Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Báo cáo tốt nghiệp Tín dụng Ngân hàng và kế toán cho vay trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (581.16 KB, 91 trang )









Báo cáo tốt nghiệp


Tín dụng Ngân hàng và kế toán cho vay trong hoạt động
kinh doanh Ngân hàng


Mục lục

Lời mở đầu.
4

Chương I

cơ sở lý luận về tín dụng Ngân hàng và kế toán cho vay trong
hoạt động kinh doanh Ngân hàng
6

I/. Vai trò vị trí của tín dụng Ngân hàng . 6

1. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với nền kinh tế . 6
a.Tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình sản
xuất - kinh doanh được liên tục ,đồng thời góp phần thúc đẩy tăng


trưởng kinh tế .
6
b.Tín dụng Ngân hàng là công cụ mạnh mẽ để thúc đẩy quá trình tích
tụ và tập trung vốn sản xuất - kinh doanh .
8
c. Tín dụng Ngân hàng góp phần hoàn thiện hơn chế độ hạch toán
kinh tế cho các doanh nghiệp .
9
d. Hoạt động tín dụng Ngân hàng góp phần điều tiết khối lượng tiền
trong lưu thông và kiểm soát lạm phát .
10
e.Tín dụng Ngân hàng góp phần mở rộng các quan hệ quốc tế . 10

2. Vị trí của tín dụng trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng thương
mại .
11
3. Đặc điểm của tín dụng Ngân hàng . 11

II/.Vai trò nhiệm vụ của kế toán cho vay . 12

1.Vai trò của kế toán cho vay . 12

2.Nhiệm vụ của kế toán cho vay . 13
3.Chứng từ và tài khoản dùng trong kế toán cho vay . 14

III/.Quy trình kế toán các phương thức cho vay. 16

1.Các phương thức cho vay hiện hành theo quyết định 248 của Thống
đốc NHNN1.
16

2.Khái quát cơ chế kế toán các phương thức cho vay : 17
2.1.Hồ sơ, chứng từ kế toán cho vay 20
2.2. Khái quát quy trình kế toán các phương thức cho vay . 20
2.2.1.Kế toán phương thức cho vay từng lần (cho vay theo món). 20
2.2.2. Kế toán phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng . 24

Chương II

Thực trạng nghiệp vụ kế toán cho vay tại chi nhánh ngân hàng
No&PTNT Tỉnh Lào Cai .
28

I/.Khái quát tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai . 28

1. Đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Lào Cai. 28
2. Định hướng phát triển kinh tế của tỉnh Lào Cai. 29

II/.Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Lào Cai .
30

1.Sự ra đời và mô hình tổ chức của chi nhanh Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Lào Cai .
30
2. Khái quát về hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Lào Cai .
32

2.1 Cơ cấu về nguồn vốn và tình hình huy động vốn 32
2.2 Công tác sử dụng vốn tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và

phát triển nông thôn tỉnh Lào Cai .
36
2.3 Công tác thanh toán và kinh doanh dịch vụ Ngân hàng . 38
2.4 Kết quả tài chính của Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn tỉnh Lào Cai .
39

III/ Thực trạng nghiệp vụ kế toán cho vay tại Chi nhánh Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Lào Cai .
39

1. Tình hình kế toán cho vay nói chung . 39
2. Tình hình kế toán cho vay đối với các tổ chức kinh tế . 44
2.1 Quy trình kế toán giai đoạn cho vay . 44
a. Kế toán cho vay đối với doanh nghiệp Nhà nước . 44
b. Kế toán cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh . 46
c. Kế toán cho vay đối với tư nhân và dân cư. 47
2.2 Nghiệp vụ kế toán giai đoạn thu nợ , thu lãi , chuyển nợ quá
hạn .
48
3. Vấn đề bảo quản hồ sơ cho vay . 50
4. Mối quan hệ giữa cán bộ Tín dụng và cán bộ kế toán cho vay. 51
5. Vấn đề ứng dụng tin học vào nghiệp vụ kế toán cho vay . 52

Chương III

Một số kiến nghị về nghiệp vụ kế toán cho vay tại Chi nhánh
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển Nông thôn tỉnh Lào Cai .
54


1. Hoàn thiện hồ sơ cho vay . 54
2. Theo dõi kỳ hạn nợ . 54
3. Những biện pháp huy động vố và mở rộng địa bàn hoạt động kinh 55

doanh .
4. Hạch toán theo dõi các khoản lãi chưa thu . 57
5. Đa dạng hoá các hình thức Tín dụng , đảm bảo tại Ngân hàng. 58
6. Nâng cao trình độ đội ngũ nhân viên Ngân hàng. 58
7. Việc ứng dụng tin học vào kế toán cho vay . 59

Kết luận
61

Các tài liệu tham khảo























Lời mở đầu


Hơn 15 năm thực hiện đổi mới nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển từ
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
định hướng Xã hội chủ nghĩa và có sự quản lý của Nhà nước đã khiến cho hoạt động
của Ngân hàng ngày càng trở nên sôi động hơn.

Trong công cuộc Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa Đất nước, nhu cầu về vốn để
đầu tư, phát triển nền kinh tế đang là một vấn đề bức xúc, mọi nguồn vốn trong và
ngoài nước đang được chú ý khai thác để đáp ứng nhu cầu bức thiết đó.

Theo Nghị định 53/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) và hai
Pháp lệnh Ngân hàng của Nhà nước về Ngân hàng Việt Nam được phân chia làm hai
cấp, thể hiện tách biệt chức năng quản lý với chức năng kinh doanh, thì Ngân hàng
Nhà nước làm tốt các chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng,
hoạch định và chỉ đạo thực thi có hiệu quả chính sách tiền tệ Quốc gia, còn Ngân hàng
Thương mại với chức năng là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng, hoạt động với
phương châm là đi vay để cho vay, Huy động vốn nhàn rỗi từ nền kinh tế để sử dụng
và để cho vay an toàn, có hiệu quả nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh phát triển kinh
tế.

Khách hàng của các Ngân hàng Thương mại ngày nay không chỉ là các Doanh
nghiệp Nhà nước mà còn bao gồm các thành phần kinh tế khác nhau như: các tổ chức

kinh tế ngoài quốc doanh, các cá nhân Việc Ngân hàng cho các đơn vị ngoài quốc
doanh vay không chỉ đem lại cho Ngân hàng lợi nhuận mà còn giúp cho các thành
phần kinh tế này phát triển sản xuất - kinh doanh góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế
của đất nước.


Trong giai đoạn hiện nay, số lượng các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh ngày
càng nhiều. Trong số đó có những Doanh nghiệp làm ăn có lãi, ngược lại thì có một số
Doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, thậm chí có những Doanh nghiệp còn lợi dụng cả sự tín
nhiệm của Ngân hàng để chiếm đoạt vốn của Ngân hàng , từ đó Ngân hàng gặp rủi ro
bởi những khoản đầu tư tín dụng kém hiệu quả này.

Để hạn chế rủi ro cho Ngân hàng việc thu cả gốc và lãi phải đúng hạn thì vấn đề
đặt ra là phải theo dõi chặt chẽ các khoản cho vay, thu nợ cả gốc và lãi

kịp thời, đây chính là nghiệp vụ của kế toán cho vay.

Xuất phát từ vị trí quan trọng của nghiệp vụ kế toán cho vay. Trong những năm
qua cùng với việc cải tiến đổi mới về cơ chế tổ chức, chế độ nghiệp vụ Ngân hàng Nhà
nước và các Ngân hàng Thương mại đã chú trọng bổ sung sửa đổi cải tiến chế độ hạch
toán nghiệp vụ kế toán cho vay để phù hợp với sự phát triển và mở rộng không ngừng
của Tín dụng Ngân hàng. Vì vậy, từ sự nhận thức được tầm quan trọng của kế toán cho
vay, các Ngân hàng Thương mại đã tập trung cải tiến chế độ kế toán cho vay đối với
tất cả các thành phần kinh tế và đã thu được những kết quả bước đầu đáng kể.
Tuy nhiên kế toán cho vay là một nghiệp vụ kế toán phức tạp nên đến nay vẫn
còn tồn tại thuộc về cơ chế cũng như tổ chức thực hiện, nên nghiệp vụ kế toán cho vay
đòi hỏi không ngừng được nghiên cứu bổ sung sửa đổi. Từ những lý do trên, qua thời
gian học tập tại trường và trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn tỉnh Lào cai tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài : “một số giải pháp nhằm
hoàn thiện nghiệp vụ kế toán cho vay tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông

thôn tỉnh Lào cai”, ngoài phần mở đầu và phần kết luận nội dung bản khóa luận này
được kết cấu làm 3 chương :

Chương I :

Cơ sở lý luận về tín dụng Ngân hàng và kế toán cho vay
Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng

Chương II :

Tình hình thực hiện kế toán cho vay
Tại Ngân hàng NO&Tpnt tỉnh Lào cai .

Chương III :


Một số kiến nghị về nghiệp vụ kế toán cho vay
Tại Ngân hàng No&ptnt tỉnh Lào cai .

Tôi hy vọng bản khóa luận này sẽ phần nào đóng góp vào việc củng cố công tác
kế toán cho vay, tạo điều kiện phát triển và mở rộng nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Lào cai. Vì điều kiện thời gian và trình độ
năng lực nghiên cứu có hạn nên bản khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót nhất
định. Tôi rất mong được sự góp ý của thầy (cô) giáo, Ban giám đốc và các cán bộ
nghiệp vụ ở Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Lào Cai để bản khóa
luận được hoàn chỉnh hơn.



Chương I :

Cơ sở lý luận về tín dụng ngân hàng và kế toán cho vay
Trong hoạt động Ngân hàng


I/.Vai trò của tín dụng Ngân hàng :

1. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với nền kinh tế :
Hệ thống Ngân hàng ra đời dựa trên cơ sở của sự phát triển nền kinh tế và lưu
thông hàng hóa, sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển kéo theo sự ra đời và phát
triển của tiền tệ và các tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ.

Trong nền kinh tế hàng hóa tập trung, hệ thống Ngân hàng một cấp hoạt động
trong môi trường kinh tế hiệu quả thấp và vai trò của Ngân hàng không được thể hiện
rõ. Ngân hàng Nhà nước là Ngân hàng phát hành, đồng thời vừa là Ngân hàng trực tiếp
cho vay vốn đối với nền kinh tế quốc dân, vừa là tổ chức quản lý Nhà nước về lĩnh vực
tiền tệ, tín dụng thanh toán, vừa là Ngân hàng kinh doanh.


Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, hệ thống
Ngân hàng có sự đổi mới cho phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế. Hệ thống Ngân
hàng được phân chia làm hai cấp, đó là :

Ngân hàng Nhà nước (Ngân hàng Trung ương) và hệ thống các Ngân hàng
Thương mại cùng các tổ chức tín dụng khác. Mỗi cấp đều được xác định rõ chức năng,
nhiệm vụ của mình.

Ngân hàng Thương mại tham gia kinh doanh trên thị trường với tư cách là trung
gian tài chính lớn nhất trong nền kinh tế quốc dân. Hay nói một cách khách Ngân hàng
Thương mại là chiếc “cầu nối” giữa những người thừa vốn và những người cần vay
vốn.


Thông qua các Ngân hàng Thương mại, các nguồn vốn xã hội được chuyển một
cách gián tiếp từ nguồn vốn tiết kiệm (nguồn vốn nhàn rỗi) sang người có nhu cầu đầu
tư. Cách đầu tư gián tiếp này mang lại cho chủ đầu tư (người gửi tiền) một khả năng
an toàn cao hơn và các chủ thể đang thiếu vốn


cũng được đáp ứng nhu cầu vay vốn về khối lượng, thời hạn một cách nhanh chóng
nhất. Trong khi đó, việc đầu tư trực tiếp gặp nhiều khó khăn do khó có được sự phù
hợp về khối lượng vốn và về thời gian, về lòng tin giữa các chủ thể (người có vốn và
người cần vay vốn). Sự xuất hiện của Ngân hàng Thương mại còn cung ứng cho thị
trường hàng loạt dịch vụ tiện ích như : dịch vụ thanh toán, chuyển tiền, dịch vụ tư vấn.

Với những vai trò hết sức quan trọng đó, toàn hệ thống Ngân hàng nói chung
và các Ngân hàng Thương mại nói riêng phải không ngừng đổi mới, đơn giản hóa các
thủ tục, hiện đại hóa công nghệ Ngân hàng. Đối với nền kinh tế chuyển đổi như Việt

Nam cần nhanh chóng xây dựng một hệ thống tài chính Ngân hàng hoàn chỉnh, vững
mạnh để tạo đà cho sự phát triển của nền kinh tế.

Với phương châm hoạt động là đi vay để cho vay, các Ngân hàng Thương mại
đã huy động được những nguồn vốn lẻ tẻ nhàn rỗi trong xã hội (từ các cá nhân, các hộ
gia đình, các Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế ) tập trung thành một khối lượng vốn
lớn và cho vay linh hoạt đối với nền kinh tế.
Với chức năng trung gian tín dụng các Ngân hàng Thương mại đã góp phần
tích cực cho sự phát triển của nền kinh tế, góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển
hàng hóa và vòng quay vốn tiền tệ.

a.Tín dụng NH đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình sản xuất kinh
doanh được liên tục, đồng thời góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế .


Do quá trình sản xuất kinh doanh trong xã hội là thường xuyên liên tục, do vậy
nhu cầu về vốn để đáp ứng cho sản xuất kinh doanh cũng nảy sinh thường xuyên với
mức độ cao. Đây là một vấn đề tồn tại song song, một mâu thuẫn cần giải quyết sao
cho cả hai bên cùng có lợi, tức là : bên cần vốn để sản xuất kinh doanh thì được thỏa
mãn nhu cầu về vốn với chi phí thấp nhất và bên có vốn nhàn rỗi thì phải thu được lợi
từ nguồn vốn đó. Tín dụng Ngân hàng đã ra đời làm trung gian để tạo điều kiện cho
hai bên gặp nhau và cùng thỏa mãn được nhu cầu của mình.

Việc phân phối lại tín dụng đã góp phần cung ứng và điều hòa vốn trong nền
kinh tế, làm cho quá trình sản xuất kinh doanh hoạt động một cách trôi chảy. Có thể
nói, tín dụng là “cầu nối” giữa tiết kiệm và đầu tư, là động lực kích thích tiết kiệm
đồng thời là phương tiện đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư và phát triển nền kinh tế.

Thông qua tín dụng các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các tầng lớp dân

cư trong xã hội được tập trung lại và nguồn vốn đó sẽ được đầu tư trở lại vào quá trình
sản xuất kinh doanh. Điều này làm cho việc đầu tư vào nền kinh tế được mở rộng, góp
phần nâng cao sản lượng trong sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống người lao động,
kích thích phát triển tăng trưởng kinh tế. Tín dụng còn kích thích quá trình cạnh tranh
của nền kinh tế bằng cách tập trung vốn vào một ngành, một lĩnh vực nào đó để thúc
đẩy các ngành khác, lĩnh vực khác phải đẩy mạnh tập trung vốn, tăng cường huy động
vốn để tăng sức cạnh tranh. Có vốn thì các Doanh nghiệp (Xí nghiệp), các tổ chức kinh
tế mới có thể đầu tư cho việc thay đổi công nghệ mới từ đó để tăng năng suất lao động,
cải thiện cuộc sống của người lao động. Sự cạnh tranh sẽ đem lại cho nền kinh tế nhiều
sản phẩm mới với chất lượng tốt hơn, phong phú hơn về chủng loại để đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của xã hội.

Qua hoạt động tín dụng các Ngân hàng đã đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn của
các Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế tư nhân và các cá thể, để họ có thể tăng cường

cơ sở vật chất - kỹ thuật làm quá trình sản xuất kinh doanh được tuần hoàn, thúc đẩy
lưu thông hàng hóa, tăng tốc độ chu chuyển vốn tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân, góp
phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng.

b. Tín dụng Ngân hàng là công cụ mạnh mẽ để thúc đẩy quá trình tích tụ và tập
trung vốn sản xuất - kinh doanh :

Thông qua việc huy động vốn thu hút các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các Doanh
nghiệp và dân cư, từ đó đáp ứng nhu cầu vốn cho các đối tượng vay vốn. Điều này được thể
hiện ở việc tín dụng thu hút các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, các cá
nhân trong xã hội. Từ nguồn vốn huy động đó cho vay đầu tư trở lại để phát triển kinh tế.
Nguồn vốn huy động đó được hình thành từ : nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi được giải phóng ra
khỏi quá trình sản xuất của các Doanh nghiệp nguồn vốn khấu hao được tiến hành dần dần,
các khoản phải trả nhưng chưa trả, phải nộp nhưng chưa nộp mà đơn vị đang nắm giữ. Nguồn
vốn tiết kiệm của dân cư, nguồn vốn này có được từ thu nhập của dân chúng được tích lũy
phòng khi ốm đau, tai nạn hoặc việc đột xuất, các khoản phải thu nhập khác như : của hồi

môn, thừa kế tài sản chưa sử dụng, nguồn vốn tiền tệ của những người kinh doanh trong lĩnh
vực tiền tệ Ngân hàng. Thông qua hoạt động tín dụng các nguồn vốn trên được tích tụ tập
trung tại Ngân hàng từ đó đáp ứng cho nhu cầu thiếu vốn của các đối tượng vay vốn.

Hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn luôn phải đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của xã hội như : đòi hỏi các sản phẩm hàng hóa được sản xuất ra phải
có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, chủng loại phong phú, giá cả hợp lý. Điều này đòi hỏi các
Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế phải ra sức kinh doanh, hiện đại hóa máy móc thiết bị.
Muốn thực hiện được vấn đề này thì Doanh nghiệp phải có vốn và nhu cầu về vốn của các
Doanh nghiệp ngày càng tăng lên. Để giải quyết nhu

cầu về vốn một cách nhanh chóng và có hiệu quả thì tín dụng Ngân hàng là công cụ
tốt nhất, quan trọng nhất. Ngoài ra tín dụng Ngân hàng không chỉ đáp ứng nhu cầu về vốn của

nền kinh tế mà còn giúp các Doanh nghiệp phát huy được thế mạnh về lao động động kỹ
thuật của mình.

Tuy nhiên, quá trình đầu tư tín dụng không phải đầu tư rải đều cho mọi đối tượng có
nhu cầu về vốn mà việc đầu tư phải được thực hiện có trọng điểm, đầu tư được thực hiện một
cách tập trung chủ yếu cho các Doanh nghiệp, những công ty tư nhân, các cá thể hoạt động
sản xuất kinh doanh có hiệu quả, còn đối với các đối tượng khác, chủ thể khác thì đầu tư với
một lượng vốn ít hơn và nhất định.

Việc đầu tư tập trung có trọng điểm như vậy vừa bảo đảm, vừa tránh được rủi ro tín
dụng, vừa thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế.

c. Tín dụng Ngân hàng góp phần hoàn thiện hơn chế độ hạch toán kinh tế cho các Doanh
nghiệp :
Trong nền kinh tế thị trường, các Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, được tự do phát
triển, hoạt động sản xuất kinh doanh dần tới sự đa dạng hóa các loại hình Doanh nghiệp, đồng
thời cũng làm tăng sự cạnh tranh giữa các Doanh nghiệp với nhau. Muốn đứng vững được
trên thương trường thì các Doanh nghiệp ngoài khả năng sẵn có của mình thì còn phải có khả
năng tốt về vốn, về điều kiện môi trường kinh doanh, trong đó khả năng về vốn là rất quan
trọng. Thông qua hoạt động tín dụng Ngân hàng vốn được chuyển dịch từ tay người này sang
tay người khác, khi nhu cầu vốn của các Doanh nghiệp được đáp ứng đã làm tăng sức cạnh
tranh cho các nhà kinh doanh. Như vậy tín dụng kích thích cạnh tranh trong nền kinh tế.

Khi các Doanh nghiệp sử dụng vốn vay của Ngân hàng thì phải có trách nhiệm hoàn
trả cả gốc và lãi đúng thời hạn ghi trên hợp đồng tín dụng, đồng thời cũng phải tôn trọng và
thực hiện đúng những điều khoản đã ghi trong hợp đồng, điều này đòi hỏi các Doanh nghiệp,
các tổ chức kinh tế, các tư nhân, các cá thể phải quan tâm đến việc sử dụng vốn làm sao cho
có hiệu quả, giảm bớt những chi phí không cần thiết, tăng nhanh vòng quay vốn nhằm sản

xuất giá thành sản phẩm.v.v để tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị. Muốn vậy các Doanh

nghiệp phải tự khẳng định mình thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.

Trong đó một trong những hoạt động kinh doanh quan trọng nhất đó là công tác hạch
toán kinh tế, vì quá trình hạch toán kinh tế là quá trình quản lý đồng vốn sao cho có hiệu quả.
Để làm tốt công việc này thì hạch toán kinh tế phải giám sát chặt quá trình sử dụng vốn nhằm
vào đồng vốn phải được sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng để tạo ra lợi nhuận cao nhất
cho Doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi các Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế ngày càng hoàn
thiện hơn chế độ hạch toán kinh tế của Doanh nghiệp mình.

d. Hoạt động tín dụng Ngân hàng góp phần điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông và
kiểm soát lạm phát :

Qua quá trình cho vay khối lượng tiền trong lưu thông được tăng lên và khi Ngân hàng
thu nợ thì khối lượng tiền trong lưu thông giảm đi. Như vậy, hoạt động tín dụng Ngân hàng
góp phần điều tiết khối lượng tiền của toàn bộ nền kinh tế.

Tín dụng Ngân hàng thường sử dụng công cụ lãi suất để điều tiết quan hệ cung cầu tín
dụng, sự biến động của lãi suất có tác động làm thay đổi khối lượng tiền vay. Khi lãi suất tăng
thì khối lượng tiền vay sẽ giảm đi và ngược lại nếu lãi suất giảm xuống thì sẽ làm cho nhu cầu
vay vốn của các đối tượng tăng lên tức là khối lượng tiền vay sẽ tăng lên.

Khi Ngân hàng cho vay thường tính cho vay ở một hạn mức nhất định từ đó góp phần
khống chế khối lượng tiền vay. Đây cũng là một trong những biện pháp để điều tiết khối
lượng tiền, từ đó dần tới kiểm soát được lạm phát. Bởi vì, tín dụng Ngân hàng khi điều tiết
được khối lượng tiền tức là góp phần khống chế khối lượng tiền vừa đủ so với nhu cầu lưu
thông hàng hóa nhờ đó mà kiểm soát được giá cả. Khi giá cả tăng nhanh thì Ngân hàng tăng
lãi suất để giảm khối lượng tiền vay, từ đó giảm khối lượng tiền trong lưu thông, đồng thời
kiểm soát được lạm phát.



Vậy hoạt động tín dụng Ngân hàng đã góp phần điều tiết khối lượng tiền trong toàn bộ
nền kinh tế, đồng thời thông qua hoạt động tín dụng Ngân hàng cũng kiểm soát được lạm
phát.

e. Tín dụng Ngân hàng góp phần mở rộng các quan hệ kinh tế Quốc tế :
Tín dụng Ngân hàng là một trong các giải pháp tốt để các nước tăng cường mối quan hệ
kinh tế Quốc tế. Khi quan hệ tín dụng được mở rộng sẽ kéo theo quan hệ đầu tư trong nền
kinh tế phát triển khiến cho các quan hệ Thương mại Quốc tế khác cũng phát triển theo, quan
hệ tín dụng là tiền đề, là cơ sở để thực hiện các quan hệ khác.

Thông qua quá trình nhận và cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của các cấp tín dụng cũng
như các tổ chức tín dụng, cùng với sự tham gia trực tiếp vào quan hệ thanh toán Quốc tế, tín
dụng Ngân hàng đã làm tăng mối quan hệ tốt đẹp giữa các nước với nhau, đồng thời thúc đẩy
hoạt động xuất nhập khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển từ đó một lần nữa thúc đẩy
sự tăng trưởng kinh tế.

Như vậy, thông qua các hoạt động của mình tín dụng Ngân hàng có những ảnh hưởng
rất lớn đến sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, tín dụng Ngân hàng còn góp
phần thực hiện tốt các chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước đề ra, đồng thời nó cũng là
một yếu tố cơ bản giúp cho toàn bộ hệ thống Ngân hàng đứng vững và phát triển.

2. Vai trò của tín dụng trong hoạt động kinh doanh của NH Thương mại :
Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu của Ngân hàng Thương mại, nó quyết định
cho sự tồn tại và phát triển của một Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động tín
dụng mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho một Ngân hàng Thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường, Ngân hàng Thương mại đóng vai trò quan trọng trong sự
phát triển kinh tế thị trường, là trung gian chuyển vốn từ người thừa vốn sang người thiếu vốn
để đầu tư. Ngay từ buổi ban đầu hoạt động của Ngân hàng Thương mại đã tập trung chủ yếu
vào nghiệp vụ nhận tiền gửi và cho vay để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt về vốn của các Doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế trong quá trình sản xuất - kinh doanh hoặc nhu cầu tiêu dùng cá


nhân. Trong quá trình phát triển mặc dù môi trường kinh doanh có nhiều thay đổi, nhiều
phương pháp, nhiều công cụ kinh doanh mới xuất hiện nhưng hoạt động tín dụng vẫn là hoạt
động cơ bản, chiếm tỉ trọng lớn trong toàn bộ các hoạt động của Ngân hàng Thương mại. Bởi
hoạt động cho vay chiếm tỉ trọng chủ yếu trong tổng tài sản có của các Ngân hàng Thương
mại, lãi thu được từ hoạt động tín dụng thường chiếm tỉ trọng lớn trong tổng thu nhập Ngân
hàng Thương mại, ở nước ta trong giai đoạn hiện nay chiếm khoảng 90% tổng thu nhập. Điều
này thể hiện rõ hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu của các Ngân hàng
Thương mại.

Cùng với sự phát triển kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng ngày càng được phát
triển một cách đa dạng với sự tham gia của nhiều chủ thể kinh tế, theo đó quan hệ tín dụng
cũng được mở rộng cả về đối tượng và quy mô làm cho hoạt động tín dụng Ngân hàng ngày
càng đa dạng và phức tạp hơn. Để Ngân hàng Thương mại có thể đứng vững trong điều kiện
cạnh tranh ngày càng gay gắt và phục vụ nền kinh tế ngày càng tốt hơn, đòi hỏi : các Ngân
hàng Thương mại phải luôn làm tốt các chức năng nhiệm vụ của mình.

3. Đặc điểm của tín dụng Ngân hàng :
Tín dụng Ngân hàng là một hình thức vốn tín dụng bằng tiền tệ thể hiện mối quan hệ
giữa các tổ chức tín dụng với các Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã
hội.

* Tín dụng Ngân hàng có những đặc điểm :
- Vốn tín dụng Ngân hàng là vốn bằng tiền tệ, vốn đó đã tách ra khỏi quá trình
tuần hoàn của Tư bản hoạt động.
- Chủ thể cho vay trong quan hệ tín dụng Ngân hàng là những tổ chức chuyên
kinh doanh tiền tệ, tín dụng đóng vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho vay.
- Sự vận động của tín dụng Ngân hàng nó không hoàn toàn phù hợp với sự vận
động của quá trình sản xuất kinh doanh, nó mang tính chất độc lập, tương đối, tín dụng
Ngân hàng không hạn chế về quy mô, chủ thể trong quan hệ tín dụng Ngân hàng là

những người chuyên kinh doanh tiền tệ, tín dụng. Họ có khả năng thu hút khối lượng

vốn lớn về tiền tệ để cho vay. Tín dụng Ngân hàng không hoàn toàn hạn chế về mặt
thời gian vì khối lượng vốn lớn, Ngân hàng có thể cho vay với thời gian dài.
- Vốn tín dụng Ngân hàng là vốn tiền tệ cho nên Ngân hàng có thể đầu tư cho
bất kỳ ngành kinh tế nào trên cơ sở đảm bảo các điều kiện vay vốn. Kinh doanh tiền tệ
là hoạt động mua bán tiền tệ. Sản phẩm của Ngân hàng cũng là tiền tệ, một khi tiền đã
được đem bán thì khách hàng được toàn quyền sử dụng nó. Song khác với thứ hàng
hóa thông thường là ở chỗ quyền sở hữu tiền vẫn thuộc về phía Ngân hàng. Vì vậy sự
rủi ro thất thoát trong hoạt động tín dụng vẫn là nguy cơ thường xuyên, thường trực.
Khi Ngân hàng bỏ vốn ra vay nhưng chưa thu hồi vốn về đúng hạn cần thấy rõ đặc
điểm này trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng thì mới hiểu được vị trí vai trò của
tín dụng Ngân hàng trong cơ chế thị trường với chức năng là đi vay để cho vay. Do
vậy phải có môi trường đồng bộ về mọi nặt kinh tế - chính trị - xã hội, pháp luật, kỹ
thuật hành chính để Ngân hàng phát huy đúng vai trò (bù đỡ) thúc đẩy nền kinh tế thị
trường hiện nay ngày càng phát triển.

II/. Vai trò, nhiệm vụ của kế toán cho vay :
Tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản trong hoạt động kinh doanh
Ngân hàng nhằm bổ xung vốn cho các đơn vị, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp,
các cá nhân thiếu vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Xét về mặt quan hệ pháp lý thì toàn bộ số tiền của Ngân hàng , các tổ chức tín
dụng đối với khách hàng phản ánh số nợ mà người vay nhận nợ với khách hàng và
hoàn trả trong thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng gồm cả gốc và lãi. Tính
pháp lý của những khoản nợ này được thể hiện trên chứng từ kế toán cho vay đã được
pháp luật thừa nhận.
Kế toán cho vay là công việc tính toán và ghi chép bằng con số tất cả các
nghiệp vụ cho vay, thu nợ, thu lãi thuộc hoạt động tín dụng Ngân hàng. Qua đó góp
phần nâng cao hoạt động tín dụng Ngân hàng, tăng thu nhập của Ngân hàng và bảo vệ
an toàn tài sản của Ngân hàng cũng như của xã hội mà Ngân hàng đang chiếm giữ, sử

dụng.


1. Vai trò của kế toán cho vay :
Trong toàn bộ nghiệp vụ kế toán Ngân hàng thì kế toán cho vay được xác định
là nghiệp vụ kế toán phức tạp và quan trọng nhất, vì nó được xuất phát từ vị trí vai trò
của công tác tín dụng Ngân hàng. Đây là nghiệp vụ bên có sinh lời chủ yếu chiếm tỉ
trọng lớn nhất trong tổng tài sản có của Ngân hàng.

Hoạt động tín dụng Ngân hàng là một trong những mặt hoạt động cơ bản nhất
của Ngân hàng đi đôi với hoạt động tín dụng kế toán cho vay, nó là bộ phận góp phần
bảo vệ an toàn vốn mà Ngân hàng đã đầu tư cho các thành phần kinh tế, các thành
phần kinh tế được vay vốn thể hiện ở số dư trên tài khoản tiền vay tại Ngân hàng thông
qua việc tổ chức, ghi chép phản ánh một cách đầy đủ chính xác, kịp thời các khoản cho
vay, thu nợ, chuyển nợ quá hạn. Đồng thời theo dõi giám sát chặt chẽ dư nợ đảm bảo
an toàn vốn.
Kế toán cho vay phục vụ đắc lực trong việc chỉ đạo chấp hành chính sách tiền tệ
tín dụng của Đảng và Nhà nước trong nền kinh tế thị trường với cơ chế tiền tệ tín dụng
như hiện nay. Ngân hàng là cơ quan chuyên môn được giao nhiệm vụ tổ chức thực
hiện như Ngân hàng đã áp dụng mức lãi suất đối với các thành phần kinh tế có vốn
hoạt động phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh được kịp thời. Kế toán cho vay
làm tham mưu đắc lực cho công tác tín dụng để tín dụng thực sự trở thành đòn bẩy
kinh tế cũng như Giám đốc bằng tiền với toàn bộ hoạt động nền kinh tế quốc dân.

Xuất phát từ vị trí vai trò quan trọng của kế toán cho vay, kế toán cho vay đã sử
dụng các công cụ khác nhau để ghi chép phân loại, kế toán cho vay có vị trí quan trọng
không những đối với công tác tín dụng mà còn có quan hệ mật thiết với các hoạt động
khác của Ngân hàng. Vì vậy để đáp ứng yêu cầu tín dụng trong giai đoạn hiện nay thì
kế toán cho vay là một nghiệp vụ không thể thiếu được.


2. Nhiệm vụ của kế toán cho vay :
Kế toán cho vay là một nghiệp vụ phong phú đa dạng và phức tạp, đòi hỏi kế
toán cho vay phải phù hợp với loại nghiệp vụ này để hoạt động được diễn ra một cách

thường xuyên liên tục và có hiệu quả. Đồng thời để đảm bảo được việc sử dụng hợp lý
tiền vốn, việc cho vay thu nợ đúng chế độ, chấp hành nghiêm túc kỷ luật tài chính.
Kế toán cho vay là công cụ tính toán ghi chép phản ánh đầy đủ, kịp thời, chính
xác các nghiệp vụ kinh tế phát sinh về cho vay thu nợ thuộc nghiệp vụ tín dụng của
Ngân hàng theo thứ tự thời gian từng đối tượng cho vay bằng giá trị tiền tệ. Qua đó
phản ánh tình hình huy động vốn và sử dụng vốn nhằm giúp cho các mặt hoạt động đó
thực hiện có hiệu quả. Vì vậy, đảm bảo cho nghiệp vụ kế toán cho vay được thường
xuyên liên tục, đảm bảo an toàn tài sản và hiệu quả cao thì kế toán cho vay phải thực
hiện tốt các nhiệm vụ sau :
* Phải kiểm soát chặt chẽ hồ sơ chứng từ cho vay, đảm bảo đầy đủ tính pháp lý
của khoản vay, đảm bảo khoản vay cho phù hợp với tỉ lệ tín dụng nhằm bảo vệ an toàn
vốn cho vay, bảo đảm khả năng thu hồi đầy đủ cả vốn và lãi ngay từ khâu phát tiền
vay.
* Ghi chép phản ánh kịp thời, đầy đủ, chính xác nghiệp vụ kinh tế phát

sinh trong quá trình cho vay thu nợ, theo dõi chặt chẽ kỳ hạn trả nợ để thông báo nợ
đến hạn, phối hợp với cán bộ tín dụng thu nợ đến hạn, thu lãi kịp thời đầy đủ và chính
xác thu lãi theo đúng mức lãi suất đã được ghi trên hồ sơ vay trên cơ sở đảm bảo an
toàn vốn.

* Theo dõi thu hồi các khoản nợ đến hạn, chuyển trả nợ quá hạn kịp thời đối
với các khoản nợ đến hạn mà khách hàng chưa trả và không được gia hạn.
* Quản lý hồ sơ vay vốn chặt chẽ, sắp xếp hồ sơ phải khoa học, ngăn nắp, dễ
tìm, dễ thấy, dễ lấy. Cuối tháng sao kê khế ước đối chiếu với số dư trên tài khoản phải
khớp đúng giữa sao kê với số dư trên sổ phụ nếu có sai sót thì phải tìm nguyên nhân và
chỉnh sửa ngay.


Như vậy, nghiệp vụ kế toán cho vay cùng với các nghiệp vụ kế toán Ngân hàng
khác thông qua hoạt động của mình giúp Ngân hàng vừa thực hiện chức năng kinh
doanh, vừa cung ứng vốn cho nền kinh tế. Với vai trò quan trọng đó hệ thống kế toán
Ngân hàng phải được hoàn thiện hơn nữa để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của Ngân
hàng nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung.

3. Chứng từ và tài khoản của kế toán cho vay :
Tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản trong hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng nhằm bổ sung vốn cho các đơn vị, các tổ chức kinh tế, các Doanh nghiệp,
các cá nhân trong hoạt động sản xuất - kinh doanh.

a. Chứng từ kế toán cho vay :
Xét về mặt quan hệ kinh tế pháp lý thì toàn bộ số tiền của Ngân hàng, các tổ
chức tín dụng cho vay đối với khách hàng phản ánh số nợ mà người vay nhận nợ với
Ngân hàng và phải trả trong những kỳ hạn nhất định gồm cả gốc và lãi. Tính pháp lý
của các khoản nợ này được thể hiện trên các chứng từ của kế toán cho vay đã được
pháp luật thừa nhận, chứng từ làm trong kế toán cho vay là những loại giấy tờ làm đảm
bảo về mặt pháp lý các khoản cho vay của Ngân hàng, mọi sự tranh chấp về các khoản

cho vay, thu nợ hay trả nợ đều được giải quyết trên cơ sở là các chứng từ kế toán cho
vay.
* Chứng từ kế toán cho vay có hai loại :
- Chứng từ gốc bao gồm : đơn xin vay, hợp đồng tín dụng, giấy nhận nợ, sổ vay
vốn
- Chứng từ ghi sổ là : những giấy tờ làm căn cứ cho việc hạch toán cho vay, thu
nợ, chuyển nợ gồm có phiếu chi, giấy lĩnh tiền mặt (nếu cho vay bằng tiền mặt), các
chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt như : ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, các bảng
kê, phiếu chuyển khoản
Trong quan hệ tín dụng đòi hỏi phải có đầy đủ tính pháp lý nếu không


quan hệ tín dụng sẽ không còn là quan hệ tín dụng. Tính pháp lý trong quan hệ tín
dụng được thể hiện trong các chứng từ kế toán.

Đơn xin vay là chứng từ đầu tiên thể hiện mối quan hệ tín dụng, loại chứng từ
này không thể hiện tính pháp lý đầy đủ trong quan hệ tín dụng mà còn trong phương
thức cho vay nào đó của Ngân hàng, nó chỉ là chứng từ để theo dõi kế hoạch phát tiền
vay giữa Ngân hàng và người đi vay; kế hoạch phát tiền vay được hoàn thành thì đơn
xin vay cũng hết hiệu lực và không được lưu riêng để theo dõi.

- Hợp đồng tín dụng thường được áp dụng trong phương thức cho vay
nào đó.
- Giấy nhận nợ - khế ước vay tiền thường được áp dụng trong phương thức cho
vay từng lần (từng dự án hoặc từng món).

Hai loại chứng từ gốc này đều mang tính pháp lý trong quan hệ tín dụng.

b. Tài khoản kế toán cho vay :

Tài khoản phản ánh nghiệp vụ cho vay thuộc nhóm tài khoản tài sản có trong
bảng tổng kết tài sản của Ngân hàng (nghiệp vụ bên có) nó dùng để ghi chép, phản ánh
toàn bộ số tiền cho vay của Ngân hàng đối với người đi vay, đồng thời cũng là công cụ
dùng để ghi chép phản ánh số tiền người vay trả nợ Ngân hàng theo những kỳ hạn nhất
định. Việc mở các tài khoản cho vay trong hệ thống các tài khoản kế toán Ngân hàng
tới mức độ nào tùy thuộc vào yêu cầu chỉ đạo các nghiệp vụ tín dụng của từng Ngân
hàng, phục vụ kinh tế từng thời kỳ nhất định.

Tài khoản kế toán cho vay theo hệ thống tài khoản kế toán các tổ chức tín dụng
ban hành theo Quyết định số : 435/1998/QĐ.NHNN ngày 25/12/1998 bao gồm các tài
khoản cấp một và tài khoản cấp hai sau :



Tài khoản 20 : tín dụng với các tổ chức tín dụng trong nước
Tài khoản 21 : cho vay các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong nước
Tài khoản 211 : cho vay ngắn hạn bằng VND
Tài khoản 212 : cho vay trung hạn bằng VND
Tài khoản 213 : cho vay dài hạn bằng VND
Tài khoản 214 : cho vay ngắn hạn bằng ngoại tệ

* Tính chất kết cấu của tài khoản cho vay :
Bên nợ : - ghi số tiền Ngân hàng cho khách hàng vay.

Bên có : - ghi số tiền Ngân hàng thu nợ
- Số tiền chuyển vào tài khoản thích hợp xử lý (đối với tài khoản
không thu hồi được).
Dư nợ : phản ánh số tiền người vay còn nợ Ngân hàng đến một thời điểm nào
đó.

Trong quan hệ tín dụng giữa người vay và Ngân hàng không phải bao giờ người
vay cũng trả nợ Ngân hàng đúng kỳ hạn. Trường hợp đến hạn trả nợ người vay không
đủ khả năng trả và cũng không được Ngân hàng cho gia hạn nợ thì số nợ đó phải
chuyển sang tài khoản nợ quá hạn để theo dõi thu hồi với mức lãi suất cao hơn lãi suất
cho vay bình thường.

* Tính chất kết cấu của tài khoản nợ quá hạn : là mở theo loại nợ quá hạn và
thời gian quá hạn.

- Tài khoản nợ quá hạn tới 180 ngày
- Tài khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày
- Tài khoản nợ khó đòi


Bên nợ : - ghi số tiền chuyển nợ quá hạn (từ tài khoản tiền vay)
Bên có : - ghi số tiền thu nợ quá hạn.
- số tiền được điều chỉnh lại kỳ hạn (chuyển sang tài khoản cho vay).
Dư nợ : phản ánh số nợ quá hạn mà khách hàng chưa trả.

Mỗi đơn vị hay cá nhân có nợ quá hạn Ngân hàng mở một tài khoản phân tích
để theo dõi, thu hồi.

Ngoài ra nghiệp vụ kế toán cho vay còn mở thêm một tài khoản ngoại bảng (sổ
theo dõi) để theo dõi các chứng từ có giá trị như : hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, theo
dõi các khoản nợ không thu hồi được đã được xử lý nhưng phải theo dõi để thu hồi khi

×