Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Xây dựng đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm trường đại học vinh trong giai đoạn hiện nay luận văn tốt nghiệp đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.83 KB, 78 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Đề tài:

XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM TRƯỜNG
ĐẠI HỌC VINH TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY

Giáo viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Lớp

VINH – 2011

: ThS. Lê Thị Nam An
: Lê Thị Hồng Thủy
: 48A – Giáo dục chính trị


LỜI CẢM ƠN

Để hồn thành khóa luận tốt nghiệp này, ngồi sự nỗ lực của bản
thân, tơi cịn nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của Ban chủ nhiệm
Khoa, Hội đồng Khoa học khoa Giáo dục Chính trị, các thầy, cô giáo trong
tổ bộ môn Triết học Mác – Lênin, sự động viên khích lệ của gia đình cùng
toàn thể các bạn sinh viên trong lớp 48A - Giáo dục Chính trị; đặc biệt là cơ
giáo Th.s Lê Thị Nam An người trực tiếp hướng dẫn tơi hồn thành khóa
luận này.


Mặc dù bản thân đã có nhiều trăn trở và nỗ lực nghiên cứu để hồn
thành khóa luận nhưng khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tơi rất
mong nhận được sự góp ý của thầy, cơ giáo để tơi có thể tiếp tục nghiên cứu,
bổ sung và làm sâu sắc hơn đề tài của mình.
Với tình cảm chân thành nhất, tôi xin gửi tới Ban chủ nhiệm Khoa,
Hội đồng Khoa học Khoa Giáo dục Chính trị, cùng tất cả các thầy, cơ giáo
trong khoa, gia đình và bạn bè; đặc biệt là cô giáo Th.s Lê Thị Nam An lời
cảm ơn chân thành, lời chúc sức khỏe, hạnh phúc và thành đạt.
Vinh, tháng 5 năm 2011
Sinh viên
Lê Thị Hồng Thủy


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG KHÓA LUẬN
ĐĐNN:

Đạo đức nghề nghiệp

ĐH:

Đại học

ĐHV:

Đại học Vinh

GD:

Giáo dục


KTSP:

Kiến tập sư phạm

KT – TTSP:

Kiến tập – Thực tập sư phạm

NN:

Nghề nghiệp

NVSP:

Nghiệp vụ sư phạm

SV:

Sinh viên

SVSP:

Sinh viên sư phạm

TCN:

Trước Công nguyên

TTSP:


Thực tập sư phạm

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
Trang
PHỤ LỤC.........................................................................................68


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ông cha ta từng nói: “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, “một nghề cho
chín cịn hơn chín nghề”. Ngày nay, mỗi người khi chọn nghề, làm nghề ln
trăn trở tạo dựng uy tín nghề nghiệp với phương châm “uy tín quý hơn vàng”,
“uy tín tạo nên sự thịnh vượng”…Điều đó cho thấy, bên cạnh chun mơn thì
cái đức của nghề, cái tâm với nghề đã được con người coi trọng. Bởi vậy, đạo
đức nghề nghiệp là một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá nhân cách của
người làm trong nghề đó. Từ xưa cho đến nay, dân tộc Việt Nam đã có truyền
thống tôn sư trọng đạo, tôn vinh nghề dạy học, tôn vinh người thầy giáo
“Không thầy đố mày làm nên” hay “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. Trong quan
điểm Nho giáo chính thống cịn đặt vị trí người thầy quan trọng hơn cả cha
mẹ theo thứ bậc “Quân, Sư, Phụ” về phương diện giúp con người mở mang trí
tuệ, phát triển tài năng và hình thành những giá trị đạo đức. Đồng thời, truyền
thống “tôn sư trọng đạo” của dân tộc Việt Nam cũng đặt ra những yêu cầu rất
cao thậm chí là khắt khe đối với đạo đức của người thầy giáo.
Giáo dục và đào tạo đội ngũ giáo viên xứng đáng với truyền thống tốt
đẹp là trọng trách của các trường đào tạo SVSP. SVSP là một đối tượng đặc

biệt trong các trường đại học sư phạm, cao đẳng sư phạm. Họ là những người
được đào tạo để phục vụ sự nghiệp “trồng người”, những người học nghề dạy
học, học để làm thầy giáo. Người thầy là những người đào tạo những thế hệ
cho hai mươi năm, ba mươi năm sau, do đó hình ảnh người thầy không chỉ
trong mắt mà thực sự đi vào trong tim các em. Ngày nay, trước những biến
đổi mạnh mẽ của xu thế thời đại và sự phát triển như vũ bão của cuộc cách
mạng khoa học – kĩ thuật thì hệ thống nhà trường sư phạm phải có những đổi
mới căn bản về mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức đào tạo. Trong
đó, phải đặc biệt coi trọng và thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng ĐĐNN cho
SVSP vì xây dựng và hình thành ĐĐNN được xem là một trong những nội
1


dung cơ bản nhằm đào tạo ra đội ngũ giáo viên đáp ứng chuẩn đạo đức nghề
nghiệp, thực sự có năng lực và phẩm chất đạo đức.
Trong những năm qua, khi đất nước đã và đang chuyển mình hịa vào làn
sóng hội nhập, mở rộng quan hệ hợp tác và giao lưu văn hóa với các nước
trên thế giới; một mặt, đã tạo nên nhiều chuyển biến tích cực và thu được
nhiều thành quả to lớn trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như:
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, nghệ thuật và đặc biệt là giáo dục và đào
tạo. Nền kinh tế thị trường, xu hướng mở cửa đã đem lại những thay đổi to
lớn trong nhận thức, hành vi và thái độ của SVSP và giáo viên về nghề dạy
học. Có thể nói: Đại bộ phận giáo viên và SVSP hiện nay rất năng động và
sáng tạo, mong muốn tạo ra và đóng góp nhiều của cải vật chất và tinh thần
cho bản thân, gia đình và xã hội. Họ mong được cống hiến, được làm giàu
chính đáng và hưởng thụ những thành quả do bàn tay và khối óc của mình tạo
ra. Đây là một trong những thay đổi rất lớn, là những phẩm chất mới trong
ĐĐNN của những người hành nghề sư phạm và những thầy cô giáo tương lai.
Tuy nhiên, mặt trái của xu thế hội nhập cũng đã có những ảnh hưởng
tiêu cực đến các vấn đề: đạo đức, luân lí, định hướng giá trị, thế giới quan,

nhân sinh quan trong nhân cách của nhiều tầng lớp trong xã hội, trong đó có
giáo viên và SVSP. Cụ thể, một bộ phận nhỏ giáo viên và SVSP chạy theo lối
sống thực dụng, ích kỷ hẹp hịi, lý tưởng NN mờ nhạt, quá đề cao giá trị vật
chất. Sự xuống cấp, suy thoái nhân cách của một bộ phận nhỏ này đã ảnh
hướng tới sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh, sinh viên làm
giảm đi sự tôn vinh, yêu quý mà nhân dân dành cho những người thầy giáo.
Một trong những nguyên nhân cơ bản của những biểu hiện tiêu cực nêu trên
chính là sự nhận thức chưa đúng đắn, chưa sâu sắc về nghề sư phạm. Vì vậy,
xây dựng ĐĐNN cho SVSP là một nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng để đào tạo
ra những giáo viên có phẩm chất đạo đức mẫu mực, có nhân cách hồn thiện.
Đây cũng là vấn đề khó, phức tạp nhưng có tính cấp bách hiện nay trong các
trường sư phạm hiện nay.
2


Ngày 16/7/1959, Bộ trưởng Bộ Giáo dục ký Nghị định 375/NĐ thành lập
phân hiệu Đại học sư phạm Vinh, đánh dấu một sự kiện đáng ghi nhớ trong
lịch sử nền giáo dục Việt Nam hiện đại. Qua 50 năm xây dựng và trưởng
thành, trường Đại học Vinh đã và đang đóng vai trị quan trọng trong hệ thống
giáo dục ĐH Việt Nam. Xuất phát từ chỗ một phân hiệu rồi trường Đại học
Sư phạm, Nhà trường đã đào tạo, bồi dưỡng giáo viên các cấp học cho đất
nước, góp phần xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí cho ngành giáo
dục Việt Nam. Với thế mạnh là trung tâm đại học đa ngành, mà sư phạm là
nòng cốt, trường trở thành trường chuẩn vừa đào tạo giáo viên các cấp, cán bộ
khoa học kỹ thuật có chất lượng cao; vừa nghiên cứu khoa học đạt trình độ
tiên tiến thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế - xã hội trong khu vực và cả nước.
Từ trường Đại học sư phạm Vinh trước đây đến trường Đại học Vinh hôm
nay, Nhà trường đã luôn tạo dựng và khẳng định được vị thế, uy tín của mình
trong hệ thống đại học nước nhà xứng đáng với danh hiệu “Ngọn cờ hồng trên
quê hương Xô viết”[33; 114]. Tuy nhiên, trong thời đại bùng nổ và phát triển

mạnh mẽ của khoa học, công nghệ và kĩ thuật, sự mở rộng nhanh chóng và
cạnh tranh quyết liệt giữa các trường ĐH, làm thế nào để Đại học Vinh giữ
vững và phát triển thương hiệu của mình, đặc biệt là “thương hiệu sư phạm”.
Thiết nghĩ đào tạo ra những giáo viên có phẩm chất ĐĐNN rất quan trọng.
Hơn nữa, thời kỳ mở cửa, hội nhập quốc tế bên cạnh những thuận lợi thì cũng
có nhiều vấn đề thách thức đặt ra đối với thế hệ trẻ nói chung và SVSP trường
Đại học Vinh nói riêng, như là sự suy thối về đạo đức đi ngược lại với thuần
phong mĩ tục, truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc.
Do đó, việc đẩy mạnh xây dựng ĐĐNN cho sinh viên tất cả các ngành
nghề là rất quan trọng và cần thiết, đặc biệt là đối với SVSP. Vì vậy, chúng
tơi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Xây dựng đạo đức nghề nghiệp cho Sinh viên
Sư phạm trường Đại học Vinh trong giai đoạn hiện nay” làm khóa luận Tốt
nghiệp Đại học.

3


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hàng ngàn năm nay dù trong chế độ xã hội nào ở phương Đông hay
phương Tây, thì vai trị và vị trí của người thầy giáo cũng được đề cao “…đó
là người đã giữ gìn những di huấn thiêng liêng của các bậc tiền bối đã đấu
tranh cho chân lý và hạnh phúc, là chiếc cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, mở
đường vươn tới tương lai”[29; 6], họ cũng là những người “…góp phần xua
tan bóng tối của trí tuệ, đưa ánh sáng của thái dương đến những ngôi nhà cỏ
thấp bé”[7; 17]. Họ là những người cần có tài cao đức trọng, trong đó mặt đạo
đức đã được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và đánh giá cao.
Sinh thời, Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trị của người thầy giáo
trong sự nghiệp cách mạng: “Tôi mong rằng trong một thời kì rất ngắn lịng
hăng hái và sự nỗ lực của anh chị em sẽ có kết quả vẻ vang. Đồng bào ta ai
cũng biết đọc, biết viết. cái vinh dự đó thì tượng đồng, bia đá nào cũng không

bằng”[20; 220] hay “Thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo là người
vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng báo, không được thưởng huân
chương, song người thầy giáo tốt là người anh hùng vô danh”[21; 492]
Ngày 29/06/1962 cố Tổng Bí thư Lê Duẩn trong bài phát biểu tại trường
Đại học sư phạm Hà Nội, đã nhấn mạnh: “Những người thầy giáo không yêu
nghề cũng có nghĩa là đồng chí đó khơng u người, càng yêu nghề bao nhiêu
thì càng yêu người bấy nhiêu”. Lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cố
Tổng Bí thư Lê Duẩn đã trở thành phương châm hành động của rất nhiều giáo
viên dưới mái trường XHCN. Các phẩm chất yêu người và yêu nghề là những
phẩm chất trụ cột, nền tảng trong ĐĐNN của nghề dạy học.
Trong cuốn “Tâm lý học” do Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 1995,
tác giả Phạm Minh Hạc đã giành toàn bộ chương VIII để đề cập đến người
thầy giáo. Ở chương này tác giả chỉ ra các thành tố tạo nên nhân cách của
người thầy giáo đó là năng lực và đạo đức.
Tác giả Lê Văn Hồng, trong cơng trình nghiên cứu “Tâm lý học lứa tuổi
và tâm lý học sư phạm” cho rằng: “người thầy giáo phải trau dồi nhân cách ;
4


[19; 169]. Tác giả cũng đi sâu phân tích những đặc điểm của lao động sư
phạm trên cơ sở đó chỉ ra các phẩm chất của người thầy giáo, đó là thế giới
quan khoa học, lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ, lòng yêu trẻ, lòng yêu nghề và
những phẩm chất đạo đức và ý chí của người thầy giáo. Đồng thời, tác giả
cũng cho rằng trường sư phạm có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc xây
dựng nên những cơ sở trọng yếu để hình thành nhân cách thầy giáo tương lai.
Thời gian học tập và tu dưỡng của SVSP ở trường sư phạm như KTSP, TTSP,
rèn luyện NVSP là cực kỳ quan trọng để tạo nên những tiền đề cần thiết kiến
tạo nên nhân cách người thầy giáo hay ĐĐNN của nghề dạy học.
Hai tác giả Phạm Khắc Chương và Hà Nhật Thăng, trên cơ sở phân tích
các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam trong lịch sử giáo dục, đã chỉ ra

một số phẩm chất của người thầy giáo “Thầy giáo là người giàu lịng nhân ái,
sống mẫu mực, đạo đức trong sáng, khơng tham cơng danh, phú q. Có thể
nói cái tâm, cái trí của thầy giáo là tấm gương sáng của con người trong các
thời kỳ lịch sử”[9; 94].
Tác giả Nguyễn Văn Phúc trong Tạp chí Triết học, số 7 (125) tháng
10/2001 cũng có đề cập đến vấn đề: “Xây dựng đạo đức nghề nghiệp trong
nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”. Tuy nhiên, tác giả chỉ đề cập đến
các nghề nghiệp nói chung chứ chưa làm rõ vấn đề xây dựng ĐĐNN cho
SVSP hiện nay như thế nào.
Tác giả Phạm Đỗ Nhật Tiến đưa ra một cách gọi khác về ĐĐNN của
nghề dạy học: “Sư đức”,“ …đến nay, trong các văn bản pháp quy của ta, vấn
đề sư đức chỉ được quy định một cách chung nhất, mang tính hình thức,
khơng có giá trị pháp lý trong việc điều chỉnh cách ứng xử và ĐĐNN của giáo
viên”. Như vậy, theo tác giả vấn đề ĐĐNN cần được quy định cụ thể và rõ
ràng trong các văn bản pháp quy để làm căn cứ cho người giáo viên có cách
ứng xử và có chuẩn mực đạo đức phù hợp với nghề dạy học. Tác giả cho rằng
cần phải xây dựng “Luật giáo viên”. Đây là cách tiếp cận đạo đức nghề nghiệp
rất hợp lý trong tình hình hiện nay, khi mà “…việc phân tích thực trạng đội
5


ngũ giáo viên cho thấy chất lượng đạo đức của đội ngũ giáo viên đang là vấn
đề bức xúc”.
Tác giả Vũ Thị Phương Lê trong Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Việt –
Trung có bài “Những giá trị cần định hướng cho SVSP Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay” cũng đã nêu bốn nội dung cơ bản cần định hướng cho SVSP.
Tác giả cũng cho rằng: “SVSP là những người đang ở độ tuổi thanh niên, là
công dân của nước nhà. Vì vậy, phải thống nhất giáo dục cả đạo đức, cả
chun mơn và thực hành pháp luật. Sớm hình thành ý thức về nghề nghiệp,
say mê học tập, sớm làm quen với lao động khoa học, sớm nảy nở tình yêu

NN sẽ giúp SV hình thành phong cách và bản lĩnh”[24; 123]
Những phẩm chất đạo đức mà giáo viên phải có cũng được thể hiện rõ
trong Luật giáo dục sửa đổi được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua năm 2005. “Luật Giáo dục” ghi rõ: “Nhà giáo phải có
những tiêu chuẩn sau đây: phẩm chất đạo đức, tư tưởng tốt; đạt trình độ chuẩn
được đào tạo về chuyên môn và nghiệp vụ; đủ sức khoẻ theo yêu cầu NN; lý
lịch bản thân rõ ràng”[25; 54]
Qua việc tìm hiểu các nghiên cứu của các tác giả, chúng tôi nhận thấy:
các tác giả đều đánh giá cao vai trò của ĐĐNN trong nhân cách sư phạm của
người thầy giáo, và để hình thành các phẩm chất đó phải trải qua một q
trình rèn luyện lâu dài và phức tạp ở trường có đào tạo hệ sư phạm. Ở trường
ĐHV để đáp ứng nhu cầu của xã hội, trường ĐHV đã xây dựng chuẩn đầu ra
cho các ngành nghề, trong đó đặt ra yêu cầu đối với hệ đào tạo sư phạm là
nắm vững chuyên môn và nắm vững kiến thức NVSP, bên cạnh chuyên môn
tốt cần có trách nhiệm ĐĐNN đối với nghề dạy học. Mục tiêu tổng quát của
Nhà trường đến năm 2020 là: “xây dựng Trường Đại học Vinh thành trường
ĐH trọng điểm quốc gia, một số ngành học đạt tiêu chuẩn quốc tế, đảm bảo số
lượng và chất lượng đào tạo, đặc biệt là hệ sư phạm”[33; 111]. Tuy nhiên,
hiện nay vẫn chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu một cách cụ thể vấn
đề xây dựng ĐĐNN cho SVSP trường Đại học Vinh trong tình hình mới 6


trước những tác động tích cực và tiêu cực của xu thế hội nhập tới ĐĐNN của
nghề sư phạm và tất nhiên chưa có những định hướng cụ thể khoa học trong
xây dựng ĐĐNN cho SVSP phù hợp với giai đoạn hiện nay”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, làm rõ nội dung cơ bản của
ĐĐNN của nghề dạy học và đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng ĐĐNN
cho sinh viên sư phạm trường ĐHV trong giai đoạn hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận: Làm rõ một số khái niệm liên quan đến vấn đề
nghiên cứu như đạo đức, đạo đức nghề nghiệp, các yếu tố ảnh hưởng đến xây
dựng đạo đức nghề nghiệp cho Sinh viên sư phạm…
- Nghiên cứu thực tiễn: Tìm hiểu thực trạng về đạo đức sinh viên sư
phạm ĐHV, công tác xây dựng đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm
ĐHV, nguyên nhân của thực trạng…
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu xây dựng đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên sư phạm ĐHV
4. Phạm vi nghiên cứu
Xây dựng đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm trường Đại học
Vinh trong thời kỳ hội nhập.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình nghiên cứu đề tài này, chúng tơi đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp logic – lịch sử.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê.
- Phương pháp phân tích tài liệu.

7


6. Ý nghĩa của đề tài
Làm cơ sở cho việc góp phần xây dựng đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên sư phạm Đại học Vinh, hình thành những chuẩn mực đạo đức người giáo
viên cho những thầy, cô giáo tương lai.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khố luận được trình bày trong 2

chương và 4 tiết:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc xây dựng đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên sư phạm
Chương 2: Vấn đề xây dựng đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm
trường Đại học Vinh trong giai đoạn hiện nay

8


B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC NGHỀ
NGHIỆP CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM
1.1. Đạo đức và đạo đức nghề nghiệp
1.1.1. Đạo đức
Đạo đức là gì? nó cần thiết đối với mỗi con người và cộng đồng, xã hội
như thế nào? chuẩn mực đạo đức và việc thực hiện chuẩn mực đạo đức để
được chấp nhận, ngợi ca trong cộng đồng là những gì? Các giá trị đạo đức
truyền thống cần được kế thừa và phát huy như thế nào? Đó là những vấn đề
được người ta nói và viết khơng ngớt trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại và
mỗi dân tộc.
Đặc biệt, trong những thập kỷ gần đây khi mà nền kinh tế bước vào thời
kỳ tồn cầu hóa, khu vực hố thì những nét đồng điệu về kinh tế khơng thể
xố nhịa ranh giới về văn hóa, đạo đức; mà ngược lại, như một lẽ tự nhiên,
lại làm cho những yếu tố về văn hóa, đạo đức rõ rệt hơn, nổi bật lên ở mỗi con
người, mỗi quốc gia.
Có thể nói, đạo đức là một trong những hình thái sớm nhất của ý thức xã
hội, điều chỉnh hành vi của con người, là sản phẩm của quá trình phát triển
lịch sử của xã hội và góp phần phản ánh tồn tại xã hội. Trong sự nghiệp xây
dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, đạo đức vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát

triển xã hội.
Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo
đức học xuất hiện hơn 26 thế kỷ trước đây trong triết học Trung Quốc, Ấn
Độ, Hi Lạp cổ đại.
Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là “mos” (moris) - lề thói, đạo
nghĩa. Cịn “ln lý” được xem như là đồng nghĩa với “đạo đức” có gốc từ
tiếng Hi Lạp là “ethicos” - lề thói, tập tục. Khi nói đến đạo đức, tức là nói đến
9


những lề thói và tập tục biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người với người
trong sự giao tiếp với nhau hằng ngày.
Ở Phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ
đại xuất hiện sớm, được biểu hiện trong quan niệm về “đạo” và “đức” của họ.
Đạo đức là một trong những phạm trù quan trọng của Triết học Trung Quốc
cổ đại. “Đạo” có nghĩa là con đường, đường đi, về sau khái niệm “đạo” được
vận dụng trong triết học để chỉ con đường tự nhiên. “Đạo” cịn có nghĩa là
đường sống của con người trong xã hội.
Khái niệm “đức” lần đầu tiên xuất hiện trong Kinh văn đời nhà Chu và
từ đó trở đi nó được người Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều. Đức dùng để
nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo
nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Như vậy, có thể nói đạo đức của người Trung
Quốc cổ đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra
mà mỗi người phải tuân theo.
Ở Phương Tây, vấn đề đạo đức từ lâu đã thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà tư tưởng. Cho đến nay, người ta vẫn coi Xôcrats (469 – 399 TCN) là
người đầu tiên đặt nền móng cho khoa học đạo đức học. Cịn Arixtơt (384 –
322 TCN) đã viết bộ sách Đạo đức học với 10 cuốn, trong đó ơng đặc biệt
quan tâm đến phẩm hạnh con người. Nội dung của phẩm hạnh chính là chỗ
biết định hướng, biết làm việc thiện. Ơng nói: “chúng ta bàn về đạo đức

không phải để biết đức hạnh là gì mà là để trở thành con người có đức hạnh”.
Có nhiều quan niệm khác nhau về đạo đức. Theo từ điển Triết học thì:
“Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, một chế định xã hội
thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi của con người trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội không trừ một lĩnh vực nào”[36; 165].
Hay “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên
tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của
con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực

10


hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã
hội”[15; 7].
Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã
hội, phản ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội. Đạo đức cũng như các quan
điểm triết học, chính trị, nghệ thuật, tơn giáo, đều thuộc kiến trúc thượng tầng.
Chế độ kinh tế - xã hội là nguồn gốc của quan điểm về đạo đức. Các quan
điểm này thay đổi theo cơ sở đã đẻ ra nó. Ví dụ: thích ứng với chế độ phong
kiến, dựa trên cơ sở bóc lột những người nơng nơ bị cột chặt vào ruộng đất là
đạo đức xã hội nông nơ. Thích ứng với chế độ tư bản dựa trên cơ sở bóc lột
người cơng nhân làm th là đạo đức tư sản. Chế độ xã hội chủ nghĩa tạo ra
một nền đạo đức biểu hiện mối quan hệ hợp tác trên tình đồng chí và quan hệ
tương trợ lẫn nhau của những người lao động đã được giải phóng khỏi ách
bóc lột. Như vậy, sự phát sinh phát triển của đạo đức, xét đến cùng là một quá
trình do sự phát triển của phương thức sản xuất quyết định.
Trong bối cảnh đổi mới của đất nước cùng với xu hướng hội nhập quốc
tế mở rộng, các giá trị và phạm trù đạo đức ngày càng phong phú nhưng
chúng ta vẫn luôn coi trọng phạm trù luân lý, kế thừa gạn lọc những nội dung
đạo đức truyền thống dân tộc. Bên cạnh việc kế thừa, phát huy những nội

dung truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đạo đức ngày nay đòi hỏi con người
phải biết quan tâm đến những vấn đề nóng bỏng của xã hội, đất nước. Cụ thể
là:
- Đạo đức được hiểu đó là trách nhiệm của con người trong việc tham
gia giữ gìn, bảo vệ, thực hiện giải quyết những mâu thuẫn của thời đại mà
nhân loại đang phải đối mặt để xây dựng một môi trường tự nhiên, xã hội lành
mạnh cho con người được sống, được phát triển. Đó là các vấn đề như: chiến
tranh, hịa bình, dân số, mơi trường, tệ nạn xã hội (ma túy, mại dâm, AIDS)…
- Đạo đức còn thể hiện ở hiệu quả của cá nhân trong q trình hồn thiện
nhân cách suốt đời, đóng góp của bản thân vào việc thực hiện các mục tiêu

11


của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng xã hội cơng bằng, dân
chủ, văn minh.
- Người có đạo đức là người tự giác sáng tạo thực hiện tốt những quy
định của pháp luật, của xã hội; thực hiện có hiệu quả, có chất lượng cao
những nhiệm vụ, vị trí của bản thân trong cơng việc, trong xã hội và gia đình.
- Đạo đức có liên quan chặt chẽ với phạm trù chính trị, tư tưởng, pháp
luật, văn hóa, lối sống. Là thành phần cơ bản của nhân cách, phản ánh bộ mặt
nhân cách của một cá nhân đã được xã hội hóa. Đạo đức được biểu hiện ra ở
cuộc sống tinh thần, tâm hồn trong sạch; ở thái độ, cảm xúc, tình cảm, ở hành
vi hoạt động hàng ngày một cách có hiệu quả góp phần giải quyết các mâu
thuẫn một cách hợp lý nhằm mang lại lợi ích cho xã hội, cho cộng đồng và
cho người khác; từ đó phát triển và hồn thiện nhân cách bản thân….
1.1.2. Đạo đức nghề nghiệp
Trước hết, muốn tìm hiểu đạo đức nghề nghiệp là gì, các loại hình nghề
nghiệp được phân chia như thế nào? chúng ta phải hiểu được khái niệm thế
nào là nghề nghiệp? Theo từ điển Tiếng Việt “NN là một công việc mà người

ta thực hịên trong suốt cả cuộc đời” [35; 63].
Ví dụ: nghề dạy học, nghề y, nghề kinh doanh. NN không chỉ đảm bảo
cuộc sống mà cịn tơn vinh con người làm việc trong lĩnh vực NN đó. Ví dụ:
trong nghề dạy học có rất nhiều thầy giáo được nhân dân và cả xã hội tôn vinh
như Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, La sơn Phu tử Nguyễn
Thiếp, Nguyễn Đình Chiểu đến thầy giáo Nguyễn Tất Thành.
Bất cứ một loại hình NN nào cũng có đối tượng quan hệ trực tiếp của nó.
Dựa trên đặc điểm này, người ta đa chia NN thành 4 loại sau:
- Nghề quan hệ với kỹ thuật (thợ lắp máy, sữa chữa máy móc, gia cơng)
- Nghề quan hệ với tín hiệu (thợ sắp chữ, sửa bản in, đánh máy, mật mã)
- Nghề quan hệ với động vật và thiên nhiên (chăn nuôi, thú y, địa chất)
- Nghề quan hệ trực tiếp với con người (cán bộ quản lý, tuyên huấn, thầy
thuốc, bán hàng, sư phạm, hướng dẫn viên du lịch).
12


Dựa trên trình độ chun mơn được địi hỏi, có thể phân loại NN như
sau:
- Các nghề không chuyên môn hoá: như nghề bốc; dỡ; vận chuyển
nguyên liệu, vật liệu. Đây là những nghề sử dụng việc mang, vác trực tiếp
hoặc nhờ các phương tiện nửa cơ giới; những nghề này chỉ cần sự thích ứng
trong khoảng thời gian ngắn với những yêu cầu của lao động thấp (chỉ cần đạt
được một số ít tri thức và kĩ xảo NN).
- Các nghề nửa chun mơn hố: Là những nghề đỏi hỏi một trình độ
chun mơn hạn chế, các tri thức và kĩ xảo nghề nghiệp chỉ đủ để thực hiện
những thao tác đơn giản hay những thao tác được chuyên biệt hố một cách
chặt chẽ.
- Các nghề chun mơn hố: Là những nghề địi hỏi một q trình đào
tạo NN chính quy, cá nhân được nhận chứng chỉ cơng nhận tay nghề do các
cơ sở đào tạo cấp. Trên cơ sở đó, người lao động được nhận vào làm việc

thuộc lĩnh vực NN tương ứng. Các chứng chỉ NN có thể chứng nhận một trình
độ chun mơn ở mức cơ sở, trung cấp, cao đẳng, đại học…
Lựa chọn NN là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng khơng chỉ đối với cá
nhân mà cịn đối với xã hội. Nó không chỉ đơn thuần là sự lựa chọn một công
việc cụ thể nào đó để ni sống bản thân, đóng góp cho gia đình và xã hội, mà
đó cịn là sự lựa chọn một cách sống, lối sống cho tương lai. Thực tế cho thấy
không phải tất cả thanh niên, sinh viên lựa chọn đúng đắn về NN.
Theo các chuyên gia tư vấn về NN, có 2 nguyên nhân dẫn tới sự sai lầm
trong lựa chọn NN, đó là:
- Thái độ khơng đúng đối với tình huống khác nhau của việc lựa chọn
NN, cụ thể: thái độ với việc lựa chọn NN như là với việc lựa chọn một nơi cư
trú suốt đời; những thành kiến về NN; ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp của
NN; sự say mê chỉ xuất phát từ mặt bên ngoài hay một mặt cục bộ nào đó của
NN.

13


- Thiếu tri thức, kinh nghiệm, thông tin về các tình huống NN, cụ thể:
đồng nhất mơn học với NN; những biểu tượng lỗi thời về tính chất lao động
của lĩnh vực NN; không hiểu về năng lực và động cơ của bản thân; không
đánh giá đúng về những đặc điểm thể chất, thiếu sót của bản thân khi lựa chọn
NN. Việc lựa chọn NN là rất quan trọng và phức tạp. Về phía cá nhân phải có
sự lựa chọn một cách tự giác, có suy nghĩ chín chắn. Xã hội cần có sự hướng
dẫn, định hướng NN trên cơ sở kết hợp được các yếu tố: nguyện vọng, năng
lực của cá nhân; những đỏi hỏi của NN; những yêu cầu của xã hội đối với các
loại hình NN.
Đào tạo NN được hiểu là tồn bộ q trình học tập của con người và
những tích luỹ của cá nhân về kiến thức; kỹ xảo và các đặc điểm tâm lý.
Ngoài ra, đào tạo NN cịn được hiểu là tồn bộ các hoạt động, được triển khai

theo cá nhân hay tập thể, một cách ngẫu nhiên hay có tổ chức. Đào tạo NN
được tiến hành thơng qua các hình thức sau: dạy nghề, hồn thiện NN, chun
mơn hố NN, đào tạo bằng kinh nghiệm, thơng tin NN. Ba hình thức đầu
được xem là các giai đoạn của việc đào tạo NN chính quy. Hai hình thức sau
có thể gặp cả trong việc đào tạo chính quy lẫn trong đào tạo NN phi chính
quy. Trong các hình thức trên, dạy nghề là quan trọng nhất. Dạy nghề là hoạt
động trang bị cho người học những kiến thức tối thiểu, các kỹ năng, kỹ xảo và
những đặc điểm nhân cách để thực hiện tốt một loại hình NN nhất định.
Mỗi loại hình NN luôn đặt ra cho những người trong lĩnh vực NN đó
những yêu cầu, quy tắc, chuẩn mực mà họ phải tự giác thực hiện. Có bao
nhiêu loại NN thì cũng có bấy nhiêu loại ĐĐNN. Ví dụ: ĐĐNN của người
giáo viên, công an nhân dân, bác sỹ, kỹ sư, huấn luyện viên, vận động viên
thể thao, luật sư, dịch thuật, lái xe, người kinh doanh, nhà báo…
ĐĐNN luôn thể hiện qua hành vi NN và kết quả lao động. ĐĐNN thực
hiện các chức năng sau đây:
- Định hướng giáo dục những người làm việc trong NN để họ có được
những phẩm chất phù hợp với xã hội, với NN.
14


- Điều chỉnh hành vi của người làm việc trong NN phải tuân thủ những
quy tắc, chuẩn mực của lĩnh vực đó.
Với tư cách là phương thức kiếm sống, hoạt động nghề nghiệp là hoạt
động cơ bản của con người. Trong hoạt động nghề nghiệp, những lợi ích trực
tiếp và thiết yếu nhất của con người được thực hiện. Nhưng khi thực hiện lợi
ích của mình con người khơng thể khơng có quan hệ về mặt lợi ích với người
khác, với xã hội. Vì thế, hoạt động nghề nghiệp cũng là hoạt động mà ở đó
những quan hệ đạo đức giữa con người với con người, giữa con người với xã
hội được thể hiện. Do tính đặc thù của của hoạt động nghề nghiệp mà xã hội
có những yêu cầu, những đòi hỏi cụ thể về nghề nghiệp cũng như về đạo đức

đối với từng dạng hoạt động nghề nghiệp nhất định. Do đó, với mỗi loại hình
nghề nghiệp có một số chuẩn mực đạo đức thể hiện một cách nổi bật, làm
thành tính đặc thù đạo đức của nghề nghiệp đó. Ví dụ: y tế là một trong những
lĩnh vực mà từ lâu đã đề xuất những yêu cầu đạo đức nghề nghiệp. Do có liên
quan trực tiếp đến sinh mạng của bệnh nhân, lĩnh vực này đỏi hỏi một trách
nhiệm cao, một sự tận tâm, một tình thương “lương y như từ mẫu”, đã hình
thành nên chuẩn mực đạo đức của người thầy thuốc: tình thương, lương tâm,
trách nhiệm; giữ chữ tín, trung thực là yêu cầu đạo đức của người kinh doanh
chân chính; tận tụy với cơng vụ, thanh liêm, gương mẫu là yêu cầu đạo đức
của người quản lý xã hội; với nghề luật sư ngoài các yếu tố Chân, Thiện, Mỹ,
luật sư phải là người có khối óc thơng minh, tấm lịng trong sáng, dũng cảm,
biết lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm cơ sở hoạt động mới xứng đáng với
sự tin cậy và tơn vinh của xã hội, đó chính là u cầu rất cao trong đạo đức
nghề nghiệp luật sư…Những yêu cầu, chuẩn mực đó một mặt là sự phản ánh
cụ thể những đòi hỏi của xã hội; mặt khác lại là động lực tinh thần để con
người có được hiệu quả tích cực trong hoạt động nghề nghiệp.
Theo T.s Nguyễn Anh Tuấn “ĐĐNN là hệ thống các chuẩn mực đạo đức
phản ánh những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội, của bản thân NN đối với người

15


làm việc trong lĩnh vực NN đó, giúp họ hồn thành nhiệm vụ của mình với
kết quả cao nhất”[30; 27].
Như vậy, ĐĐNN là một bộ phận của đạo đức xã hội, là đạo đức trong
một lĩnh vực cụ thể trong đạo đức chung của xã hội. ĐĐNN bao gồm những
yêu cầu đạo đức đặc biệt, các quy tắc chuẩn mực trong lĩnh vực nghề nghiệp
nhất định, nhằm điều chỉnh hành vi của các thành viên trong nghề nghiệp đó
sao cho phù hợp với lợi ích và sự tiến bộ xã hội. ĐĐNN có mối quan hệ chặt
chẽ với năng lực NN, chúng kết hợp với nhau, biểu hiện thông qua nhau, tạo

nên nhân cách của cá nhân hoạt động trong lĩnh vực NN nào đó. Các phẩm
chất NN là cơ sở để hình thành các năng lực NN. Ví dụ: tình yêu đối với NN
làm cho cá nhân hăng say, tích cực sáng tạo trong NN. Như vậy, tình u NN
là một trong những cơ sở để hình thành các năng lực NN. Đồng thời, năng lực
NN sau khi được hình thành và rèn luyện lại có những ảnh hưởng đối với việc
hình thành các chuẩn mực về đạo đức trong lĩnh vực NN nào đó. Ví dụ: có
năng lực giảng dạy và giáo dục tốt sẽ là cơ sở để củng cố lòng yêu nghề, yêu
trẻ của người giáo viên.
1.2. Tầm quan trọng của việc xây dựng đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên sư phạm
1.2.1. Sinh viên sư phạm là một đối tượng đặc thù trong quá trình giáo
dục – đào tạo ở trường đại học, cao đẳng
SVSP là sinh viên học tập trong các trường đại học, cao đẳng để trở
thành người giáo viên. Về cơ bản SVSP là những sinh viên học tập ở các
trường đại học sư phạm, cao đẳng sư phạm. Trong thực tiễn hiện nay, để mở
rộng quy mô đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước, một số trường đại học, cao
đẳng đa ngành có đào tạo hệ sư phạm. Những sinh viên được đào tạo để trở
thành giáo viên trong các trường này cũng được coi là SVSP.
SVSP là những trí thức trẻ, họ đang ở giai đoạn chuẩn bị tích cực nhất
cho tương lai nghề nghiệp của bản thân, chính vì vậy, đây cũng là lứa tuổi có
nhiều ước mơ, hồi bão và khát vọng nhất. Do đó, sự nhiệt tình năng động và
16


sáng tạo chính là những sức mạnh to lớn giúp họ làm chủ kiến thức, hình
thành kỹ năng cơ bản và thái độ tích cực của nghề dạy học. Quá trình được
giáo dục ở nhà trường là thời gian quý báu để SVSP tích lũy kiến thức chun
mơn, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm làm hành trang cho công tác “dạy chữ, dạy
người” sau này.
Đào tạo ngành sư phạm là đào tạo ra những người thầy để giáo dục cho

các thế hệ trẻ. Do vậy, bên cạnh việc giáo dục và nâng cao trình độ chun
mơn cho sinh viên, ở các trường đại học cần coi trọng đúng mức việc giáo dục
đạo đức, đạo đức nghề nghiệp. Đặc biệt, với SVSP họ phải thực sự giỏi
chuyên môn và nắm vững ĐĐNN. Bởi SVSP là những người sẽ góp phần
hình thành và phát triển trí tuệ và nhân cách cho thế hệ trẻ. Môi trường mà
người giáo viên tương lai hoạt động là nhà trường, một trong ba môi trường
của quá trình giáo dục con người. Lao động sư phạm của người thầy có những
đặc điểm:
- Nghề mà đối tượng quan hệ trực tiếp là con người
- Công cụ chủ yếu là trí tuệ, nhân cách của chính mình
- Tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội
- Đòi hỏi tính khoa học, tính mẫu mực, tính nghệ thuật và tính sáng tạo
cao
- Là lao động trí óc chun nghiệp
Hơn thế nữa, nghề dạy học là một nghề rất đặc biệt. Không chỉ học sinh
mà cha mẹ học sinh và cả nhân dân cũng gọi bằng một từ thể hiện lịng kính
trọng và biết ơn sâu sắc “Thầy”. Chính vì điều này mà nghề dạy học và bản
thân người thầy giáo tự đỏi hỏi mình phải trau dồi những phẩm chất đạo đức
hết sức cao đẹp: yêu nghề mến trẻ, bao dung, độ lượng.
Như vậy, có thể khẳng định ĐĐNN của nghề dạy học, một bộ phận trong
nhân cách sư phạm, là hệ thống các chuẩn mực đạo đức phản ánh những yêu
cầu, đỏi hỏi của xã hội, của nghề dạy học đối với người thầy giáo, giúp người
thầy giáo hồn thành nhiệm vụ của mình với kết quả cao nhất.
17


1.2.2. Những nhân tố tác động đến việc xây dựng đạo đức nghề nghiệp
cho sinh viên sư phạm
C. Mác đã từng nói rằng: “Bản chất của con người khơng phải là một cái
gì trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản

chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Điều đó có nghĩa là khơng
có con người trừu tượng, thốt li mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội mà
thông qua các mối quan hệ xã hội con người hồn thiện nhân cách, đạo đức
của mình. Việc hình thành phẩm chất ĐĐNN cho SVSP là một quá trình lâu
dài và phức tạp, q trình đó diễn ra trong nhiều môi trường khác nhau như:
môi trường xã hội, môi trường sư phạm, mơi trường gia đình…
Thứ nhất, các nhân tố của môi trường xã hội hằng ngày, hàng giờ tác
động đến nhận thức, thái độ, hành vi của SVSP. SVSP là khách thể, chịu sự
tác động của môi trường xã hội, phản ánh những thay đổi của các điều kiện về
kinh tế, chính trị, tơn giáo, pháp luật, văn hóa, dư luận xã hội. Mặt khác,
SVSP lại là những chủ thể tích cực trong hoạt động tự giáo dục và tự rèn
luyện của bản thân. Các yếu tố trong môi trường xã hội tác động đến nhận
thức, thái độ và hành vi của SVSP đều thơng qua “lăng kính chủ thể”, tức là
SVSP tiếp thu một cách có chọn lọc đối với những tác động đó. Mơi trường
xã hội tác động đến nhận thức, thái độ, hành vi của SVSP theo hai chiều
hướng: tích cực và tiêu cực. Mơi trường xã hội còn thể hiện với tư cách là nơi
mà nhận thức, thái độ, hành vi của SVSP được thể hiện, bộc lộ và được đánh
giá. Tức là, thông qua mơi trường xã hội, có thể đánh giá được nhận thức, thái
độ, hành vi, của SVSP. Vì vậy, có thể khẳng định môi trường xã hội là nhân
tố quan trọng đối với sự hình thành và phát triển của nhân cách sư phạm hay
đạo đức nghề nghiệp nghề dạy học.
Thứ hai, môi trường sư phạm là một bộ phận của mơi trường xã hội,
phản ánh trình độ phát triển của mơi trường xã hội. Trong đó, các tác động
tích cực được phát huy cao độ, mang “bản sắc sư phạm”, các tác động tiêu
cực được hạn chế một cách tối đa. Như vậy, môi trường sư phạm về mặt lý
18


thuyết sẽ là lý tưởng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách nói chung
và nhân cách sư phạm nói riêng. Mơi trường sư phạm bao gồm nhiều yếu tố:

điều kiện sinh hoạt; các quan hệ giao tiếp; nhân cách người thầy giáo; dư
luận. Như vậy, môi trường sư phạm là một môi trường xã hội đặc biệt. SVSP
được sống, học tập, lao động, vui chơi trong môi trường sư phạm có nhiều
điều kiện thuận lợi để rèn luyện và hình thành các phẩm chất ĐĐNN; đồng
thời có khả năng phòng, chống những tác động tiêu cực từ mơi trường xã hội.
Có thể nói, mơi trường sư phạm là nhân tố quan trọng hình thành cho SVSP
những phẩm chất ĐĐNN nghề dạy học.
Thứ ba, gia đình là nhân tố rất quan trọng đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách nói chung, nhân cách sư phạm nói riêng. Các yếu tố của gia
đình (quan hệ ruột thịt, huyết thống; nề nếp sinh hoạt; điều kiện sống; phương
thức giáo dục) ảnh hưởng một cách mạnh mẽ, sâu sắc tới nhận thức, thái độ,
hành vi và thói quen của con người. Mặt khác, gia đình cũng là mơi trường để
con người bộc lộ một cách trung thực nhất thái độ, hành vi, nhận thức và thói
quen của mình. Như vậy, gia đình vừa được xem như một chủ thể giáo dục,
vừa được xem như một môi trường giáo dục. Đối với những SVSP sinh ra và
lớn lên trong gia đình có những người thân tham gia nghề dạy học, thì quá
trình hình thành và phát triển các phẩm chất ĐĐNN của nghề dạy học diễn ra
thuận lợi hơn, thậm chí sự định hướng nghề dạy học của những SVSP này
cũng do các thành viên trong gia đình thực hiện. Đối với những SVSP khác,
sự ảnh hưởng của yếu tố gia đình đối với quá trình hình thành và phát triển
các phẩm chất ĐĐNN của nghề dạy học cũng rất mạnh mẽ vì SVSP ln chịu
ảnh hưởng bởi dư luận, định hướng NN, sự giáo dục của các thành viên trong
gia đình. Gia đình thực sự là một nhân tố tác động tới nhận thức, thái độ và
hành vi NN của SVSP.
Như vậy, môi trường xã hội, môi trường sư phạm và gia đình là những
nhân tố quan trọng đối với sự hình thành các phẩm chất ĐĐNN của nghề dạy
học. Các phẩm chất ĐĐNN của nghề dạy học ở mỗi người giáo viên và SVSP
19



cũng phản ánh trong đó trình độ phát triển của môi trường xã hội, môi trường
sư phạm và phương thức giáo dục của gia đình. Như vậy, mơi trường xã hội,
mơi trường sư phạm và gia đình được xem là những lực lượng giáo dục tích
cực, động lực giáo dục mạnh mẽ, vừa là môi trường giáo dục con người nói
chung và SVSP nói riêng. Ngồi những nhân tố khách quan nêu trên, có thể
đề cập đến một số nhân tố chủ quan như: điều kiện sống, ý thức xây dựng
ĐĐNN của chính những SVSP.
1.2.3. Tính tất yếu của việc xây dựng đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên sư phạm trong quá trình giáo dục – đào tạo
Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, sự phân công lao động
trở nên cực kỳ sâu sắc, nhiều hoạt động trước đây khơng mang tính nghề
nghiệp nay trở thành phương thức kiếm sống của con người; nhiều ngành
nghề mới xuất hiện. Điều đó gây ra những khó khăn cho con người khi phải
ứng xử trước những tình huống nghề nghhiệp. Các chuẩn mực đạo đức chung
của xã hội khơng cịn đủ để giải quyết những vấn đề nảy sinh trong hoạt động
nghề nghiệp. Đặc biệt tác động của kinh tế thị trường đang làm cho những đặc
trưng và yêu cầu đạo đức nghề nghiệp thể hiện rõ hơn. Do đó, việc xây dựng
đạo đức nghề nghiệp nói chung và đạo đức nghề nghiệp nghề dạy học nói
riêng trở thành một vấn đề tất yếu.
Tuy nhiên, không phải đến giai đoạn hiện nay, vấn đề xây dựng đạo đức
nghề nghiệp mới được đặt ra. Giáo dục chuyên môn nghề nghiệp và giáo dục
ĐĐNN là hai mặt tất yếu của quá trình giáo dục. Song, trong phạm vi và
nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài này chúng tôi chỉ đề cập đến vấn đề xây dựng
đạo đức nghề nghiệp mà thôi.
“Nghề nào nghiệp ấy”, nghề nào cũng có những chuẩn mực đạo đức
riêng. Hiện nay, có nhiều nghề trung gian thích ứng với sự năng động của nền
kinh tế thị trường. Do đó, đạo đức nghề nghiệp ngày càng được chú trọng
trong giáo dục và được quan tâm chú ý bằng dư luận xã hội. Đặc biệt, với
nghề “trồng người” như nghề dạy học, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp càng
20



được quan tâm trong quá trình đào tạo. “Đào tạo thế hệ trẻ là sự nghiệp của
Đảng, là trách nhiệm của tồn dân, của xã hội. Nhưng vai trị chính yếu nhất
là nhà trường. Trong trường, học sinh có được đào luyện tốt, thì ra ngồi các
em mới trở nên tốt được”.
Rõ ràng để có những thế hệ nhà giáo tương lai vừa có tài vừa có đức, đó
là trọng trách lớn lao và cũng hết sức khó khăn của các trường đại học, cao
đẳng. Và để trở thành nhà giáo mẫu mực, làm gương cho các thế hệ trẻ, SVSP
cần được xây dựng ĐĐNN ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường. Hình ảnh
của những người giáo viên tương lai này sẽ in đậm và có khi trở thành những
biểu tượng nhân cách, những hình mẫu mà các em định hình cho mình trong
tương lai.
Kết luận chương 1: Xây dựng ĐĐNN cho SVSP là một phạm trù vô
cùng phong phú và phức tạp. Trước sự phát triển như vũ bão của cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật và những biến đổi lớn lao của thời đại đã làm cho
đạo đức của một bộ phận nhỏ SVSP có những biểu hiện suy thối. Dẫn đến
cơng tác xây dựng ĐĐNN, ban đầu hình thành cho SVSP những phẩm chất
đạo đức cần thiết của nhà giáo cũng gặp nhiều khó khăn, thử thách mới nảy
sinh. Để xây dựng ĐĐNN cho SVSP đạt kết quả mong muốn nhà trường sư
phạm cần phải nắm bắt được các yếu tố tác động đến việc hình thành ĐĐNN
của SVSP và nhận thấy xây dựng ĐĐNN cho SVSP là một tất yếu. Đồng thời
trong giai đoạn hiện nay, cơng tác xây dựng ĐĐNN nói riêng và đào tạo
SVSP nói chung phải bổ sung và phát triển những giá trị mới, những kinh
nghiệm mới, cách thức mới, bài học mới từ những quốc gia có nền giáo dục
hiện đại và phát triển.

21



×