A. LỜI MỞ ĐẦU
Mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 2006-
2010 của Việt Nam là “đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước
chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển,
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật
chất văn hoá, tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá và
phát triển kinh tế tri thức tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2010. Giữ vững ổn định chính trị và
trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và
an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường
quốc tế.”
Muốn Việt Nam đứng vững trên con đường phát triển thì cần phải hiểu
đúng nghĩa về tăng trưởng, phát triển kinh tế và phát triển bền vững.Vì vậy trong
khuôn khổ bài viết, em xin trình bày về “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
và phát triển bền vững”. Từ đó đưa ra những thành tựu, hạn chế và giải pháp
khắc phục.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS. PHẠM NGỌC LINH đã hướng
dẫn và giúp đỡ em hoàn thành bài đề án này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do thời gian và thông tin có hạn nên
không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được thầy giáo chỉ bảo.
1
B. NỘI DUNG
Chương I :Những lí luận về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
và phát triển bền vững.
I. Các khái niệm:
1.Tăng trưởng kinh tế:
Khái niệm: Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong
một khoảng thời gian nhất định( thường là một năm).
+)Sự gia tăng được thể hiện ở qui mô và tốc độ. Qui mô tăng trưởng phản
ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so
sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kì.
+) Thu nhập của nền kinh tế có thể biểu hiện dưới dạng hiện vật hoặc giá trị.
Thu nhập bằng giá trị phản ánh qua các chỉ tiêu GNP, GNI và được tính cho toàn
thể nền kinh tế hoặc tính bình quân trên đầu người.
Như vậy, bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng đối với
nền kinh tế. Ngày nay, yêu cầu tăng trưởng kinh tế được gắn liền với tính bền
vững hay việc bảo đảm chất lượng tăng trưởng ngày càng cao. Theo khía cạnh
này, điều được nhấn mạnh nhiều hơn là sự gia tăng liên tục, có hiệu quả của chỉ
tiêu qui mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người. Hơn thế nữa, qúa trình
ấy phải được tạo nên bởi nhân tố đóng vai trò quyết định là khoa học, công nghệ
và vốn nhân lực trong điều kiện một cơ cấu kinh tế hợp lí.
Để đạt được sự tăng trưởng kinh tế tốt nhất là đề đạt được sự tăng trưởng ở
mức cao thì cần có sự phối hợp đồng bộ giữa điều hành vĩ mô và điều khiển vi
mô, kết hợp nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan, vận dụng các quy luật kinh
tế và sử dụng các công cụ đòn bẩy như thuế, tiền tệ, lãi suất, việc làm...
Tăng trưởng kinh tế là vấn đề cực kỳ quan trọng, liên quan đến sự thịnh suy
của một quốc gia. Bởi thế, chính phủ nước nào cũng ưu tiên các nguồn lực của
2
mình cho sự tăng trưởng kinh tế, coi đó là cái gốc, là nền tảng để giải quyết mọi
vấn đề khác. Trên cơ sở giải quyết vấn đề tảng trưởng kinh tế tạo ra nhiều của cải
mới, người ta mới có thể giải quyết hàng loạt vấn đề khác như cân bằng ngân
sách, đầu tư chiều sâu, phúc lợi xã hội, giải quyết việc làm, chống lại các loại tội
phạm, đảm bảo ngân sách cho quốc phòng an ninh... Ngược lại nếu không đạt
được sự tăng trưởng kinh tế ở mức độ cần thiết thì trong xã hội sẽ có khả năng
nảy sinh hàng loạt vấn đề rất nan giải. Bài học của Việt Nam trong thời kỳ khủng
hoảng kinh tế trầm trọng (khoảng những năm 1976 - 1986) đã cho ta thấy rõ vai
trò của sự tăng trưởng kinh tế quan trọng như thế nào.
2.Phát triển bền vững:
Khái niệm: Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thoả mãn các nhu
cầu hiện tại của con người nhưng không tổn hại tới sự thoả mãn các nhu cầu của
thế hệ tương lai.
Ðể xây dựng một xã hội phát triển bền vững, Chương trình Môi trường Liên
Hợp Quốc đã đề ra 9 nguyên tắc:
+) Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng.
+) Cải thiện chất lượng cuộc sống của con người.
+) Bảo vệ sức sống và tính đa dạng của Trái đất.
+) Quản lý những nguồn tài nguyên không tái tạo được.
+) Tôn trọng khả năng chịu đựng được của Trái đất.
+) Thay đổi tập tục và thói quen cá nhân.
+) Ðể cho các cộng đồng tự quản lý môi trường của mình.
+) Tạo ra một khuôn mẫu quốc gia thống nhất, thuận lợi cho việc phát triển
và bảo vệ.
+) Xây dựng một khối liên minh toàn cầu.
Phát triển bền vững đang là thách thức cho mọi quốc gia, nhất là trong điều
kiện toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế.việc ựa chọn con đường, biện pháp và
3
thể chế, chính sách đảm bảo phát triển bền vững luôn là mối quan tâm hàng đầu
của mọi người trong bước đường phát triển.
Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio de
Janeiro (Braxin) năm 1992 và Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền
vững tổ chức ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002 đã xác định "phát
triển bền vững" là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà
giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh tế),
phát triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xoá đói giảm nghèo
và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất là xử lý, khắc phục ô nhiễm,
phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; phòng chống cháy và chặt phá rừng;
khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
Chuyên gia của Ngân hàng thế giới, Mohan munasingle đã phát triển mô hình
phát triển bền vững vào năm 1993:
• Tăng trưởng
• Hiệu quả
• Ổn định
Kinh tế
-Công bằng giữa các thế hệ -Đánh giá tác động môi trường
-Mục tiêu trợ giúp việc làm -Tiền tệ hoá tác động môi trường
* Giảm đói nghèo * Đa dạng sinh học và thích nghi
*Xây dựng thể chế Xã Môi * Bảo tồn tài nguyên thiên nhiên
*Bảo tồn di sản hội trường * Ngăn chặn ô nhiễm
văn hoá dân tộc
- Công bằng giữa các thế hệ
- Sự tham gia của quần chúng
Hình: Tiếp cận phát triển bền vững
4
Tuy nhiên, theo kinh nghiệm quốc tế, cần quan niệm vấn đề phát triển bền
vững một cách toàn diện hơn, bao gồm sáu nội dung :
+)Tăng trưởng kinh tế với tốc độ nhanh
+) Bảo vệ và cải thiện môi trường
+) Phát triển văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ
+) Bảo đảm tự do dân chủ
+) Phát triển con người
II. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững:
1. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần:
Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần cho phát triển nhưng không đồng nghĩa
với phát triển. Phát triển chỉ dựa trên tăng trưởng đơn thuần thì sự tăng trưởng đó
không lâu bền. Nhiều bài học kinh nghiệm cho thấy, nếu sự phát triển không
tương ứng hoặc chỉ đáp ứng tăng nhu cầu cho dân số hiện đại nhưng ảnh hưởng
đến chất lượng cuộc sống của dân số tương lai, phát triển dựa trên vào khai thác
quá mức tài nguyên thiên nhiên, không dựa trên cơ sở bảo vệ môi trường thì sự
phát triển đó không thể gọi là bền vững
Theo các chuyên gia kinh tế thuộc Ngân hàng thế giới: "Phát triển là nâng
cao phúc lợi của nhân dân. Nâng cao tiêu chuẩn sống và cải tiến giáo dục, sức
khỏe và bình đẳng về cơ hội là tất cả những thành phần cơ bản của phát triển kinh
tế. Báo đảm các quyền chính trị và công dân là một mục tiêu phát triển rộng hơn.
Tăng trưởng kinh tế là một cách cơ bản để có thể có được sự phát triển, nhưng
trong bản thân nó là một đại diện rất không toàn vẹn của tiến bộ".
Tất cả các nước đều đặt ra mục tiêu phát triển, muốn phát triển được phải
dựa trên đôi cánh của tăng trưởng kinh tế. Nhưng, tăng trưởng kinh tế không phải
là đôi cánh duy nhất, mặc dù nó được coi là quan trọng nhất cho sự phát triển.
5
2. Hậu quả của tăng trưởng đối với phát triển bền vững.
Tăng trưởng quá nhanh sẽ dẫn đến tình trạng lạm phát.
Có sự đánh đổi giữa tăng trưởng và lạm phát, vì để tăng trưởng thì phải tăng
đầu tư, mà để tăng đầu tư thì phải tăng cung tiền, tăng tín dụng.
Nếu nhìn vào hệ số ICOR (đo lường số đơn vị đầu tư cần thiết để tạo thêm
được một đơn vị tăng trưởng), chúng ta thấy có hai triệu chứng: Thứ nhất là
ICOR của ta tăng rất nhanh, đến giữa những năm 1990 để tạo ra 1 đơn vị tăng
trưởng, chúng ta chỉ cần hơn 3 đơn vị đầu tư thì bây giờ con số này đã tăng lên tới
4,5. Thứ hai, hệ số ICOR của chúng ta cũng cao hơn các nước trong điều kiện
phát triển tương tự (Thái Lan, Philippines những năm 1980, Trung Quốc những
năm 1990). Đấy là những dấu hiệu cho thấy chúng ta đã và đang dùng quá nhiều
vốn để đạt được một đơn vị tăng trưởng, tức là nền kinh tế vận hành kém hiệu
quả, và đây là một nguyên nhân sâu xa gây nên lạm phát.
Lạm phát ở Việt Nam đang có xu hướng tăng cao trong những năm gần đây.
Lạm phát trung bình năm 2005 là 8,3%, 2006 là 7,5% và 7,3% tại thời điểm tháng
8 năm 2007. Mức lạm phát trung bình của Việt Nam cao hơn các nước trong khu
vực.
Tăng trưởng kinh tế làm gia tăng tình trạng bất bình đẳng:
Như đã nói ở trên, tăng trưởng kinh tế nhanh sẽ dẫn đến lạm phát. Khi có
lạm phát tức là giá cả sẽ tăng lên.Giá cả tăng sẽ tác động đến mọi người dân
nhưng tác động mạnh nhất là công chức nhà nước và người nghèo. Ở phương
Tây, có một câu nói đùa nhưng đầy ý nghĩa: "Lạm phát là một loại thuế hết sức dã
man mà loại thuế này đánh mạnh nhất vào nhóm những nguời nghèo khổ nhất".
Trong nhóm người nghèo bị tác động mạnh ở Việt Nam có một phần rất đông là
nông dân, sản xuất nông nghiệp.
Nói một cách đơn giản, giá cả tăng sẽ tác động đến tất cả mọi tầng lớp,
nhưng với những người giàu, có điều kiện sẽ ít bị tác động hơn vì trong tổng thu
6
nhập, họ chỉ phải sử dụng một phần cho chi tiêu hàng ngày. Còn những người
nghèo thì hầu hết thu nhập dùng cho chi tiêu hàng ngày, có bao nhiêu phải chi hết,
thậm chí không đủ mà chi. Vì vậy, giá cả lên sẽ khiến cuộc sống vốn eo hẹp của
nhóm đối tượng này càng eo hẹp và khó khăn hơn. Nếu giá cả càng tăng thì càng
tác động tiêu cực đến người nghèo và quá trình đó sẽ làm phân hóa giàu nghèo
càng mạnh hơn.
Tăng trưởng kinh tế làm kiệt quệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái
bị huỷ hoại.
Cách thức phát triển của loài người trong mấy chục năm qua đã tạp ra áp lực
làm kiệt quệ tài nguyên thiên nhiên, phá vỡ cân bằng sinh thái, tổn hại đến môi
trường- cơ sở tồn tại của chính bản thân con người. Trong khi loài người chiếm
lĩnh những đỉnh cao của khoa học thì cũng là lúc phải đối mặt với nhiều thách
thức từ môi trường; con người luôn bị đặt vào những tình huống bất ngờ không
lường trước được : thiên tai, lũ lụt, hạn hán…
Theo công bố của bản Báo cáo phát triển bền vững do Chương trình bảo vệ
môi trường Liên Hợp quốc (UNEP) đưa ra cuối năm 2004 : 1/5 dân số thế giới có
mức thu nhập chưa đến 1 đô la/ngày; 80 triệu người ở các nước đang phát triển bị
suy dinh dưỡng; hàng năm có tới 10 triệu người chết vì các bệnh có thể phòng
tránh được và hơn 150 triệu trẻ em không được đến trường do nghèo đói; 1/5 dân
số thế giới không được sư dụng nước sạch v.v... Gia tăng dân số đã tạo ra áp lực
to lớn đối với thiên nhiên. Sự thay đổi khí hậu toàn cầu; tình trạng ô nhiễm các
nguồn nước; hiện tương sa mạc hoá; sự xói mòn đất đai; sự suy thoái về rừng; sự
tuyệt chủng của các loài sinh vật... đã va đang trở thành mối đe doạ trực tiếp đến
sự sống trên trái đất. Gần 1/2 đất đai trên thế giới đã bị biến đổi bởi con người.
Người ta gọi sự xói mòn đất đai nhanh chóng là "cuộc khủng hoảng thầm lặng của
hành tinh", là mối đe doạ to lớn đối với sự sống trên trái đất.
7
Tại Việt Nam, môi trường tiếp tục bị ô nhiễm và xuống cấp, có nơi rất
nghiêm trọng. Đất đai bị xói mòn, thoái hoá; chất lượng các nguồn nước suy giảm
mạnh; không khí ở nhiều đô thị, khu dân cư bị ô nhiễm nặng; tài nguyên thiên
nhiên trong nhiều trường hợp bị khai thác quá mức, không có quy hoạch; đa dạng
sinh học bị đe doạ nghiêm trọng; điều kiện vệ sinh môi trường, cung cấp nước
sạch ở nhiều nơi không được bảo đảm....
Nhiều vấn đề ô nhiễm mới nảy sinh do quá trình phát triển công nghiệp và
đô thị hoá. Sự tập trung và gia tăng số lượng dân cư lớn ở đô thị, tiến trình phát
triển kinh tế dựa vào khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên... khiến cho ô
nhiễm môi trường ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh trở
thành vấn đề khá nghiêm trọng. Theo dự đoán của Sở Khoa học, Công nghệ và
Môi trường, thành phố Hà Nội năm 2005, sẽ có hơn 850 nghìn tấn rác thải và đến
năm 2020 con số này sẽ lên tới 1 triệu 600 nghìn tấn. Ở thành phố Hồ Chí Minh,
bình quân mỗi người dân thải ra 1,5 kg chất thải rắn hàng ngày. Trong khi đó,
việc thi hành Luật Bảo vệ môi trường chưa thực sự nghiêm minh, có nơi, có lúc
còn buông lỏng. Một số cơ quan, ban, ngành, vấn đề môi trường chưa được coi là
ưu tiên. Ý thức tự giác của người dân về bảo vệ và giữ gìn môi trường chưa thực
sự trở thành thói quen. Nhiều người còn có suy nghĩ giản đơn rằng vấn đề môi
trường chưa cấp bách, trước mắt như vân đề cơm áo gạo tiền hàng ngày; bảo vệ
môi trường là vấn đề chung của cả nước, cả xã hội, là trách nhiệm của Đảng và
Nhà nước, chứ không phải là trách nhệim của người dân... Chính sự thờ ơ, thái độ
"vô cảm" của một bộ phận người dân đối với môi trường đã tiếp tay cho việc tàn
phá môi trường.
Tăng trưởng kinh tế huỷ hoại giá trị truyền thống của quốc gia:
Theo xu thế của thế giới,nhiều quốc gia thực hiện chính sách đa dạng hoá, đa
phương hoá các quan hệ quốc tế, mở rộng quan hệ và hợp tác với tất cả các nước,
các tổ chức quốc tế nhằm tạo môi trường quốc tế thuận lợi để đẩy nhanh quá trình
8
phát triển kinh tế – xã hội, với xu thế ấy không ít quốc gia đã đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng kinh tế mà không chú ý đến việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, dần
dần huỷ hoại những giá trị của dân tộc, từ đó dẫn đến sự suy giảm về đạo đức, lối
sống và những giá trị nhân văn khác.
Chương II:Thực trạng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
phát triển bền vững ở Việt Nam.
I.Quan điểm chỉ đạo.
Kết quả thực hiện Quan điểm phát triển bền vững theo Chương trình Nghị sự
21 (CTNS21) đã được nêu trong Nghị quyết Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt
Nam là “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Trong hơn một năm
qua, Văn phòng Phát triển bền vững đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, sự hợp tác của các cơ quan, ban, ngành trong nước và đặc biệt
với sự hỗ trợ của một số tổ chức quốc tế đã tiến hành thực hiện nhiều công việc
quan trọng nhằm hoàn thiện thể chế, nâng cao nhận thức của nhân dân, nâng cao
trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ.
Một sự kiện quan trọng trong việc hình thành thể chế phát triển bền vững là
sự thành lập Hội đồng phát triển bền vững quốc gia theo Quyết định số 1032/QĐ-
TTg ngày 27/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ. Hội đồng phát triển bền vững
quốc gia có nhiệm vụ giúp Thủ tướng Chính phủ tổ chức, hướng dẫn và chỉ đạo
thống nhất việc thực hiện trong cả nước chiến lược phát triển bền vững. Hội đồng
do Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ làm Chủ tịch, thành phần gồm 40 thành
viên, đại diện cho các cơ quan Đảng, Quốc hội, các bộ, ngành, địa phương, doanh
nghiệp và các tổ chức xã hội.
9
Đảng và Nhà nước ta từ nhiều năm qua đã luôn nhận thức sâu sắc về tầm
quan trọng của sự phát triển bền vững không chỉ riêng với Việt Nam mà còn có
liên đới trách nhiệm với sự phát triển bền vững chung của toàn cầu. Chính phủ ta
đã cử nhiều đoàn cấp cao tham gia các Hội nghị nói trên và cam kết thực hiện
phát triển bền vững; đã ban hành và tích cực thực hiện "Kế hoạch quốc gia về
Môi trường và Phát triển bền vững giai đoạn 1991-2000" (Quyết định số 187-CT
ngày 12 tháng 6 năm 1991), tạo tiền đề cho quá trình phát triển bền vững ở Việt
Nam. Quan điểm phát triển bền vững đã được khẳng định trong Chỉ thị số 36-
CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo
vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, trong đó nhấn mạnh: "Bảo vệ
môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương
và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan
trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH".
Quan điểm phát triển bền vững đã được tái khẳng định trong các văn kiện
của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng Cộng sản Việt Nam và
trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 là: "Phát triển nhanh, hiệu
quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội và bảo vệ môi trường" và "Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và
cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi
trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học". Gần đây, Đại hội X (2006) của
Đảng cũng đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn từ thực tiễn phát triển hơn 20 năm
đổi mới vừa qua và đó cũng là tư tưỏng chỉ đạo về phát triển kinh tế - xã hội nước
ta giai đoạn 5 năm 2006-2010 và kể cả nhiều năm tiếp theo. Trong đó, bài học đầu
tiên đã được Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh là “Bài học về phát triển nhanh và bền
vững”. Phát triển bền vững rõ ràng đã và đang trở thành đường lối, quan điểm của
Đảng và định hướng chính sách phát triển của Nhà nước. Để thực hiện mục tiêu
phát triển bền vững, những năm vừa qua đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết khác của
10
Đảng, nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đã được ban hành và triển
khai thực hiện; nhiều chương trình, đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này đã được tiến
hành và thu được những kết quả bước đầu. Nhờ đó, nhiều nội dung cơ bản về phát
triển bền vững đã đi vào cuộc sống và dần dần trở thành xu thế tất yếu trong sự
phát triển của đất nước. Phần tiếp theo dưới đây sẽ phản ánh thực trạng khả quan
đó trong lĩnh vực kinh tế.
II. Thành tựu và hạn chế tăng trưởng kinh tế nhằm mục tiêu phát triển bền
vững ở Việt Nam
1.Kết quả đạt được về tăng trưởng kinh tế nhằm hướng tới phát triển bền vững:
1.1. Nền kinh tế nước ta đã liên tục tăng trưởng với tốc độ khá cao và tương đối ổn
định
Nhiều năm liên tục, kinh tế Việt Nam tăng trưởng với tốc độ khá cao và
tương đối ổn định. GDP tăng bình quân trên 7% năm, riêng năm 2006 là 8,2%
đứng thứ hai ở châu Á và dự kiến năm 2007 là 8,5%. Việt Nam cũng đã chuyển
mạnh sang nền kinh tế thị trường và hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế thế giới.
Hiện nay đã có gần 80 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với gần
8.000 dự án và tổng số vốn đăng ký trên 70 tỷ USD, riêng năm 2006 Việt Nam đã
thu hút được 10,2 tỷ USD vốn FDI, tăng 50% so với 2005. Tám tháng đầu năm
2007, con số này là 8,3 tỉ USD và dự kiến có thể đạt tới 13-14 tỉ USD vào cuối
năm. Kim ngạch xuất khẩu tăng 20%/năm liên tục trong nhiều năm qua, giá trị
kim ngạch xuất khẩu năm 2006 tương đương trên 60% GDP của cả nước.
11