về lãi là nguồn thu chủ yếu
của các ngân hàng.
Phát hành các giấy tờ có giá.
Đây chính là việc các NHTM phát hành các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu ngân

hàng, trái phiếu ngân hàng,… gọi chung là các giấy tờ có giá để huy động vốn. Thực chất
của các giấy tờ có giá là các giấy nhận nợ mà ngân hàng trao cho những người cho ngân
hàng vay tiền để xác định quyền đòi nợ của khách hàng đối với ngân hàng ở một mức lãi
suất và ngày trả nhất định. Đặc điểm của nguồn huy động này là tính ổn định cao, gần
như tuyệt đối bởi khách hàng không thể tự ý trả lại giấy tờ cho ngân hàng mà tuyệt đối
thực hiện cam kết đến hạn trả. Trong hình thức này, ngân hàng chủ động đứng ra thu gom
vốn trong nền kinh tế bằng việc phát hành các giấy tờ có giá. Việc huy động vốn chỉ được
thực hiện sau khi đã tiến hành lên cân đối toàn bộ hệ thống ngân hàng giữa nguồn vốn và
sử dụng vốn. Khi khả năng nguồn vốn của toàn hệ thống không đáp ứng đủ nhu cầu sử
dụng vốn của toàn hệ thống, nếu được NHNN chấp nhận thì các NHTM mới được phép
phát hành giấy tờ có giá để huy động vốn
Hoạt động sử dụng vốn.
Cho vay:
Hoạt động cho vay là hình thức các ngân hàng cho khách hàng mượn tạm một số
tiền và khách hàng cam kết sẽ trả gốc và lãi cho ngân hàng theo thỏa thuận của hai bên,
khoản lãi nhận được sẽ được trang trải cho các khoản chi phí phải bỏ ra để có được khoản
tiền mà ngân hàng đưa cho khách hàng vay. Hoạt động cho vay là hoạt động chính của
các ngân hàng thương mại.
Tài trợ cho dự án:



Ngoài việc cho vay thì các ngân hàng còn sử dụng tài sản của mình bằng cách trực
tiếp đầu tư vào các dự án như tài trợ xây dựng nhà máy, phát triển nghành công nghệ cao.
Thậm chí hiện nay còn có nhiều ngân hàng đầu tư vào lĩnh vực bất động sản.
Tài trợ hoạt động của chính phủ:
Việc có thể huy động và cho vay với khối lượng vốn lớn của ngân hàng đã khiến
chính phủ phải quan tâm chú ý do nhu cầu chi tiêu lớn và cấp bách trong khi thu không
đủ bù chi. Các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của ngân hàng, hiện nay
thì hầu hết ở các quốc gia thì chính phủ giành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các

ngân hàng do đó để thành lập hoạt động kinh doanh thì các ngân hàng phải cam kết là sẽ
thực hiện một số chính sách của chính phủ như mua một tỷ lệ trái phiếu nhất định cho
chính phủ thường là một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi nhất định mà ngân hàng
huy động được.
Cho thuê thiết bị trung và dài hạn (cho thuê tài chính):
Nhằm để đảm bảo được các khoản tín dụng hợp lý các ngân hàng đã phát triển hoạt
động cho thuê thiết bị trung và dài hạn, vừa giúp cho ngân hàng có thể thu lời, vừa đảm
bảo đáp ững nhu cầu doanh nghiệp và đảm bảo được tính hợp lý của tín dụng. Bởi vậy
khách hàng thuê của ngân hàng nhưng với điều kiện là phải trả 70% đến 100% giá trị của
tài sản đó, và khi kết thúc hợp đồng doanh nghiệp có thể mua lại máy móc thiết bị đó từ
phía ngân hàng nếu có điều kiện và thường là với mức giá ưu đãi hơn.
Hoạt động khác.
Mua bán ngoại tệ:
Đây là hoạt động ngân hàng mua ngoại tệ bằng ngoại tệ khác nhằm ăn chênh lệch
giá. Đây là một trong những nghiệp vụ đầu tiên ngân hàng được thực hiện. Hoạt động
này ngày càng được mở rộng và hiện đại hơn bới các công cụ mới (công cụ phái sinh).
Bảo quản tài sản hộ:
Là việc các ngân hàng thực hiện lưu trữ và bảo vệ các vật có giá trị như vàng, giấy
tờ có giá,… và các tài sản khác cho khách hàng trong két để đảm bảo an toàn, bí mật,



thuận tiện. trong đó khách hàng phải trả các khoản phí cho ngân hàng để đảm bảo cho
dịch vụ. Từ đó cũng phát sinh nhiều những nghiệp vụ như mua bán hộ cho khách các
giấy tờ có giá, thanh toán lãi hoặc cổ tức hộ cho khách,…
Cung cấp các tài khoản giao dich và thực hiện thanh toán.
Không chỉ có các tài khoản tiền gửi, mà ngân hàng còn mở các tài khoản thanh toán
cho khách hàng thực hiện thanh toán hộ các hàng hóa dịch vụ theo yêu cầu của khách
hàng. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, có
nghĩa là khách hàng không cần phải đến ngân hàng rút tiền ra để mang đi chi trả cho đối

tác mà khách hàng chỉ cần đến ngân hàng viết giấy thông báo cho ngân hàng là sẽ thanh
toán số tiền cho đối tác này hoặc khách hàng có thể viết giấy cho đối tác của họ để họ
mang giấy tới ngân hàng nhận tiền. Các tiện ích của không dùng tiền mặt đã và đang là
ưu thế và là xu hướng của các quốc gia đang phát triển mà có thói quen dùng tiền mặt
được. Đặc biệt khi ngân hàng mở rộng mạng lưới chi nhánh, phạm vi thanh toán qua ngân
hàng càng được mở rộng, càng tạo được nhiều tiện ích hơn, điều này đã khuyến khích khách
hàng gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Cùng với sự phát triển của
công nghệ thông tin mà hiện nay có rất nhiều hình thức thanh toán tiện ích và thích hợp với
mọi đối tượng khách hàng.
Quản lý ngân quỹ:
Nhờ tính chuyên môn hóa trong quản lý ngân quỹ mà ngân hàng còn mở thêm dịch
vụ quản lý ngân quỹ cho các khách hàng có mối liên hệ với ngân hàng, do nhu cầu thanh
toán lớn tại các doanh nghiệp mà các doanh nghiệp thường có tài khoản thanh toán tại
ngân hàng và gửi tiền mặt vào đó, trong thời gian chưa thanh toán tài khoản của doanh
nghiệp còn thặng dư quỹ tiền mặt ngân hàng sẽ thực hiện kinh doanh các chứng khoán,
giấy tờ có giá ngắn hạn sinh lời cho khách hàng cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để
thanh toán.
Bảo lãnh:



Là việc ngân hàng dùng uy tín của mình để đảm bảo cho khách hàng thực hiện được
yêu cầu của mình như bảo lãnh mua chịu hàng hóa, trang thiết bị, phát hành chứng
khoán, vay vốn,… và khách hàng được bảo lãnh phải trả cho ngân hàng một khoản phí
gọi là phí bảo lãnh. Trong những năm gần đây nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng phát triển
và được chú trọng hơn bởi phí bảo lãnh khá lớn và nhu cầu bảo lãnh cũng ngày càng tăng
lên, đây là một nguồn thu lớn cho ngân hàng.
Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn:
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính nên các ngân hàng có rất nhiều những chuyên
gia về quản lý tài chính, do đó phát sinh nhiều doanh nghiệp muốn nhờ ngân hàng quản

lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ ủy thác còn phát triển sang cả ủy
thác vay hộ, ủy thác cho vay, ủy thác phát hành, ủy thác đầu tư,…
Cung cấp dịch vụ môi giới và đầu tư chứng khoán:
Các ngân hàng luôn nỗ lực hết mình cung cấp đầy đủ các dịch vụ để thỏa mãn mọi
nhu cầu của khách hàng, đó chính là lý do khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ
môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và
các chứng khoán khác, trong nhiều trường hợp các ngân hàng tổ chức ra công ty
chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán để cung cấp dịch vụ môi giới.
Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm:
Từ nhiều năm nay các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, dịch vụ bảo
hiểm chính là việc đảm bảo hoàn trả trong trường hợp khách hàng xảy ra rủi ro mất khả
năng thanh toán. Ngân hàng liên doanh liên kết với các công ty bảo hiểm để đảm bảo
thực hiện nghiệp vụ này một cách chuyên nghiệp.

Cung cấp các dịch vụ đại lý:
Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn
phòng ở khắp nơi, nhiều ngân hàng cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng



khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối cho
trong đồng tài trợ,…
1.1.2. Nguồn vốn của NHTM.
1.1.2.1. Vốn chủ sở hữu:
Nguồn vốn hình thành ban đầu:
Phải tùy vào tính chất của từng ngân hàng mà nguồn vốn ban đầu được hình thành
khác nhau, với ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước thì vốn hình thành ban đầu là do ngân
sách nhà nước cấp, còn nếu là ngân hàng cổ phần thì vốn ban đầu là do các cổ đông đóng
góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiêu, nếu là ngân hàng liên doanh là do các bên liên
doanh tự đóng góp, nếu là ngân hàng tư nhân thì vốn thuộc sở hữu tư nhân bỏ ra.

Nguồn bổ sung trong quá trình hoạt động.
Trong quá trình hoạt động của mình ngân hàng có thể gia tăng nguồn vốn theo nhiều
hình thức khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể:
Nguồn từ lợi nhuận: Đây thường là nguồn bổ sung chủ yếu của ngân hàng bởi lợi
nhuận ròng của ngân hàng thường khá lớn, và chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn
của chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư và tỷ lệ tích lũy tùy
thuộc vào cân nhắc của chủ ngân hàng về tích lũy và tiêu dùng. Những ngân hàng được
thành lập lâu năm, thu nhập ròng lớn thì nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận sẽ cao hơn
nguồn vốn của chủ hình thành ban đầu.
Nguồn bổ sung khác: bao gồm phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm,… để
mở rộng quy mô hoạt động hoặc để đổi mới trang thiết bị hoặc để đáp ứng yêu cầu do
NHNN yêu cầu. Tuy nguồn vốn này là không thường xuyên nhưng nó giúp cho ngân
hàng có được lượng vốn sở hữu vào lúc cần thiết.
Các quỹ
Ngân hàng có nhiều quỹ khác nhau và mỗi quỹ lại có mục đích sử dụng khác nhau.
Quỹ dự phòng tổn thất là quỹ được trích lập hàng năm và được tích lũy lại nhằm bù đắp



tổn thất xảy ra. Quỹ bảo tồn vốn nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm
phát. Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa thị giá
và mệnh giá cổ phiếu khi phát hàng cổ phiếu mới,… Tùy theo quy định của từng quốc gia
mà các ngân hàng hình thành các quỹ khác nhau.
Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Một số khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng thương mại ( như trái phiếu
chuyển đổi) được ngân hàng quy định có thể chuyển đổi thành vốn cổ phần. Đây là
khoản nợ lưỡng tính do đó mà các ngân hàng nhiều quốc gia xếp chúng vào vốn chủ sở
hữu loại 2 với tỷ lệ 50 % để tính chỉ số an toàn vốn của chủ.
1.1.2.2. Nguồn vốn huy động.
Đây là nguồn huy động quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi một ngân

hàng bắt đầu đi vào hoạt động, việc đầu tiên là phải mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ
và thanh toán hộ cho khách hàng. Bằng cách đó mà ngân hàng huy động được tiền gửi
của các cá nhân và các tổ chức. Đây cũng là nguồn tiền chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
nguồn tiền của ngân hàng , để huy động được nguồn vốn này lớn các ngân hàng cạnh
tranh nhau bằng nhiều hình thức khác nhau với các sản phẩm tiền gửi khác nhau.
Tiền gửi thanh toán của khách hàng.
Đây là khoản tiền mà các cá nhân hoặc doanh nghiệp gửi vào ngân hàng nhờ ngân
hàng thanh toán hộ, trong phạm vi số dư cho phép và các điều kiện thỏa đáng thì các yêu
cầu của khách hàng luôn được ngân hàng thực hiện, và các khoản thu của doanh nghiệp
và các cá nhân đều có thể được nhập vào đầy đủ trong tài khoản thanh toán của khách
hàng theo yêu cầu. Loại tiền gửi tiết kiệm này có lãi suất thấp, gần như là bằng không
tuy nhiên khách hàng lại được hưởng những dịch vụ thanh toán với khoản phí rất thấp và
chất lượng phục vụ cao. Do lượng tiền thanh toán nhiều và thời gian có thể chưa phải
thanh toán ngay do đó nguồn huy động này cũng đang là một nguồn quan trọng và các
ngân hàng cũng đưa luôn đưa ra các hình thức khuyến mại để huy dộng lượng tiền này.
Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội.



Nhiều doanh nghiệp có những khoản thu mà chưa cần thanh toán ngay trong khi đó
lãi suất tiền gửi thanh toán ngay lại quá thấp nên các doanh nghiệp thường lựa chọn hình
thức gửi tiền có kì hạn để hưởng mức lãi suất cao hơn, tuy nhiên đồng nghĩa với mức lãi
suất cao thì số tiền đó cũng không được sử dụng trong thời gian cam kết của khách hàng
với ngân hàng, nếu như khách hàng muốn sử dụng thì phải đến ngân hàng yêu cầu sử
dụng khoản tiền đó và chịu mức lãi suất không kì hạn.
Tiền gửi tiết kiệm của dân cư:
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập mà họ tạm thời chưa dùng đến và họ
rất muốn có được sự an toàn vầ đảm bảo khả năng sinh lời, do đó họ mang đến ngân hàng
và gửi. Đó là một nguồn vốn không nhỏ trong dân cư, và các ngân hàng luôn muốn
khuyến khích dân chúng không dùng tiền mặt nên các ngân hàng đã mở ra các tài khoản

không chỉ là các tài khoản tiền gửi thông thường mà còn bao gồm các tài khoản tiền gửi
ngoại tệ, tài khoản vàng,…. Và ngân hàng có thể mở cho khách hàng các tài khoản (sổ
tiết kiệm) với các thời hạn khác nhau. Những sổ tiết kiệm này khách hàng không thể
thanh toán hàng hóa được, tuy nhiên thì sổ tiết kiệm này được phép thế chấp và vay vốn
cho ngân hàng.
1.1.2.3. Nguồn đi vay.
Tiền gửi luôn là một nguồn quan trọng của ngân hàng, tuy nhiên nó không phải
lúc nào cũng đáp ứng nhu cầu những khi ngân hàng cần vốn cấp bách. Khi đó ngân hàng
phải tìm đến một giải pháp đó là đi vay đặc biệt là để đảm bảo nhu cầu thanh toán.
Vay Ngân hàng nhà nước.
Ở Việt Nam thì các ngân hàng thương mại để đáp ứng nhu cầu chi trả thanh toán
cho khách hàng thì ngân hàng cần phỉ đi vay, đầu tiên là ngân hàng sẽ đi vay NHNN hay
còn gọi là ngân hàng trung ương và ngân hàng trung ương sẽ cho ngân hàng thương mại
vay theo hình thức tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn). Các thương phiếu đã được các ngân
hàng thương mại chiết khấu (hoặc tái chiết khấu) trở thành tài sản của họ. Khi cần
NHTM mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại NHNN. Nghiệp vụ này sẽ



làm cho thương phiếu của NHTM giảm đi đồng thời dự trữ (tiền mặt hoặc tiền gửi trong
NHNN) tăng lên. NHNN điều hành vay mượn này một cách rất chặt chẽ, các NHTM phải
đảm bảo thực hiện một số điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường thì
NHNN chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu đảm bảo chất lượng (có khả năng trả
nợ cao, thời gian đáo hạn ngắn và khả năng trả nợ cao) và đảm bảo phù hợp với mục tiêu
của ngân hàng trong từng thời kì. Trong điều kiện NHTM chưa có thương phiếu thì
NHNN sẽ cho các NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng theo quy
định.
Vay các tổ chức tín dụng khác.
Khi các NHTM không đủ thỏa mãn để vay tiền của NHNN nữa thì họ có thể vay
tiền của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Trong khi đó có một số

ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền
huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm
mức lãi suất cao hơn. Ngược lại các ngân hàng đang có lượng dự trữ bị thiếu hụt có nhu
cầu vay để đảm bảo thanh toán. Do đó nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp
ứng nhu cầu dự trữ cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho
nguồn vay mượn từ NHNN. Việc vay mượn trong thị trường liên ngân hàng rất đơn giản, chỉ
cần ngân hàng có yêu cầu vay mượn gọi điện hoặc liên lạc trực tiếp cho ngân hàng cho vay.
Và khoản vay không cần đảm bảo hoặc cũng có thể được đảm bảo bởi các chứng khoán kho
bạc. Nghiệp vụ này sẽ làm cho dự trữ của ngân hàng đi vay tăng lên và dự trữ của ngân hàng
cho vay giảm đi.
Vay trên thị trường vốn.
Cũng như các doanh nghiệp, các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành
các giấy tờ nợ như kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu trên thị trường vốn. Nhiều khi khoản
tiền gửi trung và dài hạn không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy
các khoản đi vay bằng việc phát hành các giấy từ có giá này là một khoản đáp ứng nhu
cầu cho vay trung và dài hạn. Thông thường đây là những khoản tiền vay không có đảm
bảo do đó ngân hàng nào lớn có uy tín và lãi suất càng cao thì sẽ càng vay được nhiều



hơn các ngân hàng khác. Còn những ngân hàng nhỏ không có khả năng vay vốn được
trên thị trường này thì phải vay thông qua các ngân hàng đại lý hoặc thông qua các sự bảo
lãnh của các ngân hàng lớn. Để vay được nguồn vốn này một cách có hiệu quả thì các
ngân hàng này cũng cần phải nghiên cứu kỹ về nghiệp vụ, số lượng phát hành, mệnh giá
và mức lãi suất như thế nào cho phù hợp, rồi khả năng chuyển đổi của các công cụ nợ.
Đòi hỏi sự chuyên nghiệp và chuyên sâu trong thị trường này.
1.1.3. Các hình thức huy động vốn.
1.1.3.1. Huy động vốn thông qua tiền gửi thanh toán.
Như đã được xem xét ở trên về hình thức huy động vốn thông qua tiền gửi thanh
toán của khách hàng. Đây là một nguồn chiếm khối lượng lớn do việc giao dịch liên tục

của nền kinh tế. Các chủ tài khoản họ mở tài khoản thanh toán nhưng không phải tiền
trong tài khoản phải chuyển đi ngay mà thường để trong tài khoản một thời gian ngắn
không xác định do đó những khoản tiền gửi thanh toán cũng sẽ giúp cho ngân hàng có
được một nguồn lớn giải quyết được cho vay ngắn hạn và đảm bảo được tính thanh
khoản và đặc biệt chi phí huy động của khoản tiền này có chi phí thấp.
1.1.3.2. Huy động vốn thông qua tiền gửi có kì hạn.
Nguồn này có thời gian ổn định hơn tuy nhiên chi phí huy động của nguồn vốn
này là rất cao do đó đòi hỏi cần phải sử dụng nguồn vốn này có hiệu quả. Tiền gửi huy
động có kì hạn thường xuất phát từ nguồn tiền gửi của dân chúng và một phần từ các tổ
chức kinh tế, nó cũng là nguồn vốn chủ yếu mà ngân hàng muốn huy động bởi tính đảm
bảo về mặt thời gian. Và cũng là nguồn chính đảm bảo cho khả năng hoạt động của ngân
hàng như cho vay trung và dài hạn.

1.1.3.3. Huy động thông qua tiền gửi tiết kiệm.
Cũng như tiền gửi có kì hạn, tiền gửi tiết kiệm cũng đóng một vai trò vô cùng
quan trọng cho ngân hàng, tuy tiền gửi tiết kiệm thường có thời gian gửi tiền lâu dài và
ổn định hơn tiền gửi thanh toán nhưng khách hàng cũng có thể rút ra bất cứ khi nào muốn



khi khách hàng có nhu cầu. Do đó nguồn tiền gửi tiết kiệm cũng có thể mang lại rủi ro
cho ngân hàng.
1.1.3.4. Huy động thông qua phát hành giấy tờ có giá.
Hình thức huy động vốn thông qua phát hành các giấy tờ có giá sẽ giúp cho ngân
hàng có được nguồn vốn lớn, là một hình thức huy động có nhiều ưu điểm nhưng cũng
rất khó khăn. Bởi nguồn này sẽ gần như không có biết động về mặt thời gian, tuy nhiên
rất khó khăn trong việc huy động do phải là những ngân hàng có tên tuổi mới có ưu thế
phát hành và chi phí cho nguồn huy động này cũng không nhỏ.
1.1.4. Sự cần thiết của việc huy động vốn.
Vốn là điều kiện để thành lập, tổ chức hoạt động kinh doanh: với bất kì một loại

hình kinh doanh nào vốn luôn là điều kiện tiên quyết để duy trì hoạt động kinh doanh.
Vốn phản ánh năng lực cũng như quyết định khả năng phát triển của doanh nghiệp
Với ngân hàng, vốn không chỉ mang tầm quan trọng như với các doanh nghiệp
bình thường mà nó còn là cơ sở, là nền tảng để hình thành tổ chức mọi hoạt động kinh
doanh. Với đặc trưng là kinh doanh hàng hóa trên thị trường tài chính tiền tệ thì vốn
không đơn thuần là kinh doanh mà nó còn là đối tượng kinh doanh trực tiếp của NHTM,
trực tiếp tác động đến quy mô hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng có vốn lớn sẽ có thế
mạnh trong kinh doanh, ngân hàng có ít vốn thì sẽ gặp khó khăn trong khi tiến hành kinh
doanh. Muốn hoạt động kinh doanh của ngân hàng ngày càng phát triển thì NHTM cần
liên tục bổ sung, tăng trưởng vốn, thu hút nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư và
các thành phần kinh tế.
Vốn đảm bảo khả năng thanh toán và uy tín của ngân hàng: Hoạt động kinh doanh
của ngân hàng liên quan đến toàn bộ nền kinh tế. Khả năng thanh toán đóng vai trò quan
trọng quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán cao đồng nghĩa với uy
tín cao và ngược lại. Vốn tạo niềm tin cho dân chúng về khả năng thanh toán của ngân
hàng, do đó ngân hàng cần có lượng vốn đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu khách hàng. Nếu
như lượng vốn của ngân hàng không đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu khách hàng ngay lập



tức sẽ dẫn tới việc rút tiền ồ ạt của khách hàng có thể gây hậu quả nghiêm trọng dẫn tới
phá sản.
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng để có uy tín là yếu tố quan trọng, quyết
định đến sự sống còn của ngân hàng, uy tín của ngân hàng trong kinh doanh được thể
hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán cho khách hàng hay khả năng tín dụng nói
chung.
Đảm bảo khả năng cạnh tranh: Vốn đầu tư của ngân hàng sẽ quyết định quy mô
hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của ngân hàng. Vốn quyết định đến việc mở
rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng, thông thường so với những ngân hàng lớn thì
những ngân hàng nhỏ thường có những khoản mục đầu tư kém đa dạng, khối lượng và

phạm vi tín dụng nhỏ. Trong khi các ngân hàng lớn có nhiều vốn đầu tư cho vay được cả
trong và ngoài nước thì những ngân hàng nhỏ thiếu vốn nên quy mô cho vay nhỏ hẹp,
thêm vào đó khả năng huy động vốn hạn hẹp không phản ứng nhạy bén với những biến
động về lãi suất gây ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn từ các thành phần kinh tế và
dân cư. Do đó những ngân hàng nhỏ thường bỏ lỡ những cơ hội đầu tư vào những dự án
lớn có thời gian dài hạn.
Ngoài ra vốn lớn còn giúp cho ngân hàng có đủ khả năng tài chính để kinh doanh
đa dạng trên thị trường, mở rộng lĩnh vực kinh doanh: kinh doanh chứng khoán, cho thuê
tài chính,… chứ không chỉ dừng lại ở những hoạt động dịch vụ ngân hàng truyền thống.
Và chính hình thức kinh doanh đa dạng này góp phần phân tán giảm thiểu rủi ro và tăng
sức cạnh tranh cho NHTM trên thị trường.
Vậy chúng ta có thể thấy được vốn là rất quan trọng đối với NHTM, chính vì thế
hoạt động huy động vốn là hoạt động rất cần thiết đối với ngân hàng và luôn luôn được
ưu tiên hàng đầu. Hoạt động huy động vốn có hiệu quả sẽ giúp ngân hàng mở rộng được
quy mô, đa dạng hóa sản phẩm, tăng sức cạnh tranh, nâng cao uy tín trên thị trường.
1.2. Tăng cường huy động vốn tại NHTM.
1.2.1. Quan niệm về tăng cường huy động vốn.



Công tác huy động vốn của ngân hàng luôn là yếu tố quan trọng và thiết yếu của
ngân hàng như chúng ta đã được biết. Tuy nhiên với vai trò quan trọng như thế thì bất kì
một ngân hàng nào cũng muốn đẩy mạnh công tác huy động vốn bởi không chỉ quan
trọng mà trong thời gian hiện nay nhu cầu tín dụng của nền kinh tế luôn lớn hơn khả năng
cung ứng từ phía các ngân hàng thương mại do đó để các hoạt động huy động vốn bất cứ
một ngân hàng nào cũng cần đẩy mạnh công tác huy động vốn của mình để đạt được mục
tiêu kinh doanh và lợi nhuận. Vậy để tăng cường hoạt động huy động vốn của ngân hàng
thì chúng ta cần phải hiểu thế nào là tăng cường huy động vốn.
Khái niệm tăng cường có nhiều quan điểm khác nhau. Có nhiều quan điểm cho
rằng tăng cường đồng nghĩa với việc huy động được càng nhiều vốn càng tốt, tức là

nguồn vốn đó chỉ xem xét đến tính quy mô mà chưa xem xét đến tính hợp lý của nó và
bất kể nguồn vốn đó như thế nào, nhưng lại cũng có quan điểm lại cho rằng tăng cường
huy động vốn lại phải huy động được nguồn vốn với lãi suất hợp lý mà chưa tính đến yếu
tố quy mô của nguồn vốn.
Vậy thế nào là tăng cường huy động vốn tại ngân hàng thương mại?
Tăng cường công tác huy động vốn của ngân hàng phải đem lại mục tiêu là lợi
nhuận lớn nhất và bền vững cho ngân hàng ứng với khả năng mà ngân hàng có thể đạt
được. Vậy đi liền với mục tiêu đó là:
- Nguồn vốn huy động phải có quy mô lớn nhất mà ngân hàng có thể huy động và
sử dụng được.
- Nguồn vốn phải có chi phí hợp lý, đảm bảo được khả năng duy trì và lợi nhuận
cho ngân hàng.
- Tài sản được hình thành từ nguồn vốn đó phải đảm bảo được sử dụng hợp lý ( có
tính tương thích) tránh được những rủi ro cho ngân hàng đặc biệt là rủi ro trong tính
thanh khoản và rủi ro trong tín dụng cho ngân hàng.
Vậy một ngân hàng thực sự đẩy mạnh tăng cường công tác huy động vốn hiệu quả
thì cần phải đạt được các yếu tố trên.



1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh tăng cường huy động vốn.
1.2.2.1. Quy mô, cơ cấu nguồn huy động và tốc độ tăng trưởng.
Về quy mô.
Quy mô nguồn vốn huy động là một trong số những yếu tố dùng để đánh giá hoạt
động huy động vốn của ngân hàng, nếu như một ngân hàng được đánh giá là một ngân
hàng lớn hay không phụ thuộc vào nguồn vốn kinh doanh của nó, mà trong khi đó nguồn
vốn kinh doanh của ngân hàng thực tế lại toàn phụ thuộc vào hoạt động huy động vốn của
ngân hàng. Do đó ngân hàng nếu như huy động được một khối lượng vốn lớn thì chắc
chẳn nó sẽ giúp cho ngân hàng đảm bảo được khả năng kinh doanh cũng như đảm bảo
được khả năng tín dụng của ngân hàng.

Quy mô nguồn huy động của ngân hàng có thể được phản ánh thông qua việc thực
hiện được quy mô vốn huy động năm sau cao hơn năm trước:
Khối lượng vốn huy động năm t+1>khối lượng vốn huy động năm t
và thực hiện tốt chỉ tiêu được giao:
Khối lượng vốn huy động thực tế > Khối lượng vốn được giao
Về tốc độ tăng trưởng.
Quy mô của nguồn huy động lớn nhưng cũng phải đi liền với sự tăng trưởng cao
và ốn định phù hợp với sự phát triển của ngân hàng. Có 2 chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng là:
Quy mô vốn năm t
1
Tốc độ tăng trưởng liên hoàn = x 100%
Quy mô vốn năm (t
1
-1)
Quy mô vốn năm t
1
Tốc độ tăng trưởng định gốc = x 100%
Quy mô vốn năm t
0



Chỉ tiêu này cho ta thấy được biến động của vốn huy động, nó ổn định hay biến
đổi theo chiều hướng nào và khả năng kiểm soát của ngân hàng với nghiệp vụ này. Điều
này cũng ảnh hưởng đến khả năng mở rộng thị trường cho vay và tăng cường các hoạt
động đầu tư của ngân hàng. Với tốc độ tăng trưởng ổn định sẽ tạo ra thế chủ động cho
ngân hàng vạch ra các kế hoạch sử dụng vốn trong tương lai mang lại lợi thế kinh doanh
cũng như lợi nhuận cho ngân hàng. Điều này còn thể hiện lợi thế cạnh tranh của ngân
hàng đối với các ngân hàng khác.
Về cơ cấu nguồn huy động.

Cơ cấu nguồn huy động cũng là một nhân tố ảnh hưởng khá lớn đến việc kinh
doanh của ngân hàng, bởi nếu như ngân hàng huy động được nguồn dài hạn thì sẽ giúp
cho ngân hàng có được sự chủ động trong sử dụng vốn, nhưng thường thì nguồn dài hạn
trong các ngân hàng không lớn bằng các nguồn ngắn hạn. Còn nếu nguồn chủ yếu là ngắn
hạn sẽ khiến cho ngân hàng khó vạch ra được kế hoạch kinh doanh một cách rõ ràng.
1.2.2.2. Nguồn vốn có chi phí hợp lý.
Chi phí huy động vốn được xem là chi phí đầu vào trong hoạt động kinh doanh
của các NHTM. Chi phí huy động vốn không chỉ là mức lãi suất huy động danh nghĩa mà
ngân hàng vẫn thường niêm yết mà nó còn bao gồm các khoản chi phí phi lãi suất như
các khoản chi phí về con người, máy móc thiết bị và một số chi phí quản lý chung khác
nữa. Mà chi phí cao đồng nghĩa với việc lợi nhuận sẽ bị ảnh hưởng.Và vì thế chi phí huy
động vốn luôn được các nhà quản lý ngân hàng quan tâm. Khi một ngân hàng huy động
vốn thường thì họ luôn cố định cách quản lý do đó các chi phí phi lãi suất thường cố định
hoặc có giảm thì cũng không lớn do đó vấn đề lãi suất là điều mà họ cần quan tâm, nhưng
làm sao để mức lãi suất vừa phù hợp với ngân hàng về mặt lợi nhuận nhưng lại không
làm mất ưu thế cạnh tranh của ngân hàng, do đó nguồn vốn có chi phí hợp lý sẽ giúp cho
ngân hàng.
Chỉ tiêu chi phí huy động vốn được lượng hóa như sau:
Chi phí huy động vốn = Chi phí lãi suất huy động + Chi phí phi lãi suất.



Chi phí huy động vốn lớn đồng nghĩa với lợi nhuận của ngân hàng giảm và tương tự chi
phí huy động vốn hợp lý sẽ tạo lợi nhuận cao cho ngân hàng.
1.2.2.3. Cơ cấu nguồn vốn phù hợp với cơ cấu sử dụng vốn.
Các nguồn vốn mà ngân hàng huy động được phân chia thành các khoản mục
trong tài sản như tiền mặt, mua chứng khoán ngắn hạn, cho vay,…. Sao cho đạt được
mục tiêu an toàn và lợi nhuận. Ngoài ra trong danh mục tài sản của ngân hàng còn xem
xét dưới góc độ cấu trúc kì hạn để còn xác định tính tương thích với nguồn vốn. Thông
thường các ngân hàng thường sử dụng một phần nguồn vốn có kì hạn ngắn để cho vay

hoặc đầu tư với kì hạn dài hơn nhưng chỉ ở một tỷ lệ nào đó vì nếu ngân hàng sử dụng
quá nhiều nguồn vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn thì ngân hàng sẽ đối mặt với rủi ro
trong tính thanh khoản. Ngược lại nếu như ngân hàng dùng vốn huy động dài hạn để cho
vay ngắn hạn thì dẫn đến lãng phí vì nguồn dài hạn thường có chi phí huy động vốn thì
cao hơn và cho vay ngắn hạn lại đem lại mức lãi suất cho ngân hàng thấp hơn cho vay dài
hạn.
Chỉ tiêu này được xem xét dựa trên hai chỉ số sau:

Dư nợ tín dụng ngắn hạn
Tỷ lệ cho vay ngắn hạn = x 100%.
Khối lượng huy động ngắn hạn
Dư nợ tín dụng trung và dài hạn
Tỷ lệ cho vay dài hạn = x 100%.
Khối lượng huy động trung và dài hạn
Nếu tỷ lệ cho vay ngắn hạn và tỷ lệ cho vay dài hạn tương đương nhau tức là ngân
hàng đã duy trì sự tương thích giữa việc huy động vốn và cho vay giữa nguồn huy động
ngắn hạn và nguồn huy động trung và dài hạn, đảm bảo được tính an toàn.



Các nhà quản trị ngân hàng thường sử dụng mô hình cấu trúc kì hạn để phân tích
tính tương thích giữa nguồn vốn huy động và việc sử dụng vốn còn nhà quản lý họ biết
cần phải điều chỉnh nguồn vốn và danh mục tài sản như thế nào để có thể duy trì được
khả năng thanh toán của ngân hàng mình trong trường hợp thiếu dự trữ. Đầu tư thêm nếu
tài sản sinh lời nếu thiếu vốn hay chuẩn bị kế hoạch tái đầu tư do các tài sản hết hạn.
Danh mục tài sản và cấu trúc thời hạn của tài sản thường được xây dựng trên cơ sở
nguồn vốn huy động. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp các ngân hàng phải điều chỉnh
lại nguồn vốn của mình cho phù hợp với sử dụng vốn cho kế hoạch phát triển tín dụng và
đầu tư, hay sự biến động của nguồn vốn. Chẳng hạn như đột nhiên có quá nhiều khách
hàng rút tiền mặt khỏi tài khoản của họ, ngân hàng không kịp điều chỉnh danh mục tài

sản tương ứng mà phải đi vay các ngân hàng khác để bù đắp sự thiếu hụt, do đó dẫn đến
tỷ trọng và cấu trúc kì hạn của nguồn vốn thay đổi.
Tính tương thích còn được thể hiện giữa lãi suất của từng nhóm tài sản với lãi suất
phải trả cho nguồn vốn cùng kì hạn và các tài sản có thời hạn dài hơn phải có lãi suất cao
hơn để bù đắp chi phí cao hơn của nguồn vốn.

1.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn.
1.3.1. Những nhân tố khách quan.
1.3.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội.
NHTM là một chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế do đó những biến động về tình
hình kinh tế ảnh hưởng rất lớn và sâu sắc đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Nếu như môi trường chính trị ổn định, người dân cũng sẽ yên tâm hơn trong việc
phát triển kinh tế do đó người dân cũng dễ dàng tin tưởng chọn lựa phương thức gửi tiền
vào ngân hàng hay các tổ chức tín dụng, còn nếu như môi trường chính trị xã hội không
ổn định người dân lo sợ sự bất ổn do đó sẽ có xu hướng nắm giữ hoặc gửi ở những nơi
khác có tính ổn định cao hơn.



Không chỉ môi trường chính trị xã hội mà ngay cả môi trường kinh tế cũng tác
động sâu sắc không kém tới công tác huy động vốn của ngân hàng. Môi trường kinh tế có
thể hiểu là các nhân tố tác động đến sức mua của khách hàng và các mô thức tiêu dùng.
Cụ thể là tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu nhập quốc dân, thất nghiệp, tình trạng chu
chuyển vốn, chỉ số lạm phát cao, nguồn vốn nhàn rỗi sẽ được chuyển thành những dạng
đầu tư khác có giá trị ổn định như vàng, bạc, nhà đất,…. Nhìn chung là môi trường kinh
tế ổn định thu hút nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư.
Môi trường văn hóa xã hội cũng là một tác động lớn đến hoạt động huy động vốn
của ngân hàng. Đó là tập quán sinh hoạt và thói quen sử dụng tiền mặt của người dân.
Việc không sử dụng tiền mặt sẽ giúp cho ngân hàng có được nguồn huy động có quy mô
lớn hơn. Do đó nó tác động đến công tác huy động vốn.

1.3.1.2. Môi trường pháp lý và các chính sách kinh tế vĩ mô.
Do ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh đặc biệt, và đặc biệt nó đóng một
vai trò to lớn trong việc thúc đẩy phát triển nền kinh tế do đó ngân hàng luôn chịu sự tác
động to lớn từ phía chính phủ hay trực tiếp từ các chính sách của NHNN. Hầu hết các
hoạt động kinh doanh của NHTM đều chịu sự tác động của NHNN trong đó hoạt động
huy động vốn của ngân hàng cũng không là ngoại lệ. Việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc
của NHTM khiến cho các NHTM phải nỗ lực cố gắng huy động và sử dụng vốn sao cho
có hiệu quả. Hay việc NHNN tăng hay giảm lãi suất tái cấp vốn cũng ảnh hưởng đến tình
hình huy động vốn của ngân hàng.
Môi trường cạnh tranh.
Đây là một yếu tố ảnh hưởng khá lớn đến tác công tác huy động vốn của ngân
hàng, các NHTM cạnh tranh lẫn nhau để có được thị phần lớn, thu hút được nguồn vốn
lớn trong dân cư. Đặc biệt là trong thời kì hội nhập, chính sách mở cửa khiến cho các
ngân hàng nước ngoài ồ ạt vào Việt Nam, với trình độ quản lý cao và chất lượng dịch vụ
tốt các ngân hàng nước ngoài cũng khiến cho các NHTM của Việt Nam thêm phần khó
khăn.



Sự phát triển của thị trường tài chính, là một kênh huy động vốn hiệu quả cho
ngân hàng tuy nhiên cũng là một trở ngại cho việc huy động vốn của các ngân hàng. Việc
ra đời và phát triển của thị trường tài chính làm cho các công cụ tài chính, các sản phẩm
tài chính ngày càng trở lên đa dạng hơn, phù hợp với nhiều đối tượng do đó mà những
người có nhu cầu đầu tư lớn sẽ ít gửi tiền vào ngân hàng hơn, họ sẽ tìm kênh đầu tư hợp
lý tạo ra khoản lời lớn nhất cho họ. Do đó mà việc huy động vốn của ngân hàng ngày
càng trở lên khó khăn hơn.
1.3.2. Những nhân tố chủ quan.
1.3.2.1. Chính sách lãi suất.
Chính sách lãi suất không chỉ ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của các
NHTM mà nó còn ảnh hưởng tới các tổ chức huy động khác nữa. Đó chính là mức lãi

suất mà ngân hàng đã đưa ra để huy động nguồn từ các khoản tiền gửi, tiền tiết kiệm, ….
Thông thường thì quy mô tiền gửi mà ngân hàng huy động được tỷ lệ thuận với mức lãi
suất mà ngân hàng đưa ra. Với mức lãi suất cao thì các chủ thể kinh tế yên tâm gửi tiền
vào ngân hàng hơn là việc đầu tư vào thị trường tài chính cũng như thu hút được nhiều
nguồn từ phía dân cư hơn, tuy nhiên ngân hàng cũng phải xem xét đến chính sách tín
dụng, bởi với chính sách tín dụng không hợp lý và tương ứng với nguồn vốn huy động có
thể dẫn đến tính không hiệu quả của hoạt động kinh doanh của ngân hàng bao gồm huy
động vốn và sử dụng vốn làm hoạt động chính tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng.
1.3.2.2. Các hình thức huy động vốn do ngân hàng cung cấp.
Khách hàng của các ngân hàng thường đa dạng, đầy đủ mọi tầng lớp xã hội, đủ
mọi nhành nghề khác nhau. Do đó các sản phẩm tiện ích đối với từng cá nhân họ cũng
khác nhau. Do đó để thu hút được vốn từ phía các khách hàng khác nhau thì ngân hàng
cần phải đáp ứng được mọi nhu cầu mong muốn của họ.
Những người gửi tiền tiết kiệm đều hướng tới mục tiêu bảo toàn và sinh lời khoản tiền
mà họ sở hữu. Nhưng số tiền mà và thời gian cần gửi của mỗi người lại không giống
nhau, khách hàng gửi một số tiền lớn mong được hưởng một mức lãi suất cao hơn mức

×