Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Thách thức và hoàn thiện pháp luật và trách nhiệm pháp lý thông qua việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (598.6 KB, 26 trang )

BỘ XÂY DỰNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC TP.HCM
------

TIỂU LUẬN
MÔN: LUẬT BẢN QUYỀN
Đề tài: Những vấn đề pháp lý và thực tiễn về trách nhiệm pháp lý trong Luật
bản quyền.


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

BỘ XÂY DỰNG

Trường Đại học Kiến Trúc TP.HCM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BÀI TIỂU LUẬN MÔN:...........................................................................................
Họ và tên sinh viên:………………………………………………………………………...
Mã số sinh viên:…………………………………………………………………………….
Mã lớp học phần:…………………………………………………………...........................
ĐIỂM CỦA BÀI TIỂU LUẬN
Ghi bằng số

Ghi bằng chữ

Họ tên và chữ ký của cán bộ chấm thi thứ 1

Họ tên và chữ ký của cán bộ chấm thi thứ 2


Thành phố Hồ Chí Minh, Ngày…… tháng……năm 202..
Sinh viên nộp bài
Ký tên


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Sở hữu trí tuệ

SHTT

Quyền tác giả

QTG

Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương

CPTPP


MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................................2
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
TRONG LUẬT BẢN QUYỀN ..............................................................................................2
1. Khái niệm chung về quyền tác giả ....................................................................................2
2. Khái niệm chung về trách nhiệm pháp lý ........................................................................2
2.1. Phân loại trách nhiệm pháp lý dựa trên sự phân loại vi phạm pháp luật .................3
2.1.1. Trách nhiệm hình sự ...............................................................................................3

2.1.2. Trách nhiệm hành chính .........................................................................................3
2.1.3. Trách nhiệm dân sự ................................................................................................3
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN TÁC GIẢ
TRONG LUẬT BẢN QUYỀN ..............................................................................................4
1. Căn cứ xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả .........................................................4
2. Phân loại hành vi xâm phạm quyền tác giả .....................................................................5
2.1. Hành vi xâm phạm quyền nhân thân ............................................................................5
2.2. Hành vi xâm phạm quyền tài sản ..................................................................................5
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG XÂM PHẠM QUYỀN TÁC GIẢ VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI
PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT .................................................7
1. Thực trạng...........................................................................................................................7
2. Nguyên nhân .......................................................................................................................7
3. Kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật......................................8
CHƯƠNG 4. ĐÁNH GIÁ VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP
LÝ TRONG LUẬT BẢN QUYỀN THÔNG QUA CÁC BIỆN PHÁP THỰC THI
QUYỀN TÁC GIẢ .................................................................................................................9


1. Khái niệm biện pháp thực thi quyền SHTT ....................................................................9
1.1. Biện pháp hình sự ............................................................................................................9
1.2. Biện pháp hành chính .....................................................................................................9
1.3. Biện pháp dân sự ...........................................................................................................10
2. Thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái
Bình Dương (CPTPP) ..........................................................................................................11
2.1. Nguyên tắc, yêu cầu hoạt động thực thi quyền SHTT ...............................................11
2.1.1. Về biện pháp hình sự ............................................................................................11
2.1.2. Về biện pháp hành chính ......................................................................................13
2.1.3. Về biện pháp thực thi dân sự ................................................................................14
CHƯƠNG 5. THÁCH THỨC VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM
PHÁP LÝ THƠNG QUA VIỆC THỰC THI QÙN SỞ HỮU TRÍ TUỆ CỦA VIỆT

NAM ......................................................................................................................................16
1. Những thách thức khi Việt Nam tham gia Hiệp định thế hệ mới ................................16
2. Hoàn thiện thực thi quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam ..............................................16
PHẦN KẾT LUẬN ...............................................................................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



LỜI MỞ ĐẦU
Cơng c̣c đởi mới mợt cách tồn diện ở nước ta gần hai thập kỷ qua đã đạt được những
thành tựu quan trọng và đem lại những biến đổi tích cực, đa dạng trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Thực tiễn đời sống pháp lý cho thấy nhiều vấn đề, nội dung đặt ra đòi hỏi phải
được nhìn nhận mợt cách tồn diện và khách quan nhằm đảm bảo sự phù hợp đối với quá
trình đổi mới. Trách nhiệm pháp lý trong Luật bản quyền được nhận diện là một yếu tố quan
trọng bới tính răn đe, phòng ngừa, giáo dục góp phần giảm thiểu oan sai trong truy cứu trách
nhiệm pháp lý thực tế, nâng cao hiệu quả pháp luật và đóng góp tang cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa.
Phương pháp nghiên cứu đề tài dựa trên quan điểm khoa học chủ nghĩa Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa. Các phương pháp nghiên
cứu cụ thể được sử dụng bao gồm: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương
pháp so sánh, phương pháp lịch sử và phương pháp xã hội học.
Trước thực trạng trên, cùng với nhu cầu và mối quan tâm đối với hoạt động xây dựng pháp
luật, vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Những vấn đề pháp lý và thực tiễn về trách nhiệm
pháp lý trong Luật bản quyền.” trong bối cảnh hiện nay có ý nghĩa thiết thực về mặt lý luận
lẫn thực tiễn.
Bài làm chắc chắn sẽ không tránh khỏi nhiều điểm sai sót vì nguồn kiến thức cũng như kỹ
năng còn hạn chế. Nhóm rất mong nhận được sự thông cảm, đón nhận và góp ý để khắc phục
các nhược điểm, hoàn thiện hơn nữa trong các bài làm tiếp theo.
Xin chân thành cảm ơn!


1


NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VÀ THỰC TIỄN VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
TRONG LUẬT BẢN QUYỀN
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM
PHÁP LÝ TRONG LUẬT BẢN QUYỀN
1. Khái niệm chung về quyền tác giả
Quyền tác giả (QTG) là phạm vi các quyền (bao gồm cả quyền nhân thân và quyền tài
sản) của chủ thể (bao gồm tác giả và chủ sở hữu QTG) đối với tác phẩm của họ được pháp
luật ghi nhận và bảo hộ. QTG là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng
tạo ra hoặc sở hữu.
QTG thường được xem xét theo hai góc độ chính, bao gồm:
Về góc độ khách quan: QTG là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành
nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ việc tạo ra và sử dụng các tác phẩm văn học, nghệ
thuật, khoa học, qua đó xác nhận các quyền của tác giả, chủ sở hữu QTG, xác định nghĩa vụ
của các chủ thể trong việc sáng tạo và sử dụng các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học,
đồng thời quy định trình tự và phương thức bảo hộ các quyền đó khi có hành vi xâm phạm.
Về góc độ là một quan hệ pháp luật dân sự: QTG là quan hệ xã hội giữa tác giả, chủ sở
hữu QTG với các chủ thể khác trong xã hội thông qua tác phẩm được sự động của các quy
phạm pháp luật về QTG. Mối quan hệ này thể hiện chỉ có tác giả, chủ sở hữu QTG mới có
các quyền đối với tác phẩm và các chủ thể khác đều có nghĩa vụ tôn trọng các quyền của tác
giả, chủ sở hữu tác phẩm. Với góc độ này, QTG bao gồm ba thành phần: chủ thể, khách thể
và nội dung. Trong đó, chủ thể của QTG là tác giả và chủ sở hữu QTG. Khách thể của QTG
là các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học do tác giả sáng tạo ra bằng lao động trí tuệ. Nội
dung của QTG là các quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu QTG đối với
tác phẩm.1
2. Khái niệm chung về trách nhiệm pháp lý
Trách nhiệm pháp lý là sự gánh chịu hậu quả pháp ly bất lợi thể hiện ở việc tước đoạt hoặc

hạn chế những quyền, lợi ích do nhà nước áp dụng đối với chủ thể khi có vi phạm pháp luật
hoặc gây ra hậu quả xấu vì những nguyên nhân được pháp luật qui định.2 Trách nhiệm pháp
lý được xem xét dưới hai góc độ chính, bao gồm:

1
2

Đại học Luật Hà Nội (2021), Giáo trình Ḷt sở hữu trí ṭ, Nxb. Cơng an Nhân dân, Hà Nội, tr.37-38.
Lê Vương Long (2006), Trách nhiệm pháp lý- Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Hà Nội, tr.36.

2


Trách nhiệm pháp lý không chỉ do vi phạm pháp luật mà còn do những nguyên nhân khác
khi gây ra hậu quả xấu được pháp luật quy định.
Trách nhiệm pháp lý không phải bao giờ cũng cần và phải thông qua hoạt động truy cứu
trách nhiệm pháp lý của nhà nước. Ví dụ, trong lĩnh vực dân sự, lao động: khi các bên liên
quan đến vi phạm pháp luật tự thỏa thuận theo quy định của pháp luật về phương thức đền bù
và chế độ trách nhiệm đã không có sự có mặt của nhà nước, ngược lại trong trách nhiệm hành
chính, trách nhiệm hình sự thì sự có mặt của nhà nước là bắt buộc.
2.1. Phân loại trách nhiệm pháp lý dựa trên sự phân loại vi phạm pháp luật
Các trách nhiệm pháp lý chính bao gồm: trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự, trách
nhiệm hành chính.
2.1.1. Trách nhiệm hình sự
Đây là loại trách nhiệm pháp lý thể hiện thái độ trừng trị nghiệm khắc nhất của Nhà nước
đối với người phạm tội. Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội
phạm mà cá nhận người phạm tội phải gánh chịu trước nhà nước, thể hiện ở bản án kết tội
của Tòa án, hình phạt đối với người phạm tội và dấu hiện án tích của người đó. Trách nhiệm
hình sự do pháp luật hình sự quy định, ở nước ta hầu như chỉ áp dụng đối với chủ thể phạm
tội là cá nhân. Việc áp dụng trách nhiệm hình sự do Tòa án thực hiện theo quy trình tố tụng

hết sức chặt chẽ, nghiêm ngặt. Về nguyên tắc, trách nhiệm hình sự phát sinh kể từ thời điểm
bản án đã tuyên có hiệu lực pháp luật.
2.1.2. Trách nhiệm hành chính
Đây là hậu quả pháp lý bất lợi mà các chủ thể cá nhân hoặc tổ chức phải gánh chịu khi có
vi phạm hành chính. Khác với trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính chủ yếu do các
chủ thể quản lý hành chính áp dụng đối với mọi chủ thể nếu có hành vi vi phạm hành chính.
Hơn nữa trách nhiệm hành chính có thể được áp dụng đồng thời với các loại trách nhiệm pháp
lý khác như trách nhiệm ký luật, trách nhiệm dân sự, ngoại trừ trách nhiệm hình sự.
2.1.3. Trách nhiệm dân sự
Đây là hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể bào gồm cá nhân hoặc tổ chức phải gánh chịu
khi có vi phạm dân sự hoặc khi có thiệt hại xảy ra do những nguyên nhân khác được pháp
luật quy định. Trách nhiệm dân sự do Tòa án áp dụng. Trong trường hợp chủ thể không tự
giác thực hiện bản án sẽ được cơ quan thi hành án thực hiện bằng biện pháp bắt buộc đối với
chủ thể, Cũng giống như chủ thể trong trách nhiệm hành chính, chủ thể trong trách nhiệm dân
sự có thể là các cá nhân hoặc tổ chức. Bên cạnh đó, trách nhiệm dân sự có thể được áp dụng
ngay cả với những chủ thể không trực tiếp thực hiện hành vi vi phạm dân sự.

3


CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN
TÁC GIẢ TRONG LUẬT BẢN QUYỀN
1. Căn cứ xác định hành vi xâm phạm quyền tác giả
QTG bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu QTG quy định tại
Điều 19 và Điều 20 Luật sở hữu trí tuệ (SHTT).3
Hành vi trái pháp luật là hành vi thực hiện không đúng quy định của pháp luật như không
làm việc mà pháp luật yêu cầu, làm việc mà pháp luật cấm hoặc tiến hành hoạt động vượt quá
giới hạn, phạm vi cho phép của pháp luật.4
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, hành vi bị xem xét bị coi là xâm phạm QTG khi
có đủ các căn cứ sau (Điều 5 Nghị định số 105/2006/NĐ-CP):

Thứ nhất, đối tượng bị xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo hộ QTG. Đối
tượng bị xem xét phải là những loại hình tác phẩm được bảo hộ theo quy định tại Điều 14
Luật SHTT. Điểm đặc biệt của quyền SHTT so với những tài sản hữu hình là việc bảo hộ
không phải là đương nhiên và cũng không kéo dài vĩnh viễn. Các đối tượng này phải đáp ứng
các điều kiện về căn cứ các lập quyền theo quy định cụ thể: “Quyền tác giả phát sinh kể từ
khi tác phẩm được sáng tạo ra và thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định, khơng phụ tḥc
vào thủ tục đăng kí hay cơng bố”. Bên cạnh đó, bảo hộ quyền SHTT là bảo hộ có thời hạn.
Quy định thời hạn bảo hộ nhằm bảo vệ lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng,5 khuyến khích
thức đẩy hoạt động sáng tạo. Hầu hết các quyền nhân thân thuộc QTG được bảo hộ vô thời
hạn, trừ quyền công bố tác phẩm quy định tại khoản 3 Điều 19 được bảo hộ giới hạn theo thời
hạn bảo hộ tương ứng của quyền tài sản tại Điều 20 căn cứ vào loại hình tác phẩm theo quy
định tại Điều 27 Luật SHTT;
Thứ hai, có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét. Những yếu tố xâm phạm phổ
biến trong hành vi xâm phạm QTG là việc sửa chữa, cắt xén tác phẩm làm ảnh hưởng đến
tính nguyên gốc, sao chép tác phẩm bất hợp pháp hay sử dụng tác phẩm mà không xin phép
cũng không trả tiền cho tác giả, chủ sở hữu QTG;
Thứ ba, chủ thể thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ thể quyền SHTT và không
phải là người được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép theo các trường hợp sử
dụng hạn chế theo Điều 25, Điều 26 Luật SHTT.6 Theo nguyên tắc độc quyền, khi một đối
tượng được bảo hộ thì chỉ chủ sở hữu quyền được phép sử dụng hoặc cho phép người khác

Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 được sửa đổi bổ sung năm 2009 và 2019(sau đây gọi là Luật SHTT).
Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình lí ḷn nhà nước và pháp ḷt, Nxb. Cơng an nhân dân, Hà Nội, tr.206.
5
Jeanne C. Frome, “Claiming Intellectual Property”, The Univesity of Chicago Law Review, Number 79, 2009, p.730.
6
các trường hợp sử dụng tác phẩm không phải xin phép, không phải trả tiền hoặc không phải xin phép nhưng trả tiền.
3
4


4


khai thác, sử dụng đối tượng SHTT. Do đó, nếu không phải là chủ sở hữu hoặc người được
chủ sở hữu chuyển giao quyền hoặc người được hưởng quyền theo phương thức hợp pháp thì
việc thực hiện những hành vi khai thác, sử dụng đối tượng SHTT sẽ là hành vi xâm phạm
quyền SHTT;7
Thứ tư, hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam.
2. Phân loại hành vi xâm phạm quyền tác giả
2.1. Hành vi xâm phạm quyền nhân thân
Quyền nhân thân là quyền gắn với mỗi cá nhân, cụ thể là tác giả - người sáng tạo ra mợt
phần hoặc tồn bợ tác giả. Các quyền nhân thân thuộc QTG được quy định tại Điều 19 Luật
SHTT, bao gồm bốn nhóm quyền:
Thứ nhất, Đặt tên cho tác phẩm: tác giả của tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học có
quyền đặt tên và tùy ý trong việc lựa chọn tên gọi cho tác phẩm mà tác giả đã sáng tạo.8
Thứ hai, Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi
tác phẩm được công bố, sử dụng;
Thứ ba, Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm: phát hành tác
phẩm đến công chúng với số lượng bản sao đủ để đáp ứng nhu cầu hợp lí của công chúng tùy
theo bản chất của tác phẩm, do tác giả, chủ sở hữu QTG thực hiện hoặc do cá nhân, tổ chức
khác thực hiện với sự đồng ý của tác giả, chủ sở hữu QTG;
Thứ tư, Bảo vệ sự tồn vẹn của tác phẩm, khơng cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc
xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác
giả. Tương tự Điều 6Bis Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật cũng quy
định quyền nhân thân cho phép tác giả được yêu cầu thừa nhận mình là tác giả của tác phẩm,
phản đối bất kỳ sự xuyên tạc, cắt xén hay sửa đổi nào làm phương hại đến danh tiếng của tác
giả.
Một trong những hành vi xâm phạm quyền nhân thân thương gặp là trường hợp quy định
tại khoản 5 Điều 28 Luật SHTT: sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kì hình
thức nào gây phương hại đến danh sự và uy tín cảu tác giả. Đây là hành vi xâm phạm quyền

nhân thân không gắn với tài sản.9
2.2. Hành vi xâm phạm quyền tài sản
Quyền tài sản là cơ sở quan trọng để khai thác các giá trị vật chất của tác phẩm được bảo
hộ. Pháp luật QTG trao cho chủ sở hữu một độc quyền có giới hạn trong việc khai thác thành
Lê Thị Nam Giang (2009), “Nguyên tắc cân bằng lợi ích của chủ sở hữu trí tuệ và lợi ích xã hội”, Tạp chí khoa học
pháp lí, số 2/2009, tr.16.
8
Trường Đại học Luật Hà Nôi, Giáo trình luật sân sự Việt Nam - Tập 2, Nxb. Công an Nhân dân, hà Nội, 2008, tr.376.
9
Phạm Tuấn Anh (2011), Quản lí nhà nước về sở hữu trí tuệ, Nxb. Khoa học và kĩ thuật, Hà Nội, tr.102.
7

5


quả sáng tạo của họ nhằm khuyến khích các hoạt động sáng tạo cũng như để công chúng tiếp
cận những sản phẩm trí tuệ sau khi thời hạn nắm giữ độc quyền chấm dứt.10 Xâm phạm các
độc quyền này là xâm phạm QTG, mà chủ yếu là các quyền tài sản liên quan đến khai thác,
sử dụng, chuyển giao tác phẩm.11
Theo quy định tại Điều 28 Luật SHTT thì hai hành vi xâm phạm QTG phổ biến bao gồm:
Hành vi sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu QTG và Hành vi sử
dụng tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu QTG, không trả tiền nhuận bút thù lao.

Nguyễn Ngọc Xuân Thảo, Luật sở hữu trí tuệ - Án lệ, lí thuyết và bài tập vận dụng, Nxb. Đại học quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh, 2013, tr.360
11
Nguyễn Hồ Bích Hằng, tlđd, tr.137.
10

6



CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG XÂM PHẠM QUYỀN TÁC GIẢ VÀ KIẾN NGHỊ
GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
1. Thực trạng
Theo báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 36/2008/CT-TTg về việc tang cường quản
lý thực thi và bảo hộ QTG, quyền liên quan của Bộ văn hóa, thể thao và du lịch, trong những
năm 2009, lực lượng thanh tra chuyên ngành văn hóa, thể thao và du lịch đã thu giữ 649.324
băng đĩa các loại và 3.885 bản sách. Tổng số tiền xử phạt vi phạm hành chính là hơn 11 tỷ
500 triệu đồng. Trong năm 2013, thanh tra Bộ đã tiến hành xử phạt vi phạm hành chính đối
với chương trình máy tính với số tiền hơn 2 tỷ đồng và yêu cầu ba website tháo gỡ hàng nghìn
bộ phim xâm phạm bản quyền của sáu hãng phim lớn của Mỹ. Thanh tra Bộ cũng đã tiếp nhận
60 đơn khiếu nại có liên quan đến tranh chấp QTG đối với 142 đầu sách của 25 nhà xuất
bản.12

2. Nguyên nhân
Tình trạng xâm phạm QTG do nhiều nguyên nhân, trước hết phải kể đến là ý thức của người
dân trong việc tôn trọng QTG. Hành vi sao chép tác phẩm bất hợp pháp, sử dụng tác phẩm
mà không xin phép, không trả tiền cho tác giả, chủ sở hữu phổ biến đến mức trở thành điều
bình thường. Bên cạnh đó chủ sở hữu QTG cũng chưa thực sự ý thức về việc tự bảo về quyền
và lợi ích hợp pháp của mình. Trong số một trường hợp thì chủ thể quyền không nắm rõ những
quy định của pháp luật nên tạo tâm lý e dè trong việc khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự.
Việc xác định tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp liên quan đến QTG trong nhiều
trường hợp không đơn giản và nhất là hành vi xâm phạm trên môi trường Internet. Tại nhiều
quốc gia thì Tòa án không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đối với hành vi xâm phạm
QTG trong môi trường Internet nếu chủ sở hữu website đặt tại nước ngồi và khơng có chi
nhánh, văn phòng đại diện hay tài sản ở quốc gia sở taij và trong trường hợp này phải khởi
kiện tại tòa án nước ngoài.13 Bên cạnh đó, vấn đề chứng minh hành vi xâm phậm và việc xác
định mức thiệt hại thực tế khi xảy ra tranh chấp về QTG còn gặp nhiều khó khăn vì tính chất
còn trừu tượng đối với loại tài sản này.


Báo cáo của Bộ văn hóa, thể thao và du lịch tại Hội nghị Tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 36/2008/CT_TTg về việc
tang cường quản lí thực thi và bảo hộ QTG, quyền liên quan, tr.9 -10.
13
Lê Thị Nam Giang, tlđd, tr.11.
12

7


3. Kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật
Các hành vi xâm phạm QTG quy định tại Điều 28 Luật SHTT chỉ mang tính chất liệt kê mà
không có sự giải thích cụ thể. Do đó, cần có những quy định mang tính chất giải thích về hành
vi xâm phạm để việc xác định hành vi xâm phạm trên thực tế đơn giản hơn. Ngoài ra cần xây
dựng hệ thống án lệ về QTG để có thể giải quyết hữu hiệu vấn đề trên. Điều này là phù hợp
với nền tư pháp ở các nước phát triển trong việc bảo hộ QTG và Việt Nam là một bộ phận
trong đó.
Cần quy định lỗi là một căn cứ để xác định mức bồi thường do hành vi xâm phạm QTG, áp
dụng cho cả ba căn cứ xác định mức bồi thường theo quy định tại khoản 1 Điều 205 Luật
SHTT, cụ thể bố sung khoản 1a Điều 205 Luật SHTT như sau:
“Ngoài các căn cứ theo khoản 1 Điều này, tòa án xem xét lỗi của bên gây thiệt hại để xác
định mức bồi thường phù hợp, không thấp hơn tổng thiệt hại thực tế của nguyên đơn.”14

Nguyễn Phương Thảo, “Hành vi xâm phạm quyền tác giả theo pháp luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam”, Tạp chí Ḷt học,
số 07/2018, Hà Nợi, tr.83.
14

8



CHƯƠNG 4. ĐÁNH GIÁ VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM
PHÁP LÝ TRONG LUẬT BẢN QUYỀN THÔNG QUA CÁC BIỆN PHÁP
THỰC THI QUYỀN TÁC GIẢ

1. Khái niệm biện pháp thực thi quyền SHTT
Biện pháp thực thi quyền SHTT hay còn gọi là những biện pháp bảo vệ quyền SHTT là
việc các chủ thể quyền thực hiện những phương pháp ngăn chặn và phòng chống những hành
vi xâm phạm SHTT đối với tài sản trí tuệ của mình. Những phương pháp này phải được thực
hiện dựa trên Luật SHTT và những văn bản pháp luật khác có liên quan. Không chỉ ngăn
chặn, phòng chống đối với những hành vi xâm phạm mà các biện pháp này còn là cơ sở để
xử lý một số vấn đề khác như bồi thường thiệt hại, buộc tiêu huỷ,…Việc áp dụng các biện
pháp thực thi quyền SHTT sẽ tùy theo sự lựa chọn của chủ thể quyền nhưng phải phù hợp với
từng trường hợp cụ thể. Về phương thức bảo vệ quyền SHTT thì có 2 phương thức chính như
sau: Quyền tự bảo vệ của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ và Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền
xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
Đối với Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ thì
em sẽ phân tích các biện pháp chính bao gờm:
1.1. Biện pháp hình sự
Đây là điểm còn yếu trong cơ cấu pháp luật về thực thi SHTT. Tồn bợ những nợi dung
liên quan đến thực thi quyền SHTT bằng biện pháp hình sự chỉ được quy định ngắn gọn tại
Điều 212 Luật SHTT như sau: “Cá nhân thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí ṭ có
́u tố cấu thành tợi phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật
hình sự.”15
Quy định này mặc dù ngắn gọn dễ hiểu nhưng trên thực tế lại khó áp dụng, do những quy
định về yếu tố cấu thành tội phạm hình sự trong SHTT. Cụ thể tại Điều 225 và Điều 226 quy
định về tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan và tội xâm phạm quyền SHCN đối với
nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ tại Việt Nam. Đây chính là những quy định
trong Bộ Luật hình sự 2015 liên quan đến SHTT, qua đó có thể thấy pháp luật hình sự vẫn
chưa bao quát hoàn toàn những trường hợp xâm phạm quyền SHTT.
1.2. Biện pháp hành chính

Xử lí xâm phạm quyền SHTT bằng biện pháp hành chính được quy định tại Chương XVII
Luật SHTT, Chương IV Nghị định số 105/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật SHTT về bảo vệ quyền SHTT và quản lí nhà nước
15

Điều 212 Luật SHTT.

9


về SHTT (được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số 119/2010/NĐ-CP) và Nghị định số
131/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về
QTG và quyền liên quan.
Không chỉ có các biện pháp dân sự hay hình sự, biện pháp xử lý hành chính cũng được áp
dụng trong các trường hợp xâm phạm quyền SHTT. Tuỳ thuộc vào mức độ vi phạm mà mức
độ xử phạt hành chính cũng khác nhau, nhẹ thì có thể cảnh cáo hay phạt tiền, nặng thì có thể
bị áp dụng thêm biện pháp tịch thu hàng hoá hay thậm chí là đình chỉ hoạt động kinh doanh
trong lĩnh vực vi phạm.
Các hành vi xâm phạm quyền SHTT bị xử phạt hành chính được quy định tại Điều 211
Luật SHTT. Và song song với đó Luật SHTT cũng quy định những biện pháp hành chính
được áp dụng trong những trường hợp này, cụ thể những biện pháp này được quy định tại
Điều 214 Luật SHTT bao gồm các biện pháp như cảnh cáo, phạt tiền, tịch thu hàng hóa giả
mạo về SHTT, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh
doanh hàng hóa giả mạo về SHTT,.,Và mức phạt, thẩm quyền xử phạt sẽ được thực hiện theo
quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Nếu đã có những biện pháp xử lý hành chính thì không thể không kể đến các biện pháp
ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính được quy định tại Điều 215 Luật SHTT. Qua các
điều khoản có thể thấy mục đích cơ bản của biện pháp này là răn đe, ngăn ngừa và mang tính
chất giáo dục đối với những đối tượng có hành vi xâm phạm quyền SHTT.16
1.3. Biện pháp dân sự

Chủ thể quyền SHTT có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp dân sự để xử lý trong trường
hợp hành vi xâm phạm SHTT gây ra thiệt hại cho chủ thể quyền. Theo đó các cá nhân, tổ
chức thực hiện hành vi xâm phạm sẽ bị cơ quan có thẩm quyền áp dụng xử lý bằng biện pháp
dân sự, kể cả khi chính hành vi đó đã hoặc đang bị xử lý bằng các biện pháp hành chính hoặc
hình sự. Các biện pháp dân sự mà tòa án có thể áp dụng được quy định tại Điều 202 Luật
SHTT, bao gồm các biện pháp như buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc xin lỗi, cải chính
công khai,….
Khi bị xâm phạm quyền SHTT, tác giả, chủ sở hữu của tác phẩm văn học, nghệ thuật,
khoa học có quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 (Điều 35, 36), thẩm quyền giải quyết các tranh chấp SHTT thuộc tòa án
nhân dân cấp huyện và tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Ngoài ra chủ thể quyền cũng có thể yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong một số trường hợp nhất định. Quy định về quyền yêu cầu, nghĩa vụ và các biện pháp áp
Ngoài Luật SHTT, các quy định liên quan đến biện pháp xử lý hành chính trong thực thi quyền SHTT còn có thể được
tìm thấy tại một số văn bản pháp luật khác như Nghị định số 99/2013/NĐ-CP, Nghị định số 131/2013/NĐ-CP,..
16

10


dụng liên quan đến biện pháp khẩn cấp tạm thời được nêu rõ tại Điều 206, 207 và 208 Luật
SHTT.
Ưu điểm việc áp dụng biện pháp dân sự trong thực thi quyền SHTT là chủ thể quyền có
quyền yêu cầu bên xâm phạm quyền phải bồi thường thiệt hại và ngồi ra thì hoạt đợng điều
tra, xác minh, thu thập chứng cứ của tòa án trong thời hạn tố tụng theo quy định pháp luật
giúp xác định khách quan, chính xác hành vi xâm phạm quyền.17
2. Thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xun Thái
Bình Dương (CPTPP)
CPTPP là mợt hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, gồm 11 nước thành viên và có hiệu
lực đối với Việt Nam từ ngày 14/1/2019. Trong CPTPP, nội dung thực thi quyền SHTT được

quy định tại Chương 18, từ Điều 18.71 đến Điều 18.82.
2.1. Nguyên tắc, yêu cầu hoạt động thực thi quyền SHTT
Theo Điều 18.71 của Hiệp định CPTPP, hoạt động thực thi quyền SHTT được thực hiện
trên cơ sở các nguyên tắc, yêu cầu sau đây:
Thứ nhất, phải thiết lập hệ thống pháp luật về các biện pháp xử lý các hành vi vi phạm
SHTT;
Thứ hai, phải đảm bảo triển khai các biện pháp thực thi một cách công bằng, thủ tục đơn
giản, nhanh chóng, ít tốn kém, khơng tạo ra rào cản đối với thương mại và có cách thức để
hạn chế lạm dụng;
Thứ ba, công khai, minh bạch cũng là nguyên tắc đòi hỏi các quốc gia thành viên phải
tuân thủ;
Cuối cùng, các phán quyết, quyết định thực thi về SHTT có giá trị áp dụng chung phải
được lập bằng văn bản, nêu rõ các căn cứ thực tế và lập luận pháp lý, và phải được công khai
cho công chúng.
2.1.1. Về biện pháp hình sự
CPTPP được cho là Hiệp định thương mại tự do bao gồm những quy định khắt khe nhất
về thực thi quyền SHTT bằng biện pháp hình sự khi quy định biện pháp này từ Điều 18.77
đến Điều 18.79. Cụ thể là mỗi quốc gia phải quy định các thủ tục và hình phạt để áp dụng ít
nhất trong các trường hợp cố ý giả mạo nhãn hiệu hoặc sao lậu quyền tác giả và quyền liên
quan ở quy mô thương mại.
Hiệp định cũng bao gồm quy định về “quy mô thương mại” làm căn cứ xác định hành vi
cố ý sao lậu quyền tác giả hoặc quyền liên quan tại khoản 1 Điều 18.77. Nội dung của quy

17

Đại học Luật Hà Nội (2021), Giáo trình Ḷt sở hữu trí ṭ, Nxb. Cơng an Nhân dân, Hà Nội tr.388-389

11



mô thương mại ít nhất bao gồm:
(a) Các hành vi thực hiện để đạt được lợi thế thương mại hoặc thu lợi tài chính;
(b) Các hành vi, không phải thực hiện để đạt được lợi thế thương mại hoặc thu lợi tài
chính, nhưng có gây hại một cách đáng kể tới lợi ích của chủ thể quyền tác giả hoặc quyền
liên quan liên quan đến thị trường.
Ngoài ra, biện pháp hình sự không chỉ áp dụng đối với hành vi vi phạm trực tiếp (như sản
xuất hàng giả, công bố tác phẩm khi chưa được phép của tác giả...) mà còn đối với những
hành vi liên quan, thúc đẩy vi phạm (như hành vi nhập khẩu, xuất khẩu, phân phối, quảng
cáo, bán... các sản phẩm vi phạm SHTT). Bên cạnh đó, không chỉ các hành vi xâm phạm
quyền SHTT nghiêm trọng, cố ý, ở quy mô thương mại hoặc nhằm mục đích thu lợi nhuận
mới bị xử lý hình sự mà trong một số trường hợp, Hiệp định CPTPP còn đòi hỏi các nước
phải xử lý hình sự cả những hành vi vi phạm khơng vì lợi ích thương mại nhưng gây thiệt hại
nghiêm trọng đến lợi ích của chủ thể quyền.
Hiệp định đặt ra một số yêu cầu cho phép xử lý hình sự kịp thời và triệt để đối với hành
vi xâm phạm quyền SHTT. Ví dụ: (i) Xử lý mặc nhiên: truy cứu trách nhiệm hình sự không
cần yêu cầu của người bị hại; (ii) Xử lý tang vật: CPTPP yêu cầu rất chi tiết về việc xử lý
hàng hóa xâm phạm quyền SHTT, nguyên liệu, phương tiện đã dùng chủ yếu để sản xuất hàng
hóa xâm phạm quyền SHTT, tài sản có được do xâm phạm quyền SHTT (trong đó, đáng kể
là các biện pháp tịch thu, tiêu hủy). Đồng thời, Hiệp định quy định về xử lý hình sự đối với
các hành vi “sao chép phim được chiếu trong rạp”18, “xâm phạm bí mật thương mại”19 và
“bảo hộ tín hiệu cáp và tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá”20.
Như vậy, đối chiếu với Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 thì mới chỉ có Điều
225 và Điều 226 quy định về tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan và Tội xâm phạm
quyền sở hữu công nghiệp với rất ít loại hành vi và chưa có quy định cụ thể về hành vi nhập
khẩu, xuất khẩu hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc hàng sao lậu quyền tác giả. Mà đặc biệt là
các hành vi trước đây nhiều người Việt coi là “nhỏ” như quay phim trong rạp mà gây thiệt
hại cho chủ thể quyền hay nghiêm trọng hơn như xâm phạm bí mật thương mại trên mạng
máy tính, cố ý chiếm đoạt trái phép bí mật thương mại, cố ý tiết lộ trái phép bí mật thương
mại hoặc tiết lộ bí mật thương mại mang tính chất gian dối hoặc chỉ nhập khẩu hoặc sử dụng
tem nhãn và bao bì giả mạo nhãn hiệu (chứ không phải sản phẩm giả mạo)… trong Hiệp định

CPTPP cũng có thể bị xử lý hình sự thì ở Việt Nam vẫn chưa quy định được. Ngoài ra, đối
với các hành vi xâm phạm trực tiếp Hiệp định CPTPP cũng yêu cầu phải có chế tài hình sự

khoản 4 Điều 18.77 Hiệp định CPTPP.
Điều 18.78 Hiệp định CPTPP.
20
Điều 18.79 Hiệp định CPTPP.
18
19

12


đối với việc giúp sức hoặc xúi giục thực hiện hành vi xâm phạm. Do đó, Bộ luật hình sự cần
được sửa đổi, bổ sung để hình sự hóa các loại hành vi xâm phạm theo quy định của Hiệp định
CPTPP.
2.1.2. Về biện pháp hành chính
Biện pháp hành chính bao gồm biện pháp hành chính thông thường và biện pháp hành
chính đặc thù (biện pháp kiểm soát biên giới).
Mặc dù biện pháp hành chính được ghi nhận trong Hiệp định, nhưng không có cam kết cụ
thể của các quốc gia về biện pháp thực thi quyền SHTT này.
CPTPP chỉ quy định một số các nguyên tắc cụ thể liên quan tới thủ tục tố tụng hành chính
hoặc tư pháp để bảo vệ quyền SHTT. Ví dụ:
- Chủ sở hữu quyền phải được phép kiện ra Tòa để yêu cầu thi hành các quyền SHTT;
- Các Tòa án phải có quyền yêu cầu chủ thể bị cáo buộc vi phạm phải cung cấp thông
tin/bằng chứng vi phạm mà họ đang kiểm soát cho chủ thể quyền hoặc Tòa án; quyền ban
hành các lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để ngăn chặn hàng hóa Trung tâm WTO
và Hội nhập – VCCI (www.trungtamwto.vn) vi phạm SHTT đưa vào lưu thông thương mại
và quyết định buộc bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu…;
- Phải có những quy định cụ thể liên quan tới việc bồi thường thiệt hại cho chủ sở thể

quyền (cách thức xác định các mức bồi thường, các hình thức bồi thường có thể áp dụng…);
- Phải tuân thủ một số quy tắc tố tụng dân sự/hành chính riêng đối với nhãn hiệu thương
mại, quyền tác giả và các quyền liên quan, ví dụ: quy tắc suy đoán về quyền (người có tên
trên sản phẩm được suy đoán là chủ sở hữu quyền tác giả và quyền liên quan; nhãn hiệu
thương mại đã đăng ký được suy đoán là có giá trị pháp lý…); quy tắc về tính toán mức thiệt
hại phải bồi thường (trong đó đáng chú ý là mức bồi thường phải bao gồm cả lợi nhuận mà
bên vi phạm thu được từ việc vi phạm); quy tắc bắt buộc tiêu hủy sản phẩm vi phạm mà không
có bồi thường nếu chủ sở hữu quyền có yêu cầu….
Và hiện nay, Việt Nam xử lý các vụ việc về xâm phạm quyền SHTT vẫn chủ yếu thông
qua biện pháp hành chính mà chưa có các chế tài xử phạt đủ sức răn đe đối với đối tượng vi
phạm. Bên cạnh đó, hiệp định CPTPP đã yêu cầu các nước thành viên phải quy định chế tài
hình sự đối với một số hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Cho nên, xét về lâu dài, giải
quyết các hành vi xâm phạm quyền SHTT bằng biện pháp dân sự cần được đẩy mạnh hơn
nữa. Và Việt Nam cần xem xét, sửa đổi, bổ sung để biện pháp hành chính phát huy được hiệu
quả đối với các hành vi vi phạm cũng như kết hợp với các biện pháp dân sự, hình sự đảm bảo
tính răn đe và phù hợp với các quy định trong hiệp định.

13


2.1.3. Về biện pháp thực thi dân sự
Quy định tại Điều 18.74 và Điều 18.75 Hiệp định CPTPP dành nhiều quy định cho vấn đề
bồi thường thiệt hại và biện pháp khẩn cấp tạm thời trong thủ tục tố tụng dân sự.
Về bồi thường thiệt hại, các nước thành viên cam kết quy định mức bồi thường nhằm bù
đắp thiệt hại mà chủ thể quyền phải gánh chịu và có tính răn đe. Thiệt hại được tính toán bao
gồm: lợi nhuận chủ thể quyền bị mất do bị xâm phạm quyền; giá trị hàng hóa, dịch vụ bị xâm
phạm theo giá thị trường hoặc theo giá bán lẻ được đề xuất; lợi nhuận người xâm phạm thu
được; phí tòa án; phí luật sư; phí thuê chuyên gia. Theo đó, nhằm hạn chế lạm dụng quyền
SHTT, Hiệp định cũng quy định nghĩa vụ bồi thường thiệt hại trong trường hợp lạm dụng thủ
tục thực thi quyền SHTT tại Điều 18.75.15.

Trong pháp luật Việt Nam hiện nay, quy định tại Điều 198, 205, 206, 207 Luật sở hữu trí
tuệ thì về cơ bản Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam cũng đã đáp ứng được những yêu cầu cam kết
căn cứ xác định mức bồi thường thiệt do xâm phạm quyền SHTT và biện pháp khẩn cấp tạm
thời theo yêu cầu của Hiệp định CPTPP. Cụ thể:
Thứ nhất, quy định tại khoản 1 Điều 205 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung
năm 2009 của Việt Nam chỉ quy định hai căn cứ để tòa án quyết định mức bồi thường thiệt
hại nhưng đến Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung năm 2019 đã khắc phục điểm chưa tương
thích này bằng việc bổ sung một căn cứ nữa là “thiệt hại vật chất theo các cách tính khác do
chủ thể quyền sở hữu trí tuệ đưa ra phù hợp với quy định của pháp luật” để phù hợp với quy
định của hiệp định CPTPP.
Thứ hai, quy định tại khoản 3 Điều 205 là chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền yêu cầu
Tòa án buộc tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải thanh toán chi
phí hợp lý để thuê luật sư, chứ chưa có quy định ngược lại đối với bên bị đơn Tòa án xác định
là không xâm phạm. Để thực thi nghĩa vụ tại Điều 18.74.10, Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ
sung năm 2019 đã bổ sung khoản 4 Điều 198 như sau: “Tổ chức, cá nhân là bị đơn trong vụ
kiện xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nếu được Tòa án kết ḷn là khơng thực hiện hành vi
xâm phạm có quyền u cầu Tòa án ḅc ngun đơn thanh tốn cho mình chi phí hợp lý để
thuê luật sư hoặc các chi phí khác theo quy định của pháp luật.” Song, quy định được bổ sung
này còn vượt quá yêu cầu của Điều 18.74.10 khi áp dụng cho tất cả các vụ kiện xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ, trong khi CPTPP chỉ yêu cầu áp dụng cho các vụ kiện về xâm phạm
quyền tác giả hoặc các quyền liên quan, sáng chế và nhãn hiệu và chỉ trong những trường hợp
cần thiết hay thích hợp.
Cuối cùng, để thực thi nghĩa vụ tại Điều 18.74.15, Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung
năm 2019 đã bổ sung khoản 5 Điều 198 như sau: “Tổ chức, cá nhân lạm dụng thủ tục bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ mà gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân khác thì tổ chức, cá nhân bị thiệt

14




×