Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Tlch phân tích nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và điều kiện để thực hiện sứ mệnh ấy trong tác phẩm “tuyên ngôn đảng cộng sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.78 KB, 33 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Trong thời đại xã hội nào, những người lao động sản xuất trong các ngành sản xuất
công nghiệp, dịch vụ công nghiệp hay những người công nhân đều có vai trị sáng tạo chân
chính ra lịch sử và là những người giữ vai trò quyết định sáng tạo cơng cụ sản xuất, gía trị
thặng dư và chính trị xã hội. Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận cấu thành của
chủ nghĩa Mác - Lênin đã nghiên cứu một cách toàn diện về các quy luật chính trị xã hội của
q trình phát sinh, hình thành và phát triển của các hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ
nghĩa. Trong đó, chủ nghĩa xã hội khoa học đã tập chung nghiên cưú những nguyên tắc căn
bản, những điều kiện, con đường, hình thức, phương pháp đấu tranh của giai cấp công nhân để
thực hiện chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội.
Từ vai trò to lớn của giai cấp công nhân, việc khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
cơng nhân có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn. Giai cấp công nhân và loài người
tiến bộ những ngày này khắp nơi đều tổ chức kỷ niệm 160 năm ngày ra đời Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản, tác phẩm “phổ biến nhất, có tính chất quốc tế nhất trong sách báo xã hội chủ
nghĩa” (Ph.Ăngghen). Trong Tuyên ngôn, lần đầu tiên những cơ sở của chủ nghĩa Mác được
trình bày hồn chỉnh dưới dạng cô đọng nhất và ở tầm cao về nội dung cũng như hình thức. Là
văn kiện mang tính cương lĩnh của phong trào cộng sản, Tuyên ngôn đánh dấu sự ra đời chủ
nghĩa Mác sau một loạt cơng trình tìm tịi, khám phá, phát hiện trước đó. Chính vì thế, thái độ
đối với Tuyên ngôn thực chất là thái độ đối với chủ nghĩa Mác nói chung. (*)
Trong giai đoạn mới hiện nay, cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố đang diễn ra
trên tồn thế giới, chủ nghĩa xã hội đang ở trong thời kỳ thoái trào, thời đại ngày nay vẫn đang
là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi tồn thế giới cịn đang
có nhiều biến động, tiêu cực ... thì vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
được đặt ra trở nên bức thiết hơn bao giờ hết, cả trên hai phương diện: lý luận và thực tiễn.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một phạm trù cơ bản nhất của chủ nghĩa xã
hội khoa học, do đó nó đã được C.Mác - Ph.Ăngghen và Lênin nghiên cứu và phát triển hết
sức hồn thiện trong trong q trình phát triển của lịch sử thế giới. Xét trên phương diện lịch
sử, những nhận định và lý luận của các ông về giai cấp công nhân có tác dụng to lớn và đúng
đắn.Còn đối với nước ta, vấn đề trên được Đảng ta rất chú trọng. Vì thế, sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân không chỉ thể hiện rõ trong các văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc, mà đây


(

1


còn là một trong những đề tài nghiên cứu khoa học của nhiều nhà lý luận, nhà nghiên cứu lịch
sử, và của nhiều thế hệ công nhân, sinh viên.
Sự tác động của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ ảnh hư ởng tới sự
chuyển biến của lịch sử thế giới là thay đổi từ hình thái kinh tế này sang hình thái kinh tế
khác, thay đổi từ chế độ kinh tế này sang chế độ kinh tế khác ... mà cịn làm thay đổi tình hình
kinh tế chính trị xã hội trên tồn thế giới, nó tác động tới quá trình sản xuất cụ thể, tới bộ mặt
phát triển của thế giới.
Trong tình hình chính trị và tư tưởng diễn biến phức tạp, cách mạng đứng trước thử thách
to lớn, hàng triệu người cộng sản, những người mácxít trên thế giới, trong đó có những người
cộng sản Việt Nam chúng ta, vẫn kiên quyết bảo vệ chân lý của chủ nghĩa Mác, kiên trì tư
tưởng cơ bản của Tun ngơn, nghiêm túc tìm hiểu ngun nhân thất bại của CNXH ở nơi này
nơi khác và cố gắng phát triển tư tưởng của Tuyên ngôn theo sự phát triển của đặc điểm thời
đại trong giai đoạn hiện nay. Nhiều nhà khoa học khơng mácxít, với mức độ khác nhau, đã
đánh giá Tuyên ngôn một cách khách quan. Họ nêu ảnh hưởng to lớn không thể phủ nhận của
Tun ngơn đối với thế kỷ XX. Có người cịn cho rằng, Tun ngơn sẽ có vai trị to lớn hơn
nữa trong thế kỷ XXI. Để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, để giải quyết những
nhiệm vụ lý luận và thực tiễn to lớn, phức tạp và mới mẻ đang đặt ra cho cách mạng Việt
Nam, chúng ta cần nghiên cứu lại Tuyên ngôn, với phương pháp gắn chặt lý luận với thực
tiễn. Phương pháp này địi hỏi đặt tồn bộ tác phẩm cũng như mỗi luận điểm trong đó vào thời
của nó, trong dịng lịch sử của nó và trước những vấn đề cơ bản, nóng hổi ở thời đại chúng ta.
Chính vì vậy để làm sáng tỏ hơn nữa nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
em chọn đề tài: Phân tích nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và điều kiện
để thực hiện sứ mệnh ấy trong tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng cộng sản” của C.Mác –
Angghen để làm tiểu luận I cho mình. Trong quá trình viết do thời gian, tầm nhận thức và tài
liệu nghiên cứu cịn hạn chế nên bài viết khó đáp úng được yêu cầu, rất mong Thày, cô giáo

trong viện Chủ nghĩa xã hội khoa học chỉ bảo thêm. Em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
I. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
1. Khái quat chung.
Tuyên ngôn không phải là cuốn sách thông thường nghiên cứu một lĩnh vực cụ thể nào đó
của đời sống xã hội mà là cương lĩnh chính trị và lý luận vạch thời đại. Nó tuyên bố sự ra đời
hợp quy luật lịch sử của xã hội mới sẽ thay thế xã hội tư bản và chỉ ra động lực trực tiếp của
2


q trình đó, động lực này lại do chính chủ nghĩa tư bản tạo ra. Tuyên ngôn giác ngộ giai cấp
công nhân bằng thế giới quan và phương pháp luận thực sự khoa học, chỉ ra cho giai cấp công
nhân những điều kiện để tự giải phóng.
Ngày 24 tháng 2 năm 1848, C.Mác và Ph.Ăng-ghen chính thức cơng bố trước tồn thế giới
Tun ngơn của Đảng Cộng sản do các ông soạn thảo bởi sự ủy nhiệm của Đồng minh những
người cộng sản. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong kho tàng
lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Sự ra đời của tác phẩm vĩ đại này đánh dấu sự hình thành
về cơ bản lý luận của Chủ nghĩa Mác bao gồm ba bộ phận hợp thành: Triết học, kinh tế chính
trị học và chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là cương lĩnh chính trị, kim chỉ nam cho hành động của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; là ngọn cờ dẫn dắt giai cấp cơng nhân và nhân dân
lao động trên tồn thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp và giải phóng con người, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản. Tuyên ngôn là cương lĩnh đầu tiên đặt ra mục tiêu, chỉ rõ lực lượng, điều kiện và phương
thức đấu tranh nhằm giải phóng triệt để giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và các dân tộc
thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột và nơ dịch, đưa con người đến cuộc sống tự do, hạnh phúc và
phát triển tồn diện. Với ý nghĩa lớn lao đó, V.I.Lê-nin khẳng định: “Cuốn sách mỏng ấy có
giá trị bằng hàng bộ sách, tinh thần của nó đến bây giờ vẫn cổ vũ và thúc đẩy tồn thể giai cấp
vơ sản có tổ chức và chiến đấu trong thế giới văn minh”.
Phát hiện và làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những

cống hiến vĩ đại của C.Mác, là một giá trị to lớn trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Tuyên
ngôn đã luận chứng một cách có cơ sở khoa học, đầy thuyết phục về sứ mệnh lịch sử thế giới
của giai cấp công nhân; chỉ rõ sứ mệnh lịch sử thế giới đó là do chính địa vị kinh tế - xã hội
của giai cấp công nhân trong xã hội quy định. Trong Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăng-ghen chỉ
rõ: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vơ sản là
giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát
triển của đại cơng nghiệp, cịn giai cấp vơ sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công
nghiệp”. Và khẳng định: “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và sự thắng lợi của giai cấp vô sản
đều là tất yếu như nhau”.
2. Tóm tắt tác phẩm.
Tun ngơn đã chỉ ra và lý giải rằng động lực chủ yếu của trong tiến trình phát triển
của các hình thái kinh tế xã hội chính là đấu tranh giai cấp. Khẳng định sự ra đời và phát triển

3


của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã đem lại những thành tựu rất lớn cho xã hội loài
người. Tuy nhiên, trong xã hội TBCN, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng được xã
hội hoá cao với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất…ngày càng
gay gắt. Mâu thuẫn này biểu hiện về mặt chính trị thành mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với
giai cấp vô sản. Mâu thuẫn đó tất yếu dẫn đến cách mạng vơ sản. Giai cấp vơ sản nhất định sẽ
chiến thắng, giành chính quyền để xây dựng xã hội mới… cũng như thất bại, diệt vong của
chủ nghĩa tư sản đều là “tất yếu như nhau”.
Tun ngơn khẳng định vai trị của Đảng cộng sản - đội tiên phong của giai cấp vô sản
(giai cấp cơng nhân) trong suốt q trình lâu dài của sản xuất công nghiệp hiện đại và đấu
tranh giai cấp của giai cấp vô sản để thực hiện sứ mạng lịch sử của mình .
Khẳng định cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa do giai cấp công nhân lãnh đạo là cuộc
cách mạng toàn diện nhất, triệt để nhất trong q trình giải phóng nhân loại, giải phóng và
phát triển toàn diện con người. Cùng với cách mạng về chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật thì
cũng tiến hành cách mạng triệt để trong các lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, xã hội.

Phê phán các xu hướng gọi là “xã hội chủ nghĩa”, nhưng là xu hướng phản động, tiêu
cực như “chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa phong kiến”, “chủ nghĩa xã hội chân chính Đức” và các
xu hướng tiểu tư sản khác .
Tuyên bố thái độ rõ ràng, dứt khoát của Đảng cộng sản với tất cả các đảng phái đối lập
khác, thể hiện lập trường cách mạng khơng ngừng, nhưng đồn kết, hợp tác với tất cả các
Đảng tiến bộ để đạt mục tiêu giải phóng nhân loại.
Tựu trung lại, vấn đề cơ bản và cốt lõi nhất của “Tun ngơn Đảng Cộng Sản” chính là
xác định vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vơ sản (giai cấp cơng nhân) và chính đảng của
nó (Đảng Cộng sản) trong sự nghiệp giải phóng lồi người. Tuyên ngôn cũng khẳng định một
cách đanh thép rằng: sự nghiệp đó là tất yếu chiến thắng
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản”, vấn đề nhà nước cũng như bản chất
giai cấp của nhà nước không được C.Mác và Ăngghen đề cập sâu (vấn đề này được các ông
phân tích kỹ hơn trong một số tác phẩm khác như “Phê phán triết học pháp quyền của
Hêghen”, “Chống Đuyrinh”…). Tuy nhiên, khi nói về pháp quyền tư sản - cái mà giai cấp tư
sản vẫn ln cho là hình mẫu của dân chủ và tiến bộ, Tuyên ngôn đã chỉ rõ: “Chính những tư
tưởng của các ơng là con đẻ của chế độ sản xuất và sở hữu tư sản, cũng như pháp quyền của
các ông chỉ là ý chí của giai cấp các ơng được đề lên thành luật pháp, cái ý chí mà nội dung là
do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định”

4


Cơng bằng mà nói, so với thời kỳ Mác và Ăngghen viết “Tuyên ngôn của Đảng Cộng
Sản”, trên thực tế hiện nay các nhà nước tư sản đã có nhiều điều chỉnh đáng kể theo hướng
tích cực (đặc biệt là chú ý nhiều hơn đến việc điều tiết quan hệ lao động TBCN). Song, điều
đó khơng có nghĩa là bản chất giai cấp tư sản, bản chất “bóc lột” của nhà nước tư sản đã thay
đổi mà đây chỉ là những bước cải cách trước những yêu cầu của thực tiễn nhằm làm cho nhà
nước tư sản mang một bộ mặt mới và để thích nghi được với điều kiện mới. Nhận thức lại và
làm rõ bản chất giai cấp của các nhà nước tư sản hiện đại trong tình hình hiện nay, địi hỏi
chúng ta phải có một quan điểm cách mạng và khoa học, một thái độ thẳng thắn và không thỏa

hiệp.
Trên thực tế, các nhà nước tư sản hiện nay trên thế giới bằng cách này hay cách khác
đều cố tình che dấu bản chất giai cấp của mình. Trong trang đầu của các bản Hiến pháp tư sản
hầu như đều khẳng định rất long trọng rằng: “Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”. Tuy nhiên,
ở các quốc gia đó, để thực hiện được các quyền chính trị cơ bản được Hiến pháp ghi nhận, các
tầng lớp nhân dân lao động đều vấp phải những bức tường “vơ hình”, “tinh vi” do chính nhà
nước và pháp luật tư sản dựng nên. Chẳng hạn, quy định về tiền đảm bảo ứng cử ở Mỹ mặc
nhiên đã tạo ra một đặc quyền hợp pháp cho “giới chủ” trên sân khấu chính trị. Thực tế cũng
cho thấy rằng, nhiều cuộc bầu cử phương Tây được tung hô như những chuẩn mực về dân chủ
lại được thao túng khơng ít bởi các thế lực tài chính và thơng tin.
Trong quan hệ lao động tư bản chủ nghĩa, so với thời kỳ “Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản” ra đời, luật pháp các nhà nước tư sản cũng đã có nhiều cải cách (như quy định về tiền
lương tối thiểu, thời gian làm việc, chế độ trợ cấp thất nghiệp…). Người công nhân trong xã
hội tư bản đã bắt đầu sở hữu những cổ phần trong các công ty, nhà máy…Tất cả những hiện
tượng đó đã được giai cấp tư sản, các học giả tư sản tô vẽ lên thành một thế giới của “tự do và
dân chủ”, nhằm xoa dịu và làm mất phương hướng của cuộc đấu tranh giai cấp. Tuy vậy, xét
đến cùng, đằng sau những “chiếc bánh” phúc lợi được xem là của giai cấp tư sản đó cũng chỉ
là mồ hôi và xương máu của các tầng lớp người lao động mà thôi. Cổ phiếu của người lao
động thực chất chỉ mang ý nghĩa tượng trưng, thực chất cũng là những sợi dây cột chặt họ
thêm vào guồng máy bóc lột của các tập đồn tư bản. Bên cạnh đó, một khi lợi nhuận của các
tập đồn tư bản bị đe dọa thì họ sẵn sàng bán rẻ quyền lợi của những người lao động ngay.
Chẳng hạn, trong cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ năm 1997, ở Châu Á hàng chục nghìn
cơng nhân ở nhiều nước đã bị sa thải mà không được biết lý do. Nhiều tài liệu thống kê cho
biết 10% dân số thế giới đang sở hữu hơn 90% của cải vật chất và ngược lại. Nghịch lý đó

5


cũng cho thấy đằng sau những con số tăng trưởng kinh tế thì sự phân hóa giàu nghèo dường
như lại càng sâu thêm. Nhiều người cho rằng thế giới ngày này đang trở nên “phẳng” dưới tác

động của tiến trình tồn cầu hóa, nhưng có một điều là những lợi ích do “tồn cầu hóa” mang
lại lại khơng hề phẳng.
Nhìn lại diễn biến vụ kiện của những nạn nhân chất độc da cam Việt Nam đối với các
công ty sản xuất hóa chất của Mỹ, chúng ta lại một lần nữa hiểu thêm về cái gọi là “tự do” và
“”công lý” mà nước Mỹ thường nhắc đến. Ít ai ngờ rằng, Tịa án của một đất nước có biểu
tượng “Nữ thần Tự do” lại hơn một lần ngoảnh mặt với lương tâm và trách nhiệm để bác đơn
của hàng nghìn nạn nhân vơ tội của chất độc da cam. Có vẻ như, đối với các Tịa án Mỹ
“cơng lý” phải gắn liền với lợi ích của các tập đồn tư bản ?
160 năm đã đã trơi qua, lồi người vẫn miệt mài trên con đường đi tìm hạnh phúc theo
ánh sáng của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản”. Việc nhận thức lại một cách rõ ràng, không
mơ hồ, không ảo tưởng về chủ nghĩa tư bản hiện đại, về bản chất giai cấp của Nhà nước tư sản
giúp chúng ta một phương pháp luận đúng đắn trong bối cảnh “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”.
Đồng thời, cũng giúp ta vững tin hơn trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản - Dù con đường phía trước chắc vẫn còn nhiều gian nan, thử thách.
II. Khái quát về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
1 Giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp luôn là đối tượng nghiên cứu trong
mọi thời đại, từ xưa các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác như: C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin là
những người đã quan tâm, nghiên cứu và đưa ra những học thuyết về giai cấp công nhân. Học
thuyết về giai cấp cơng nhân đã được họ trình bày trong các tác phẩm như “Nội chiến ở Pháp”
(1871) “Phê phán cương lĩnh Gôta” (1875), “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” (1847), “Sáng
kiến vĩ đại”… ở đây, khi các ông nhận ra rằng những mâu thuẫn và bất công trong xã hội là do
chế độ tư bản gây ra và người bị áp bức bóc lột thậm tệ nhất trong xã hội là giai cấp công
nhân. Nghiên cứu về giai cấp này các ông không chỉ thấy được những nỗi khổ nhục, bất cơng
mà người cơng nhân phải chịu các ơng cịn nhận thấy được khả năng cũng như sức mạnh của
giai cấp cơng nhân trong sự nghiệp giải phóng mình và giải phóng nhân loại để tiến tới một xã
hội cơng bằng, tốt đẹp hơn. Trong “Tình cảnh giai cấp cơng nhân Anh” Ăngghen đã viết:
“Giai cấp vô sản không chỉ là giai cấp chịu đau khổ mà còn là giai cấp có sứ mạng lịch sử và
tiền đồ rất vẻ vang”, khác với nhà các nhà không tưởng Xanhximông, Phuriê, Ôoen vào thời
kỳ đó cũng đã có tư tưởng thấy được sự bất công của xã hội tư bản và nghĩ rằng phải có một


6


xã hội cơng bằng hơn, ở đó khơng có áp bức bóc lột ở đó mọi người được sống trong hồ
bình, ấm no, hạnh phúc nhưng những tư tưởng của các ơng đã khơng trở thành hiện thực vì
các ơng khơng hiểu được vai trị lịch sử của giai cấp công nhân đến thế kỷ XIX, MácĂngghen bước vào trường đấu tranh chính trị. Tuy Mác-Ăngghen khơng phải là giai cấp công
nhân, nhưng hai ông đã nghiên cứu phong trào công nhân ở Châu Âu và phát hiện ra được một
điều mà các nhà khơng tưởng đó khơng thấy được là giai cấp công nhân là những người đào
huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và là lực lượng chủ yếu xây dựng xã hội mới. Và kế thừa tư
tưởng của các nhà Macxít, Chủ tich Hồ Chí Minh – Lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam đã
nhận thấy được vai trị sứ mệnh lịch sử giai cấp cơng nhân. Khi ra đi tìm đường cứu nước, đến
được luận cương của Lênin “Về vấn đề giải phóng dân tộc và thuộc địa” Người đã tìm thấy và
khẳng định con đường giải phóng dân tộc Việt Nam là con đường “Cách mạng vơ sản” Hồ
Chí Minh ln đặt niềm tin lớn lao vào giai cấp công nhân, khẳng định sứ mệnh lịch sử và vai
trò lãnh đạo của giai cấp cơng nhân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng
chế độ mới. Người khẳng định: “để dành lấy thắng lợi, cách mạng phải nhất định phải do giai
cấp cơng nhân lãnh đạo vì nó là giai cấp tiên tiến nhất, có kỷ luật nhất và có tổ chúc chặt chẽ
nhất”(1)
Giai cấp công nhân thế giới ra đời trong Cuộc cách mạng công nghiệp và trưởng thành
trong q trình phát triển của CNTB. Cuộc cách mạnh cơng nghiệp được thực hiện đầu tiên ở
nước Anh trong nhưĩng năm 60 của thế kỉ XVIII và sau đó lần lượt được thực hện ở các nước
Tây Âu. Cuộc cách mạng đó đã làm thay đổi mọi cách sản xuất từ trước đến lúc bấy giờ,
chuyển từ lao động bằng tay sang lao động bằng máy móc, đưa năng xuất lao động tăng lên
một cách nhanh chóng và rộng lớn một cách chưa từng thấy. Song cách mạng công nghiệp
diễn ra ở đâu thì ở đó tồn bộ cơng nghiệp chuyển vào tay các nhà tư bản lớn, còn những
người sản xuất nhỏ thì bị phá sản, buộc phải đi làm thuê cho các nhà tư bản, “những nhà tiểu
công nghiệp, tiểu thương nghiệp và thực lợi nhỏ, thợ thủ công và nông dân tất cả các tầng lớp
dưới của tầng lớp xưa kia, đều rơi xuống hàng ngũ vô sản”. Vì lẽ đó Ăngghen kết luận”giai
cấp vơ sản là do cuộc cách mạng công nghiệp sản sinh ra”. Những người bán sức lao động của

mình để kiếm sống. Và chính tiêu chí này đã làm cho giai cấp cơng nhân trở thành giai cấp đối
kháng với giai cấp tư sản.
Ngày nay với sự phát triển của CNTB trong nửa sau của thế kỉ XX, bộ măt của giai cấp
công nhân có nhiều thay đổi khác trước. Sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội hiện nay
(1)(1)

56.

Đỗ Quang Hưng Quang Hưngng. Bác Hồ với giai cấp công nhân và cơng đồn Việt Nam, với giai cấp cơng nhân và cơng đồn Việt Nam,i giai cấp cơng nhân và cơng đồn Việt Nam,p cơng nhân và cơng đồn Việt Nam, cơng đồn Việt Nam,ồ cơng đồn Việt Nam,n Việt Nam,t Nam, Nxb Lao động 1990, tr ng 1990, tr

7


đã vượt ra trình độ văn minh cơng nghiệp trước đây. Sự xã hội hố và phân cơng lao động xã
hội mới, cơ cấu của giai cấp công nhân hiện đại, các hình thức bóc lột giá trị thặng dư…Đã
làm cho diện mạo của giai cấp công nhân hiện đại khơng cịn giống với diện mạo của Mác mơ
tả trong thế kỉ XIX. Song những thuộc tính cơ bản của Mác đã phát hiện ra vẫn còn nguyên
giá trị, vẫn là cơ sở phương pháp luận để cho chúng ta nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại,
đặc biệt là để làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay. Và
căn cứ vào hai chỉ tiêu cơ bản nói trên, chúng ta có thể định nghĩa giai cấp cơng nhân: “Giai
cấp cơng nhân là một tập đồn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát
triển của nền đại công nghiệp, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội
hố ngày càng cao; Là lực lượng sản xuất cơ bản và tiên tiến trực tiếp tham gia vào quá trình
sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; Là lực lượng chủ yếu
của tiến trình lịch sử quá độ từ CNTB lên CNXH. Ơ các nước tư bản, giai cấp công nhân là
những người khơng có hoặc về cơ bản khơng có tư liệu sản xuất, phải đi làm thuê cho giai cấp
tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; ở các nước xã hội chủ nghĩa, họ là những
người đã cùng nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội và cùng
nhau lao động vì lợi ích chung của tồn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của bản thân
họ.”

2 Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Giai cấp vô sản các nước, dù màu da, tiếng nói, phong tục tập quán khác nhau, nhưng
có những quyền lợi cơ bản giống nhau, họ có một nguyện vọng chung là giải phóng khỏi ách
áp bức, bóc lột, và phải chống với một kẻ thù chung là giai cấp tư sản ở nước mình, cùng sự
cấu kết của giai cấp ấy trên phạm vi thế giới. Gắn liền với kinh tế tư bản chủ nghĩa, giai cấp
vô sản không sống phân tán và biệt lập như những người lao động khác trong nền kinh tế tự
cung, tự cấp trước kia. Giai cấp vô sản thế giới ra đời khi thị trường thế giới đang hình thành,
những mối quan hệ về kinh tế, chính trị, về văn hố giữa các nước đang phát triển mạnh mẽ.
Đường sắt, tàu thuỷ, điện báo…Mọi phương tiện giao thông đều do nền công nghiệp lớn sản
xuất ra làm dễ dàng cho việc thiết lập quan hệ giữa vô sản nước này với vơ sản nước khác. vì
vậy giai cấp vơ sản sớm trở thành một lực lượng quốc tế ngày càng đông đảo, ngày càng
chống lại nền thống trị của CNTB.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định giai cấp cơng nhân hiện đại
là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để, có khả năng tổ chức và lãnh đạo toàn thể nhân dân
lao động tiến hành cải biến cách mạng, từ hình thái kinh tế xã hội tư bản sang hình thái kinh tế
xã hội cộng sản chủ nghĩa, giải phóng nhân loại khỏi ách áp bức, bất cơng và mọi hình thức
8


bóc lột. Nói một cách khái quát là sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân là: Xố bỏ chế độ
TBCN xố bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động
và tồn thể nhân loại khỏi ách áp bức bóc lột, nghèo làn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ
nghĩa văn minh. Ph.Ăngghen viết: “thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy-đó là sứ mệnh
lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại” (1). VI.Lênin cũng chỉ rõ “điểm chủ yếu trong học thuyết
của Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trị lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng
xã hội xã hội chủ nghĩa”(1).
Học thuyết Mác-Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là luận chứng
khoa học về địa vị kinh tế-xã hội và vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, về những mục tiêu,
con đường để giai cấp đó hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Học thuyết ấy đã chứng minh
rằng, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được quy định bởi những điều kiện khách quan:

Đó là “cùng với sự phát triển của nền đại cơng nghiệp, chính cái nền tảng trên đó giai cấp tư
sản đã sản xuất và chiếm hữu sản phẩm của nó, đã bị phá sập dưới chân giai cấp tư sản. Trước
hết giai cấp tư sản sản sinh ra những người đào huyệt chân chính. Sự sụp đổ của giai cấp tư
sản và thắng lợi của giai cấp vô sảnđều là tất yếu như nhau” (2).
Và lý thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân đã được Mác và Ăngghen trình
bày một cách cụ thể sau:
Trước hết, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải là việc thực hiện sự
chuyển biến từ chế độ tư hữu này sang chế độ tư hữu khác, khơng phải là từ hình thức bóc lột
này sang hình thức bóc lột khác mà ngược lại mục tiêu cuối cùng của giai cấp công nhân là
xoá bỏ giai cấp, xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất để xố bỏ mọi hình
thức bóc lột người, tức là giải phóng được giai cấp, giải phóng được xã hội, giảiphóng con
người . Đây chính là nội dung cốt lõi nhất của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Tuy nhiên, đây là một quá trình hết sức lâu dài, vì vậy mọi cực đoan, nóng vội, muốn
đốt cháy giai đoạn dùng biện pháp hành chính để thủ tiêu mọi hình thức tư hữu nhằm tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội thì chỉ mang lại những kết quả tiêu cực mà thơi.Nên giai cấp cơng
nhân phải có những bước đi thận trọng, chắc chắn, có đường lối rõ ràng… Có như vậy giai
cấp cơng nhân mới thực hiện được sứ mệnh của mình.
Giai cấp cơng nhân bị giai cấp tư sản áp bức,bóc lột nặng nề,họ là giai cấp trực tiếp đối
kháng với giai cấp tư sản,và xét về bản chất họ là giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại
chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa.Từ đó,quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
Mác-Ăng-ghen sđd, 1994, t.20, tr 393.ng-ghen sđd, 1994, t.20, tr 393.
V.I. Lênin toàn tập, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva, 1980, T23, tr1.n tập, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva, 1980, T23, tr1.p, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva, 1980, T23, tr1.n Bộng 1990, tr , Matxcơva, 1980, T23, tr1.va, 1980, T23, tr1.
(2)(2) Mác vàn tập, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva, 1980, T23, tr1. Ăng-ghen sđd, 1994, t.20, tr 393.ng-ghen, Sđd, 1995, T4, tr 613.
(1)(1)
(1)(1)

9


nhân khác về tính chất và mục đích với sứ mệnh lìch sử của giai cấp thống trị trước đó ở chỗ:

tất cả phong trào lịch sử từ trước đến nay của giai cấp thống trị đều do thiểu số thực hiện hoặc
đều mưu lợi ích cho thiểu số.Cịn phong trào giai cấp vô sản là do đa số thực hiện và mưu lợi
cho đa số vì giai cấp cơng nhân khơng giải phóng được mình nếu khơng giải phóng được
mình nếu khơng giải phóng được tồn dân tộc.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự kết hợp chặt chẽ và thống nhất biện
chứng của hai sự nghiệp cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới,trong đó mặt xây dựng là
quan trọng nhất, có tính quyết định nhất. Sự kết hợp hai mặt này được thực hiện trong cả hai
giai đoạn: giai đoạn đấu tranh giành chính quyền và giai đoạn xây dựng xã hội mới.
Sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân là sự nghiệp vừa mang tính dân tộc vừa mang tính
quốc tế cho nên phải kết hợp chặt chẽ giữa nghĩa vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế vì sứ mệnh
của giai cấp công nhân là sứ mệnh quốc tế, giai cấp cơng nhân có điều kiện giống nhau,và đặc
điểm giống nhau và có kẻ thù chung là chủ nghĩa tư bản quốc tế. Vì vậy, lợi ích giai cấp, dân
tộc, quốc tế gắn liền với nhau và nó có mối quan hệ biện chứng với nhau. Sứ mệnh lịch sử của
giai cấp cơng nhân chỉ có thể hồn thành khi xây dựng hoàn thành xã hội mới – xã hội cộng
sản chủ nghĩa ở từng nước cũng như trên toàn thế giới.
Như vậy sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không do ý muốn chủ quan của giai
cấp công nhân hoặc do sự áp đặt của nhà tư tưởng nào đó mà do điều kiện khách quan quy
định, đó chính là điều kiện kinh tế xã hội của giai cấp công nhân quy định xứ mệnh lịch sử đó.
Lịch sử thế giới đã chứng minh những kết luận của C.Mác-Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về
sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân là đúng đắn. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh của giai cấp cơng
nhân nhằm hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình khơng phải diễn ra một cách bằng phẳng mà
họ phải trả giá bằng máu và nước mắt của mình, giai cấp cơng nhân đã trai qua những cuộc
đấu tranh cam go, quyết liệt với giai cấp tư sản, chủ nghĩa tư bản.
Trong chế độ tư bản giai cấp tư sản đã tập trung hàng vạn công nhân sản xuất tập thể,
với trình độ hợp lý hố cao, nhưng đời sống của công nhân ngày càng cực khổ, nạn thất
nghiệp ngày càng tăng ăn không đủ no, mặc khơng đủ ấm ở thì phải chui rúc trong những căn
nhà tồi tàn. Trái lại, bọn tư bản thì ngày lại càng giàu có sung sướng, đời sống sinh hoạt cao.
Cho nên những người công nhân thấy rõ hơn ai hết sự cần thiết phải đánh đổ chế độ xã hội bất
cơng ấy, thủ tiêu chế độ người bóc lột người để xây dựng một chế dộ xã hội mới cơng bằng
hơn, trong đó khơng có tình trạng người bóc lột người, ai cũng có cơng ăn việc làm đầy đủ, ai

cũng được sống tự do sung sướng. Đó là mong muốn chủ quan và cũng là mục đích của giai

10


cấp cơng nhân trong q trình chống lại áp bức bóc lột của giai cấp tư sản. Ngay từ khi mới ra
đơì giai cấp cơng nhân đã có nhiều cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản.
Lúc đầu cuộc đấu tranh còn lẻ tẻ, rời rạc, tự phát, sau đó, phát triển thành những cuộc
đấu tranh của cơng nhân trong cùng một công xưởng rồi đền cùng một ngành công nghiệp,
cùng một địa phương. Tuy nhiên thời kỳ này phương thức đấu tranh và mục đích đấu tranh
của cơng nhân cịn rất đờn giản, hình thức đấu tranh thì cũng chỉ là bãi cơng bỏ xưởng nhằm
vào mục đích kinh tế. đòi giảm giờ làm chưa thấy rõ được nguồn gốc đau khổ thực sự của
mình là cả chế độ tư bản. Đế cuối thế kỷ XVIII-đầu thế kỷ XIX, thì những cuộc đấu tranh của
giai cấp cơng nhân mới có những hành động đập phá nhà máy, phá vỡ máy móc. Càng đấu
tranh, cơng nhân càng nhận thấy một điều muốn thắng được kẻ thù lớn đấy thì khơng cịn cách
nào khác giai cấp cơng nhân các nước phải liên kết lại mới có sức mạnh để chống lại kẻ thù
giải phóng mình, giải phong giai cấp, giải phóng dân tộc. Nhận thấy điều đấy, từ chỗ khơng có
tổ chức giai cấp cơng nhân đã tiến đến tổ chức ra cơng đồn để lãnh đạo đấu tranh, và những
cơng đồn đầu tiên đã xuất hiện ở nước Anh trong những năm 20, 30 của thế kỷ XIX.
Đến những năm 30, 40 của thế kỷ XIX, phong trào công nhân có những bước phát triển
mới: Các cuộc đấu tranh chẳng những đã liên kết được công nhân trong cùng một ngành sản
xuất, một địa phương mà còn liên kết được công nhân trong pham vi cả nước, không phải chỉ
chống lại từng nhà tư bản riêng lẻ mà còn chống lại toàn bộ giai cấp tư sản. Tiêu biểu cho
phong trào đấu tranh phong trào của công nhân thời kỳ này là cuộc khởi nghĩa của cơng nhân
Ly-Ơng ở pháp 1831-1834, phong trào Hiến Chương ở Anh năm 1835-1848 và cuộc khởi
nghĩa của công nhân Dệt ở Đức 1844. Các cuộc khời nghĩa này của giai cấp công nhân đã
đánh dấu một bước tiên mới của phong trào đấu tranh của công nhân.
Sự phát triển mạnh mẽ của đại công nghiệp tư bản chư nghĩa đã làm cho đội ngũ cơng
nhân lớn lên nhanh chóng và tập trung tời mức độ khá cao tại các trung tâm công nghiệp,
đồng thời làm tăng thêm mức độ áp bức bóc lột đối với giai cấp cơng nhân, do đó, những cuộc

đấu tranh mới của công nhân mới lại diễn ra, đến cuối những năm 50- đầu những năm 60 của
thế kỷ XIX phong trào công nhân phát triển cao hơn nữa ở Pháp, Anh, Đức. Song lúc này,
phong trào công nhân các nước vẫn cịn tình trạng phân tán, sự tồn tại của nhiều phe nhóm
khuynh hướng phi vơ sản đang cản trở rất lớn cho sự thống nhất phong trào.
Đặc biệt vào những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa Mác ra đời với học thuyết về
cách mạng và khoa học như một ngọn đèn pha soi sáng con đường tiến lên của phong trào
công nhân và công nhân quốc tế.Sự ra đời của chủ nghĩa Mác là sự kiện vĩ đại của loài
người,đã giai đáp kịp thời và chính xác vấn đề của thời đại.Nó là”khoa học về những quy luật
11


phát triển của tự nhiên và của xã hội,khoa học về cách mạng của quần chúng bị áp bức,bóc
lột, khoa học về sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước,khoa học về kiến thiết
xã hội cộng sản chủ nghĩa”(1).
Và đỉnh cao của cách mạng của giai cấp vô sản là cách mạng tháng Mười Nga năm
1917 thành công.Khác với tất cả các cuộc cách mạng trước trong lịch sử,cách mạng tháng
Mười Nga đã xoá bỏ chế độ người bóc lột người, đưa giai cấp cơng nhân và nhân dân lao
đông lên làm chủ đất nước,làm chủ vận mệnh của mình,đã làm cho chủ nghĩa xã hội thành
hiện thực ở Nga.
Cách mạng tháng Mười Nga như tiếng sét dội khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu
người bị áp bức bóc lột trên trái đất, nhất là đã thức tỉnh các dân tộc bị áp bức , mở đường giải
phóng cho nhân dan các nước thuộc địa và phụ thuộc, trong đó có Việt Nam. Cách mạng
tháng Mười Nga đánh dấu một bước ngoặt lịch sử của phong trào cộng sản và phong trào công
nhân quốc tế. Từ đó, phong trào đấu tranh của giai cấp cơng nhân trên thế giới đã nổ ra khắp
nơi, ở rất nhiều nước giai cấp công nhân đã dành thắng lợi giải phóng được mình và giải
phóng được dân tộc.
Song sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ là giải phóng dân tộc mà cịn là
xây dựng đất nước. Thời đại nào mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản đều
khơng thể điều hồ được, trong thời đại ngày nay, mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai
cấp tư sản được biểu hiện và quy định bởi hai ngun nhân chính vừa có phần riêng rẽ biệt

lập, vừa có phần gắn kết với nhau. Đó là: thứ nhất, cuộc đảo lộn bất ngờ và sâu sắc trong cục
diện thế giới từ sau sự tan vỡ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô(cũ) và Đông Âu; thứ
hai, cuộc cách mạng khoa hoc-công nghệ bùng nổ từ những năm 70 đến đầu những năm 80 và
vẫn đang tiếp diễn đã thúc đẩy nền kinh tế, sản xuất thế giới phát triển vượt bậc.
Trước hết, do sự tan vỡ của hệ thống chủ nghĩa xã hội thế giới đã từng một thời rất
hùng mạnh và chế độ chủ nghĩa xã hội chỉ còn tồn tại ở một só it quốc gia đều trong giai đoạn
đang hoặc mới phát triển nên hiện nay mâu thuẫn giữa giai cấp cơng nhân với rư sản nhìn
chung biến động theo hướng tương quan về số lượng và một phần về chất lượng, trở nên bất
lợi hơn trước đối với cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân. Trong khi đó, hệ thống tư bản
chủ nghĩa và giai cấp rư sản thế giới khơng cịn phải lo ngài vệ một hệ thống xã hội chủ nghĩa
vốn từng là đối trọng tranh chấp quyết liệt và thách thức nghiêm trọng sự tồn tại của chúng
trong gần suốt nửa sau thế kỷ XX.

(1)(1)

Xta-lin: Chủ nghĩa Mác và những vấn đề về ngôn ngữ học, nghĩa Mác và những vấn đề về ngơn ngữ học, a Mác và cơng đồn Việt Nam, những vấn đề về ngôn ngữ học, ng vấp cơng nhân và cơng đồn Việt Nam,n đồn Việt Nam,ề về ngôn ngữ học, về về ngôn ngữ học, ngôn ngững vấn đề về ngôn ngữ học, học, c, Nxb Sự thật, Hà Nội , 1958, tr.63. thập, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva, 1980, T23, tr1.t, Hàn tập, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva, 1980, T23, tr1. Nộng 1990, tr i , 1958, tr.63.

12


Trước đây, trong bối cảnh cùng tồn tại bên cạnh hệ thống xã hơị chủ nghĩa – một hình
thái xã hội mới, bộc lộ tính ưu việt rõ rệt và được thừa nhận khá rộng rãi trên nhiều lĩnh vực;
chủ nghĩa tư bản đã khơng thể khơng tự thích nghi, tự cải biến và đơi khi cịn buộc phải
nhượng bộ phần nào trước quần chúng lao động và giai cấp cơng nhân. Hiện nay áp lực này
khơng cịn đối với giai cấp tư sản, trong điều kiện mới sẽ không loại trừ việc tái xuất hiện và
được áp dụng trở lại ở mức độ, phương thức nào đó một số thể chế chính trị tư sản phản động
cực đoan nhất đã từng được biết đến như các chế độ chuyên chế, độc tài hay thậm chí cả chủ
nghiã phát xít.
Và nếu như sự đảo lộn cục diện tình hình thế giới làm thay đổi vị thế của giai cấp công
nhân và tương quan giữa nó với giai cấp tư sản trên trường quốc tế chủ yếu về mặt chính trịxã hội thì những thành tựu to lớn của cách mạng khoa học-công nghệ hiện nay cũng tác động

mạnh mẽ tới mâu thuẫn giữa giai cấp cấp công nhân và giai cấp tư sản. Từ khoảng cuối những
năm 70-đầu những năm 80 đến nay, cách mạng khoa học và kĩ thuật trên thế giới đã có bước
phát triển mới. Đó là cuộc cách mạng khoa học công nghệ với đặc trưng nổi bật là bước tiến
quan trọng của nghành công nghệ mũi nhọn về điện tử-tin học và ảnh hưởng lan rộng của nó
đối với hầu hết các linh vực nghiên cứu khoa học cũng như nghành nghề lao động sản xuất.
Nếu trong những cuộc cách mạng về khoa học và kỹ thuật trước đây, lao động chân tay từng
bước được thay thế bằng cơ giới hố, tự động hố thì cuộc “cách mạng điện tử-thông tin”
đang diễn ra hiện nay cịn tiến tới thay thế cả lao động trí óc của con người trong một số khâu
của dây truyền sản xuất, trao đổi. Cuộc cách mạng khoa học-công nghệ đang diễn ra hiện nay
đã đưa đến những hệ quả phức tạp, đa dạng và nhiều chiều. Một mặt nó cung cấp cho giai cấp
tư sản những phương cách quản lý, thống trị chặt chẽ hơn, làm phân tầng, phân loại đội ngũ
công nhân ở phạm vi một nước cũng như trong bộ nền kinhtế thế giới tư bản chủ nghĩa thành
những nhóm khác nhau về lao động nghề nghiệp, cách biệt nhau về mức thu nhập và lối sống.
Điều này vừa có nguyên nhân khách quan là tiến bộ khoa học-cơng nghệ tự nó khơng thể xuất
hiện đồng thời ở tất cả mọi nơi, vừa có nguyên nhân chủ quan là những thành quả của tiến
trình đó lại bị giới tư bản quốc tế triển khai một cách không đồng đều trong trật tự “trung tâmngoại vi” do chúng dựng lên và duy trì bằng mọi giá. Đồng thời, cuộc cách mạng này lại tạo ra
cơ sở vật chất-kỹ thuật này cũng làm phát sinh những xung lực mới tương ứng, kích thích
mạnh mẽ sự chín muồi của mâu thuẫn giữa công nhân với tư sản, đua mâu thuẫn này lên một
mức độ sâu sắc hơn trong tiến trình đi đến việc giải quyết triệt để. Có thể dự đốn rằng đến
một giới hạn phát triển nhất định nào đó trong tương lai, các tiến bộ khoa học và kỹ thuật
chẳng những sẽ khơng cịn là liều thuốc cải tử vạn năng đối với chủ nghĩa tư bản nữa, mà
13


thậm chí có thể trở thành một trong những tác nhân trực tiếp quan trọng góp phần thủ tiêu chế
độ xã hội tư lâu đã trở nên lỗi thời này. Như vậy mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai
cấp tư sản ngày nay vẫn diễn ra rất gay gắt, chỉ có điều nó tồn tại dưới những hình thức khác
nhau mà thôi. Không phải đấu tranh bằng súng nữa nhưng giai cấp công nhân vẫn luôn phải
đấu tranh với giai cấp tư sản dưới mọi hình thức khác nhan để bảo vệ quyền lợi cho mình và
giai cấp mình.

Như vậy, mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi thời đại sẽ quy địnhk sứ mệnh lịch sử khác nhau
của giai cấp cơng nhân. Trong thời bình cũng như trong thời chiến giai cấp công nhân luôn
phát huy được sức mạnh của mình, đây là giai cấp tiến bộ nhất của xã hội. Và sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân đã được.
3. Cách mạng XHCN là con đường phát triển tất yếu của quá tŕnh thực hiện sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Theo chủ nghĩa Mac-Lenin th́ nguyên nhân sâu xa của những cuộc cách mạng xă hội là
do sự phát triển của lực lượng sản xuất . Theo qui luật chung của sự phát triển xă hội khi lực
lượng sản xuất không ngừng phát triển , mâu thuẫn với quan hệ sản xuất đă lỗi thời , ḱm hăm
nó th́ tất yếu phải thay thế quan hệ sản xuất đă lỗi thời đó bằng quan hệ sản xuất mới tiên tiến
hơn . C.Mac và Ph.Angghen đă chỉ rơ : ' từ chỗ là những h́ nh thức phát triển của các lực lượng
sản xuất , những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất . Khi đó
bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng xă hội ".
C.Mac đă viết : " sự tập chung tư liệu sản xuất và xă hội hóa lao động đạt đến cái điểm
mà chúng khơng cṇ thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa...nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó , với tính tất yếu của một quá tŕnh tự nhiên "
Biểu hiện mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế là tính tổ chức , tính kế hoạch trong từng doanh
nghiệp ngày càng tăng với tính vơ tổ chức của sản xuất xă hội do tính cạnh tranh của nền sản
xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa gây ra . Quy luật cạnh tranh , tính chất vơ chính phủ trong sản
xuất dẫn tới khủng hoảng thừa , buộc một số doanh nghiệp phải ngừng sản xuất , sản xuất đ́ nh
trệ , làm cho cơng nhân khơng có việc làm , do đó họ đă đứng lên đấu tranh chống lại giai cấp
tư sản .
Cách mạng xă hội chủ nghĩa là con đường cơ bản để thực hiện sứ mệnh lịch sủ của giai
cấp công nhân . Sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân là xóa bỏ chế độ TBCN , xóa bỏ chế
độ người bóc lột người , giải phóng giai cấp cơng nhân , nhân dân lâo động và toàn thể nhân
loại khỏi mọi sự áp bức , bóc lột , nghèo nàn lạc hậu , xây dựng xă hội chủ nghĩa văn minh .

14



Ph.Angghen viết : " thực hiện sứ mệnh giải phóng thế giới ấy - đó là sứ mệnh lịch sử
của giai cấp vô sản hiện đại " . Theo tác phẩm " Tuyên ngôn của đảng cộng sản " , C.Mac và
Ph.Angghen đă chỉ rơ :
GCCN gắn với lực lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới chủ nghĩa tư bản , nên nó là lực
lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa .Sau khi giành được chính quyền ,
GCCN đại biểu cho sự tiến bộ của lịch sử , là người duy nhất có khả năng lănh đạo xă hội ,
xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức tư bản chủ nghĩa .
GCCN là con đẻ của nền sản xuất công nghiệp công nghiệp hiện đại , họ là giai cấp
trực tiếp đối kháng với giai cấp tư sản .
Xét về bản chất họ là giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức bóc lột
củCNTB.GCCN có khả năng đồn kết thơng nhất giai cấp , đạt tới sự giác ngộ về địa vị lịch
sử của khả năng hành động chính trị để từng bước đạt tới mục tiêu cách mạng , họ có khả
năng đồn kết các giai cấp khác trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản .
4. Về vấn đề dân tộc và giai cấp: Vấn đề quan trọng, cốt lơi của cách mạng vô sản
trong Tuyên ngôn là đấu tranh giai cấp. Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác, vấn đề dân tộc
ln gắn với một giai cấp nhất định, khơng có dân tộc phi giai cấp, siêu giai cấp. Vấn đề dân
tộc ở các nước Tây Âu đă được giai cấp tư sản giải quyết. Các nước Tây Âu là các quốc gia,
dân tộc độc lập, khơng có sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, và chính họ lại đi xâm lược, áp
bức thuộc địa. Mặt khác, ở Tây Âu xă hội cơng dân ra đời sớm, sự phân hố giai cấp triệt để,
mâu thuẫn giữa giai cấp giữa tư sản và vô sản đối chọi nhau, một mất, một c ̣n. Vấn đề C.MácF.Ăngghen quan tâm là vấn đề xă hội Tây Âu quan tâm: đó là đấu tranh giai cấp. Điều đó
hồn tồn đúng ở Tây Âu, v́ khi giai cấp vô sản lật đổ tư sản, giải phóng cho giai cấp ḿnh,
đồng thời giải phóng cho dân tộc. V́ thế, trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, Mác kêu gọi
“giai cấp vô sản ở mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự xây dựng thành một
giai cấp dân tộc, phải tự ḿnh trở thành dân tộc, tuy hồn tồn khơng phải theo cái nghĩa như
giai cấp tư sản hiểu”(3). Đưa vấn đề đó vào Việt Nam th́ đúng nhưng chưa đủ, v́ ở Việt Nam
xă hội thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn xă hội chưa phát triển cao như ở Tây Âu.
Người chỉ rơ: “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra như ở phương Tây”, bởi v́ “về mặt cấu
trúc kinh tế, không giống các xă hội phương Tây thời trung cổ, cũng như thời cận đại, và đấu
tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở đây”(4). Nguyễn Ái Quốc phân tích làm sáng rơ:
“Những địa chủ hạng trung và hạng nhỏ và những kẻ mà ở đó được coi là đại địa chủ th́ chỉ là

những tên lùn tịt, bên cạnh những người trùng tên với họ ở châu Âu và châu Mỹ”... “nếu nơng
dân gần như chẳng có ǵ th́ địa chủ cũng khơng có vốn liếng ǵ lớn; nếu nông dân chỉ sống bằng
15


cái tối thiểu cần thiết th́ đời sống của địa chủ cũng chẳng có ǵ là xa hoa; nếu thợ thuyền khơng
biết ḿnh bị bóc lột bao nhiêu th́ chủ lại khơng hề biết cơng cụ để bóc lột của họ là máy móc.
Sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu. Điều đó, khơng thể chối căi được”(5).
Mặt khác, Việt Nam c ̣n bị sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, dân tộc c ̣n nô lệ. Cho
nên, địa chủ, nông dân, tư sản dân tộc, tiểu tư sản đều có điểm tương đồng là người dân nơ lệ,
mất nước và có nguyện vọng giải phóng dân tộc. Mâu thuẫn chủ yếu của xă hội Việt Nam cần
giải quyết là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc xâm lược. V́
vậy, muốn giải phóng giai cấp vơ sản theo học thuyết của Các Mac th́ trước hết phải giải
phóng cho dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Có giải phóng được dân tộc mới giải
phóng được giai cấp, nếu chỉ đấu tranh giải phóng giai cấp th́ khơng thể giải phóng được giai
cấp và cũng khơng thể giải phóng được dân tộc, v́ chủ nghĩa đế quốc sẽ đàn áp cách mạng.
Nắm vững bản chất cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đă
độc lập, tự chủ đề ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn cho cách mạng Việt Nam,
không giáo điều, dập khn. Trong Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh đă
xác định: “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Việt Nam hoàn
toàn độc lập”.(6). Từ sự phân tích, thấy rơ vai tṛ, vị trí của các giai cấp, tầng lớp trong xă hội
Việt Nam đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, Người chủ trương liên minh các giai cấp, các
tầng lớp yêu nước: “Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng
dân cày nghèo, làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn địa chủ và phong kiến” …Đảng phải hết
sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt,.v.v... để lôi kéo họ đi
vào phe vô sản giai cấp. Cṇ đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà
chưa rơ mặt phản cách mạng th́ phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ trung lập. Bộ phận nào đă
ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến.v.v..) th́ phải đánh đổ”(7). Nguyễn ái Quốc đặt giải
phóng dân tộc lên hàng đầu nhằm đoàn kết tập hợp hết thảy các lực lượng yêu nước, thương
ṇi, tạo ra sức mạnh dân tộc chống chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập tự do cho Tổ quốc là hoàn

toàn đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Đồng thời, Người luôn đứng vững trên lập
trường, quan điểm của giai cấp vô sản để giải quyết vấn đề dân tộc: “Trong khi liên lạc với
các giai cấp, phải cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích ǵ của cơng nơng mà đi vào
đường thoả hiệp”(8). Như vậy, Nguyễn ái Quốc đă đứng vững trên lập trường của giai cấp vô
sản để giải quyết vấn đề dân tộc. Tư tưởng đó đă soi sáng cho Đảng và nhân dân ta tiến lên
giành thắng lợi trong tổng khởi nghĩa cách mạng Tháng Tám (1945). Đây là luận điểm sáng

16


tạo của Hồ Chí Minh đă bổ sung, phát triển cho chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng giải
phóng dân tộc ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến.
Những nguyên lư do C.Mác, F.Ăngghen nêu lên trong Tuyên ngôn đă được Hồ Chí
Minh ln ln qn triệt, vận dụng và phát triển sáng tạo đă đưa cách mạng Việt Nam đi tới
giành những thắng lợi to lớn. Ngày nay, bối cảnh lịch sử mới đang đặt ra cho chúng ta tiếp tục
nghiên cứu vận dụng sáng tạo những nguyên lý đó vào cơng cuộc xây dựng và phát triển đất
nước theo định hướng xă hội chủ nghĩa đến thắng lợi hồn tồn.
Chú thích:
1. C.Mác và Ph.Ăngghen. Tuyển tập, tập I. Nxb Sự thât – Hà Nội 1980, tr 50
2. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 10. Nxb Chính trị quốc gia – Hà Nội 2000, tr 8.
3. C.Mác và Ph.Ăngghen. Tồn tập, tập 4. Nxb Chính trị quốc gia – Hà Nội 1995, tr 623 - 624
4. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 1. Nxb Chính trị quốc gia – Hà Nội 2000, tr 465.
5. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 1. Nxb Chính trị quốc gia – Hà Nội 2000, tr 464.
6. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 3. Nxb Chính trị quốc gia – Hà Nội 2000, tr 3.
7. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 3. Nxb Chính trị quốc gia – Hà Nội 2000, tr 3.
8. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 3. Nxb Chính trị quốc gia – Hà Nội 2000, tr 3
III. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam.
2.1 Nguồn gốc ra đời và những điều kiện quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân Việt Nam
Việt Nam mặc dù không phải là môi trường thuận lợi cho sự phát triển của thương

nghiệp và kinh tế hàng hoá, nhưng ở các thế kỷ XV-XVI cũng đã xuất hiện đội ngũ “người lao
động làm thuê”. Đầu thế kỷ XIX nhà Nguyễn cũng khai mỏ và dĩ nhiên có thợ mỏ,nhưng đó
chưa phải là cơng nhân hiện đại theo CácMác-ĂngGhen, tuyển tập gồm 6 tập, tập1, nhà xuất
bản sự thật, Hà Nội,năm 1980, trang 441-442, dây truyền công nghiệp. Đội ngũ “cơng nhân”
chỉ xuất hiện thực sự khi có cuộc khai thác thuộc địa lần I (1897-1919) và phát triển mạnh vào
cuộc khai thác thuộc địa lần I. Thực dân Pháp với chính sách đẩy mạnh khai thác thuộc địa ở
Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đã làm cho cơ cấu kinh tế Việt Nam có những biến chuyển quan
trọng, đặc biệt là xã hội Việt Nam đã thay đổi nhanh chóng, trong đó giai cấp cơng nhân đã
thực sự xuất hiện và phát triển . Với sự đầu tư của thực dân Pháp vào các ngành công-thương
nghiệp, đặc biệt là ngành khai thác mỏ đã làm cho số lượng giai cấp công nhân ngày càng phát
triển mạnh mẽ. Cụ thể là vào năm 1909 tổng số công nhân tồn quốc đã lên tới 55 nghìn
người. Số lượng này càng đông đảo thêm theo đà phát triển đầu tư vào các ngành kinh tế của

17


thực dân Pháp. Đến năm 1929, riêng số công nhân trong các ngành doanh nghiệp của người
Pháp ở Đông Dương là 221.050 người. Tuy giai cấp công nhân chỉ chiếm một số lượng nhỏ
trong dân số toần quốc nhưng công nhân Việt Nam vẫn là nột tập đồn người có vị trí riêng
trong sản xuất của xã hội thuộc địa. Họ khơng có tư liệu sản xuất, sinh sống bằng việc bán sức
lao động cho nhà tư bản. Cuộc sống của họ bị rằng buộc bởi những thể lệ lao động của nhà
nước thực dân bởi chế độ tiền công, của chế độ lao động của các chủ tư bản. Họ là một đạo
quân làm việc thường xuyên tại các xí nghiệp tư bản và rất tập trung: hầm mỏ, đồn điền cao
su, các đường giao thông vận tải và thương nghiệp ở thành thị…Tuy đa số chưa phải là công
nhân kỹ thuật, nhưng lao động của họ là lao động xã hội hoá, thuộc những hệ thống dây
truyền của xã hội tư bản. Sự hình thành giai cấp cơng nhân Việt Nam đã được xác định rõ “nó
sinh ra và lớn lên khơng phải từ khi có thành phần kinh tế tư bảnchủ nghĩa của giai cấp tư sản
dân tộc, mà ngay từ khi có sự khai thác đầu tiên của tư bản nước ngoài trên đất nước ta” (1).
Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, dưới sự thống trị của đế quốc
Pháp, một thứ tư bản chủ nghĩa thực lợi không quan tâm đến mấy đến phát triển công nghiệp

ở nước thuộc địa, nên giai cấp công nhân đã phát triển chậm. Mặc dù số lượng ít, trình độ
nghề nghiệp thấp, cịn mang nhiều tàn dư của tâm lý và tập quán nông dân, song giai cấp công
nhân việt nam đã nhanh chóng vươn lên đảm đương vai trị cách mạng ở nước ta do những
điều kiện sau:
Giai cấp công nhân Việt Nam sinh ra trong lịng một dân tộc có truyền thống đấu tranh
bất khuất chông ngoại xâm. Ơ giai cấp công nhân, nỗi nhục mất nước cộng với nỗi khổ vì ách
áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản đế quốc làm cho lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc kết hợp
là một, khiến động cơ cách mạng, nghị lực cách mạng và tính triệt để cách mạng được nhân
được nhân lên gấp bội.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và từng bước trưởng thành trong không khi sôi sục
của một loạt phong trào yêu nước và các cuộc khởi nghĩa chống thực dân pháp đặt chân lên
đất nước ta: phong trào Cần Vương và cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, của Hồng Hoa
Thám, các cuộc vận động yêu nước của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học…
đã có tác dụng to lớn đối với việc cổ vũ tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất và quyết tâm đập
tan xiềng xích nơ lệ của toàn thể nhân dân ta. Nhưng tất cả các phong trào ấy đều thất bại và
sự nghiệp giải phóng dân tộc đều lâm vào tình trạng bế tắc về đường lối.

Lê Duẩn: n: Vai trị giai cấp cơng nhân và cơng đồn Việt Nam,p cơng nhân Việt Nam,t Nam và cơng đồn Việt Nam, nhiệt Nam,m vụ của giai cấp cơng đồn trong giai củ nghĩa Mác và những vấn đề về ngôn ngữ học, a giai cấp cơng nhân và cơng đồn Việt Nam,p cơng đồn Việt Nam,ồ cơng đồn Việt Nam,n trong giai
đồn Việt Nam,oạn trước mắtn trưới giai cấp cơng nhân và cơng đồn Việt Nam,c mắtt. Nxb Sự thật, Hà Nội , 1958, tr.63. thập, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva, 1980, T23, tr1.t, Hàn tập, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva, 1980, T23, tr1. Nộng 1990, tr i, 1968.
(1)(1)

18


Vào lúc đó, phong trào cộng sản và cơng nhân thế giới phát triển. Cuộc cách mạng
tháng 10 Nga bùng nổ thắng lợi và ảnh hưởng đến phong trao dân tộc dân chủ nước khác,
trong đó có phong trào cách mạng nước ta. Chính vào lúc đó nhà u nước Nguyễn ái Quốc
trên hành trình tìm đường cứu nước đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin và tìm thấy ở chủ nghĩa
Mác-Lênin bí quyết thần kỳ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc ta. Từ đó, Người đã đề ra con
đường duy nhất đúng đắn cho cách mạng Việt Nam- con đường cách mạng dân tộc dân chủ

nhân dân và chuyển cách mạng đân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tấm gương cách mạng Nga và phong trào cách mạng và phong trào cách mạng ở nhiều
nước khác đã cổ vũ giai cấp công nhân non trẻ Việt Nam đứng lên nhận lấy sứ mệnh lãnh đạo
cách mạng nước ta và đồng thời cũng là chất xúc tác khích lệ nhân dân ta lựa chọn, tiếp nhận
con đường cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp duy nhất lãnh đạo cách
mạng Việt Nam.
Giai cấp công nhân Việt Nam mà tuyệt đại bộ phận xuất thân từ nông dân lao động và
những tầng lớp lao động khác, nên có mối liên hệ tư nhiên với đông đảo nhân dân lao động bị
mất nước, sống nô lệ nên cũng là điều kiện thuận lợi để giai cấp công nhân xây dựng lên khối
liên minh cơng nơng vững chắc và khối đồn kết dân tộc và rộng rãi bảo đảm cho sự lãnh đạo
của giai cấp cơng nhân trong suốt q trình cách mạng ở nước ta.
Ngồi những đặc điểm trên giai cấp cơng nhân Việt Nam cịn có những đặc điểm chung
giống như giai cấp cơng nhân quốc tế đó là giai cấp tiên tiến nhất, đại biểu cho một nền sản
xuất tiến bộ nhất. Giai cấp công nhân cũng là những người nắm được và biết sử dụng khoa
học kỹ thuật để sản xuất ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội. Là giai cấp có ý thức
tổ chức, kỷ luật và tư tưởng tập thể. Đó là điều kiện rất cần thiết để ánh đổ ách thống trị của
giai cấp tư sản và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Như vậy những điều kiện và đặc điểm trên đã quy định sứ mệnh lịch sử giai câp công
nhân Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và trong cơng cuộc giải phóng dân tộc và
trong cơng cuộc xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, bởi đó là giai cấp cách mạng
nhất triệt để nhất, kiên quyết nhất vì là lớp người bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất trong xã hơi
tư bản.
2.2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc.
Ơ nước ta, giai cấp công nhân trước hết phải làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phải lãnh đạo cuộc cách mạng đó thơng qua
đội tiên phong của mình là Đảng cộng sản Việt Nam. đấu tranh giành chính quyền, thiết lập
19



nền chuyên chính dân chủ nhân dân. Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp
công nhân từng bước lãnh đạo nhân dân lao động xây dựng thành cơng xã hội chủ nghĩa
khơng có chế độ người bóc lột người, giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc lột, bất
cơng.
Như chúng ta đã biết, qúa trình hình thành và phát triển của giai cấp cơng nhân ta đầu
thế kỷ này là sự chuyển biến trực tiếp từ người nông dân yêu nước thành người công nhân
cách mạng. Người nông dân yêu nước hiện nay lai là người kế tục trực tiếp của hàng trăm thế
hệ nông dân Việt Nam có truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất cho độc lập tự do.
Lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta đã tạo nên trong nhân
dân ta chủ nghĩa yêu nước nồng nàn, sáng suốt, bất khuất và có tính chất nhân dân. Vào giữa
thế kỷ XIX khi đế quốc Pháp xâm lược Việt Nam, nhân dân ta chủ yêu là nông dân, đã kết
hợp được một cách tự nhiên cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc với cuộc đấu tranh dành
quyền làm chủ vận mệnh dân tộc của nhân dân ta. Tinh thần yêu nước nồng nàn bất khuất đó
của nơng dân Việt Nam đã truyền tới giai cấp cơng nhân mới hình thành vào đầu thế kỷ XX.
Tiếp thu được chủ nghĩa yêu nước của dân tộc, giai cấp cơng nhân đã sớm tìm thấy con đường
đi đúng đắn phù hợp với bước phát triển của thời đại. Với chủ nghĩa yêu nước nồng nàn, sáng
suốt và có tính chất nhân dân, phong trào cơng nhân Việt Nam đã kết hợp làm một với chủ
nghĩa xã hội khoa học tạo thành chủ nghĩa yêu nước chân chính Vịêt Nam và Hồ Chí Minh
khẳng định “Tinh thần yêu nước chân chính là một bộ phận của tinh thần quốc tế” (Hồ Chí
Minh,st 1960). Người đã dẫn dắt dân tộc ta đi theo con đường cứu nước của quốc tế vô sản
thứ III do Lênin sáng lập ra.
Lịch sử Việt Nam đã chứng minh rằng giai cấp công nhân Việt Nam ra đời chưa được
bao lâu ngay cả khi nó chưa có đảng mà đã tổ chức một cách tự phát nhiêu cuộc đấu tranh
chống tư bản thực dân và được nhân dân ủng hộ. Tiêu biểu là cuộc bãi công của 600 thợ
nhuộm ơ chợ Lớn 1922 mà Nguyễn ái Quốc coi đó mới chỉ là “Do bản năng tự vệ” của những
người công nhân “Không được giáo dục và tổ chức” nhưng đã là “Dấu hiệu… của thời đại”.
Năm 1927 có gần chục cuộc bãi cơng với hàng trăm người tham gia, trong đó tiêu biểu nhất là
cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy xi măng Hải Phòng, sợi Nam Định, xe lửa Trường
Thi… Những cuộc đấu tranh như thế không chỉ giới hạn trong công nhân mà còn tác động sâu
sắc đến các tầng lớp khác, đặc biệt là đến giai cấp nông dân. các tầng lớp nhân dân lao động,

thanh niên, sinh viên làm cho bọn thống trị thực dân hoảng sợ.
Tuy nhiên, trong giai đoạn đấu tranh tự phát, giai cấp công nhân chưa thể nhận thức
được sứ mệnh lịch sử của mình. Sự kết hợp chủ nghĩa Mac-Lenin với phong trào công nhân
20



×