Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Những cơ hội và thách thức đối với sự phát triển quan hệ thương mại quốc tế của Việt Nam sau khi gia nhập WTO và giải pháp khai thác cơ hội, vượt qua thách thức"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.33 KB, 49 trang )

Đề án mơn học

Lời nói đầu
Trong điều kiện hiện nay, khi Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới WTO, thì việc ngày càng mở rộng quan hệ thương
mại với các nước trên thế giới là điều tất yếu. Điều này đòi hỏi nhà nước ta
phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật kinh tế, trong đó có
pháp luật về Trọng tài thương mại (TTTM), để đảm bảo sự tương thích của
nó với Pháp luật quốc tế.
Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 (PLTTTM 2003) được xây dựng
trên cơ sở pháp điển hóa các văn bản pháp luật về TT ở Việt Nam, đã khắc
phục được những bất cập của các văn bản pháp luật về TT trước đó. Tuy
nhiên qua một thời gian thi hành, nó vẫn chưa phát huy được đầy đủ vai trị
của mình trong đời sống kinh tế xã hội, do nhiều nguyên nhân khác nhau.
PLTTTM 2003- nguồn pháp luật chủ yếu của pháp luật về TTTM đã bộc lộ
khơng ít hạn chế, bất cập, làm ảnh hưởng đến hoạt động của TTTM ở nước
ta thời gian qua.
Trong khi đó, thực tiễn của hoạt động kinh doanh thương mại trong
nền kinh tế thị trường tất yếu dẫn đến việc tranh chấp phát sinh ngày càng
nhiều về số lượng, lớn về quy mô, đa dạng về nội dung và phức tạp về tính
chất. Và việc nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về TTTM và thực
tiễn pháp luật TTTM, phát hiện ra những bất cập trong quy định của pháp
luật để từ đó đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật TTTM
là vấn đề hết sức cần thiết hiện nay.
Nhằm đạt được những mục đích trên, em chọn đề tài: “Những bất cập
của pháp luật về TTTM hiện nay và kiến nghị”.

Lê Thị Như Trang

Luật 47



Đề án môn học

Nội dung
Chương I: Chế độ pháp lý hiện hành của pháp luật về
TTTM
I. Khái niệm Trọng tài
1. Khái niệm Trọng tài
a. Lịch sử hình thành và phát triển của Trọng tài
Trên thế giới, phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài (TT)
đã xuất hiện từ rất lâu trong đời sống xã hội, nhất là ở những nước có nền
kinh tế phát triển. Từ thế kỷ VII trước công nguyên, người Hy Lạp cổ đại
đã biết sử dụng TT như một phương thức giải quyết các tranh chấp phát
sinh. Theo đó, nếu hai bên có tranh chấp và định chọn người xét xử thì họ
có quyền chỉ định người mà họ muốn để làm việc này. Họ phải tơn trọng ý
kiến của người đó và khơng được thưa kiện trước Tòa án (TA). Phải đến
khi kinh tế hàng hóa phát triển, hình thành nền kinh tế thị trường thúc đẩy
các hoạt động thương mại phát triển thì khi đó, TTTM mới thật sự ra đời.
Thời kỳ đầu, TTTM chủ yếu tồn tại dưới hình thức TT vụ việc. Về
sau, khi thương mại phát triển mạnh mẽ thì TT thường trực mới xuất hiện,
và ngày càng phổ biến hơn. Quá trình đi từ TT vụ việc đến TT thường trực
là q trình bổ sung, hồn thiện các hình thức tổ chức của TT.
Các Trung tâm Trọng tài (TrTTT), với tư cách là một tổ chức thường
trực xuất hiện đầu tiên phải kể đến là: TA TT Quốc tế London (LCIA)
thành lập năm 1892, TA TT thường trực Quốc Tế (PCA) thành lập năm
1899, TA TT Quốc tế của Phòng thương mại quốc tế (ICC) thành lập năm
1923… Ở khu vực Châu Á, các TrTTT xuất hiện muộn hơn: TrTTT
Kualalumpur thành lập năm 1978, TrTTT Quốc tế Hồng Kông (HKIAC)
thành lập năm 1985; TrTTT Quốc tế Singapore thành lập năm 1990…
Ở Việt Nam, TT ra đời khá muộn. Vào những năm 1960, TT ở Việt


Lê Thị Như Trang

Luật 47


Đề án môn học

Nam ra đời và chia làm 2 loại, TT giải quyết tranh chấp trong nước và TT
giải quyết tranh chấp quốc tế. Trong 2 loại này thì TT Kinh tế Nhà nước là
một cơ quan Nhà nước được giao nhiệm vụ giải quyết các tranh chấp kinh
tế. Bởi vậy, về bản chất, nó khơng phải là TTTM theo đúng nghĩa.
Đến tháng 7/1994, TT Kinh tế Nhà nước giải thể, nhường chỗ cho sự
ra đời của TT phi chính phủ, được đánh dấu bởi Nghị định 116/CP ngày
05/09/1994. Từ đó, TT Kinh tế đã bước đầu đáp ứng được yêu cầu của các
doanh nghiệp về một cơ quan giải quyết tranh chấp linh hoạt, thuận tiện,
giữ được bí mật kinh doanh. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của NĐ 116 là
chưa quy định về hình thức TT vụ việc và tính được đảm bảo thi hành bằng
cưỡng chế Nhà nước đối với quyết định TT. Đây là nguyên nhân chủ yếu
dẫn đến trong khoảng 10 năm (1994- 2003), ở Việt Nam chỉ có 5 TrTTT
Kinh tế được thành lập, và bản thân các Trung tâm này cũng chỉ hoạt động
cầm chừng.
Từ năm 2003, với sự ra đời của PLTTTM 2003, các TrTTT Kinh tế đã
có cơ sở pháp lý cao hơn để tổ chức và hoạt động nhằm từng bước đáp ứng
yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra đối với lĩnh vực giải quyết tranh
chấp thương mại.
b. Khái niệm Trọng tài- Trọng tài thương mại
Khái niệm TT, ta có thể hiểu là tài phán trung lập, chỉ người thứ ba
được cử ra làm trung gian để phân xử sự bất đồng giữa hai bên. Với ý
nghĩa này, TT đã xuất hiện từ rất lâu, có vai trị giải quyết các tranh chấp

theo u cầu của các bên.
Trong khoa học pháp lý, TT được nghiên cứu dưới những góc độ khác
nhau, nhưng chủ yếu là ở 2 phương diện: là một phương thức, và là một
thiết chế để giải quyết tranh chấp. Nếu như quan điểm coi TT là một thiết
chế để giải quyết tranh chấp gần như thiên về mặt hình thức nhiều hơn,
nhìn nhận sự tồn tại thực tế của tổ chức TT dưới dạng các TrTTT- cơ quan
tài phán độc lập, tồn tại song song với TA; thì quan điểm coi TT là một
Lê Thị Như Trang

Luật 47


Đề án môn học

phương thức để giải quyết tranh chấp lại thiên về mặt bản chất nhiều hơn,
khái quát được các đặc trưng của TT khác với các hình thức giải quyết
tranh chấp khác.
Nhưng dù nhìn TT dưới góc độ nào thì tất cả đều có một điểm chung,
TT là một công cụ mà người ta sử dụng để giải quyết các tranh chấp theo
thủ tục đặc trưng của nó: do các bên thỏa thuận, vai trò trung lập, đưa ra
các quyết định có giá trị bắt buộc các bên phải thi hành… Những đặc trưng
này thể hiện bản chất của TT là một phương thức tài phán tư, kết hợp được
hai mặt: thỏa thuận và tài phán.
Theo sự phát triển của lịch sử nhân loại, khi kinh tế thị trường với
những quy luật cơ bản của mình thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của các
hoạt động kinh tế nói chung, và hoạt động thương mại nói riêng, thì TT chủ
yếu được sử dụng để giải quyết các tranh chấp thương mại. Trong lĩnh vực
này, nó tỏ ra phủ hợp và có ưu thế hơn so với các phương thức giải quyết
tranh chấp khác. Phạm vi các vụ việc tranh chấp được giải quyết bằng
TTTM rộng hay hẹp tùy vào quy định của pháp luật của mỗi quốc gia,

trong đó quan niệm về “thương mại” có vai trị rất quan trọng.
Trên thế giới, pháp luật của hầu hết các nước đều quan niệm “thương
mại” theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các hoạt động của thương nhân liên
quan đến các mối quan hệ có bản chất thương mại.
Trong phần chú thích của Điều 1 Luật Mẫu về TTTM Quốc tế năm
1985 của UNCITRAL có quy định: “Khái niệm Thương mại cần phải được
giải thích theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các vấn đề phát sinh từ tất cả các
quan hệ có bản chất thương mại, dù có hợp đồng hay khơng có hợp đồng.
Quan hệ có bản chất thương mại bao hàm nhưng không chỉ giới hạn đối với
các giao dịch sau đây: Bất kỳ giao dịch buôn bán nào nhằm cung cấp hoặc
trao đổi hàng hóa hay dịch vụ, hợp đồng phân phối, đại diện thương mại
hoặc đại lý, các cơng việc sản xuất, th máy móc thiết bị, xây dựng, tư vấn
thiết kế cơ khí, li- xăng, đầu tư, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, các hợp
Lê Thị Như Trang

Luật 47


Đề án môn học

đồng khai thác hoặc chuyển nhượng, liên doanh và các hình thức khác của
hợp tác cơng nghiệp hoặc kinh doanh, vận tải hàng hóa hoặc hành khách
bằng đường không, đường biển, đường sắt hay đường bộ”.
Pháp luật Việt Nam định nghĩa khái niệm “hoạt động thương mại”
trong PLTTTM 2003 và theo Luật Thương mại 2005.
Theo Điều 2.3 PLTTTM 2003, “hoạt động thương mại là việc thực
hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao
gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý
thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li
- xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng bảo hiểm; thăm dị, khai thác; vận

chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường
sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật”.
Có thể thấy, khái niệm hoạt động thương mại trong PL được hiểu theo
nghĩa rất rộng, bao gồm hầu như toàn bộ các lĩnh vực hoạt động của
thương nhân, từ suản xuất đến lưu thông phân phối, từ sản xuất hàng hóa
đến cung cấp dịch vụ, từ hoạt động kinh doanh thơng thường đến hoạt động
kinh doanh có tính chất đặc thù. Về cơ bản, thuật ngữ “hoạt động thương
mại” trong PL của Nhà nước ta có nội hàm tương tự như khái niệm
“thương mại” trong Luật Mẫu của UNCITRAL về TTTM.
Theo Điều 3.1 Luật Thương mại 2005 đưa ra định nghĩa “Hoạt động
thương mại” với nội hàm như khái niệm nêu trong PLTTTM 2003, nhưng
nội dung ngắn gọn hơn, và thể hiện rõ hơn bản chất của thương mại: “Hoạt
động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán
hàng hố, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi khác”.
Như vậy, có thể nói, khái niệm “hoạt động thương mại” được quy
định trong PLTTTM và Luật Thương mại đã tiếp cận được với pháp luật
Quốc tế và pháp luật các nước trên thế giới, cho phép mở rộng phạm vi các
tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của TTTM ở nước ta.
Lê Thị Như Trang

Luật 47


Đề án môn học

2. Những ưu điểm khi giải quyết tranh chấp thương mại thơng qua con
đường Trọng tài
Các hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực thương
mại được các thương nhân sử dụng là: thương lượng, hịa giải, TT, TA.

Trong đó, chỉ có hai hình thức giải quyết mang tính tài phán là TT và TA.
So với các hình thức giải quyết tranh chấp khác như thương lượng, hịa
giải, TA, TTTM có nhiều ưu thế.
Thứ nhất là tính bí mật. Điều này đảm bảo bí mật kinh doanh và uy
tín nghề nghiệp của các bên tham gia tranh chấp. TT là một quá trình giải
quyết tranh chấp có tính riêng biệt, áp dụng ngun tắc xét xử bí mật. Phiên
họp của HĐTT chỉ có mặt các bên tranh chấp, ngồi ra khơng ai có quyền
tham dự nếu các bên không đồng ý. TTV không được tiết lộ những điều
mình biết về nội dung vụ tranh chấp; phán quyết của TT chỉ được phép
công bố rộng rãi khi có sự đồng ý của các bên. Đây là đặc điểm thể hiện
bản chất của TT, khác với việc giải quyết tranh chấp tại TA, nơi mà việc
xét xử cơng khai trở thành ngun tắc. Chính sự khác biệt này tạo nên ưu
thế của TTTM đối với các nhà kinh doanh. Trong kinh doanh, không ai
muốn tranh chấp xảy ra- nhưng khi đã có tranh chấp thì tâm lý chung là họ
không muốn cho người khác biết, đặc biệt là nội dung tình tiết cụ thể của
vụ việc. Tính bí mật của TT đáp ứng được nhu cầu này của các doanh
nghiệp, bảo vệ uy tín nghề nghiệp và bí mật kinh doanh.
Thứ hai, phán quyết của TT mang tính chung thẩm được thi hành
ngay, thủ tục giải quyết đơn giản, tiết kiệm được thời gian của các bên
tranh chấp. TT chỉ giải quyết 1 cấp, phán quyết của TT có hiệu lực thi hành
ngay, các bên khơng có quyền kháng cáo lên bất kỳ một cơ quan hay tổ
chức nào (trừ khi có sự vi phạm về tố tụng). Điều này khơng thể có nếu vụ
tranh chấp được đưa ra giải quyết tại TA, nơi mọi thủ tục tố tụng quy định
là 2 cấp xét xử, ngoài ra còn Giám đốc thẩm, Tái thẩm, dẫn đến các bên
phải mất nhiều thời gian, tốn kém tiền bạc vì phải theo đuổi vụ kiện kéo dài
Lê Thị Như Trang

Luật 47



Đề án môn học

từ cấp này sang cấp khác. Trong khi đó, doanh nghiệp khi có tranh chấp
xảy ra, yêu cầu của họ là phải được giải quyết nhanh chóng, bởi nếu quá
tập trung vào việc giải quyết tranh chấp, các bên có thể phải bỏ lỡ cơ hội
kinh doanh mà giá trị của nó có thể cịn lớn hơn giá trị đang tranh chấp.
Hơn nữa, việc giải quyết tranh chấp khơng nhanh chóng có thể gây tâm lý
căng thẳng kéo dài cho các nhà kinh doanh, ảnh hưởng xấu đến quan hệ
kinh doanh.
Thứ ba, việc giải quyết tranh chấp bằng con đường TT tạo ra khả
năng tiếp tục duy trì được quan hệ hợp tác vốn có giữa các bên. TTV với tư
cách là người thứ ba, bằng những hình thức phù hợp, tìm giải pháp tốt nhất
cho vụ tranh chấp, tạo khơng khí thân thiện, mở ra cơ hội tiếp tục duy trì sự
hợp tác làm ăn giữa các bên sau khi giải quyết tranh chấp. Xét về mặt tâm
lý, việc giải quyết tranh chấp kín đáo, khơng ồn ào của TT, làm bên vi
phạm dễ nhận lỗi về mình hơn, bên có quyền lợi bị xâm phạm dễ thông
cảm với bên kia hơn, tránh cho các bên có nguy cơ làm tổn thương đến
quan hệ hợp tác. Trong khi đó, việc xét xử cơng khai tại TA thường dễ làm
cho các bên luôn bị chi phối bởi sự thắng thua mà rơi vào tình thế đối địch
nhau.
Thứ tư, TT giải quyết đảm bảo tính chính xác cao, nhất là những vụ
việc có nội dung tranh chấp từ những vấn đề mang tính chun sâu. Vì các
bên được quyền chỉ định TTV nên có điều kiện lựa chọn TTV có kinh
nghiệm, kiến thức chun mơn cao và đạo đức để giải quyết tranh chấp.
Trong khi đó, thẩm phán do Chánh án chỉ định, các bên khơng có quyền
lựa chọn.
Thứ năm, TT giải quyết có tính linh hoạt, bảo đảm quyền tự định đoạt
của các bên. TA giải quyết tranh chấp nhân danh quyền lực Nhà nước, nên
khi thực thi quyền lực đó, Thẩm phán phải tuân thủ triệt để các quy tắc tố
tụng do Nhà nước quy định. Ngược lại, TT giải quyết tranh chấp trên cơ sở

của quyền lực do các bên giao, vì vậy tính linh hoạt của hoạt động kinh
Lê Thị Như Trang

Luật 47


Đề án môn học

doanh cũng được áp dụng trong tố tụng TT, nhằm đảm bảo tối đa quyền
định đoạt của các bên. Việc giành cho các bên quyền định đoạt về nhiều
vấn đề trong quá trình giải quyết tranh chấp là hoàn toàn phù hợp với hoạt
động kinh doanh vốn linh hoạt và đầy nhạy cảm. Có thể nói, đây là ưu thế
nổi trội của TT so với TA trong việc giải quyết các tranh chấp trong kinh
doanh- thương mại.
Thứ sáu, TT không đại diện cho quyền lực tư pháp của Nhà nước nên
phù hợp đê giải quyết tranh chấp mà các bên có quốc tịch khác nhau. Trong
trường hợp các bên trong quan hệ tranh chấp có quốc tịch khác nhau, thực
tế cho thấy, không bên nào muốn đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại TA
quốc gia ở phía bên kia. Lý do trước hết xuất phát từ bản chất quyền lực
TA là quyền lực tư pháp của nhà nước. Với yêu cầu về tính khách quan,
việc giải quyết tranh chấp bằng con đường TT có ưu thế hơn so với TA
trong trường hợp này. Hơn nữa, khi các bên có quốc tịch khác nhau, thì với
việc giải quyết tranh chấp bằng TT, họ có thể lựa chọn TTV của nước thứ
ba, lựa chọn ngôn ngữ và thủ tục thích hợp.
Thứ bảy, Phán quyết của TT được cơng nhận và thi hành ở cả nước
ngoài. Về nguyên tắc, phán quyết của TT chỉ có hiệu lực pháp lý trong
phạm vi lãnh thổ của nước có tổ chức TT đó. Tuy nhiên, nếu các bên có
quốc tịch của nước là thành viên của Công ước New- York năm 1958 về
công nhận và cho thi hành án các quyết định của TT nước ngồi thì phán
quyết TT sẽ được cơng nhận và thi hành theo quy định của Công ước; và

các quy định của TT nước ngồi được cơng nhận và thi hành ở nước thứ ba
là thành viên của Cơng ước.
Tóm lại, TTTM với những ưu thế xuất phát từ bản chất của mình,
đang ngày càng khẳng định được vị trí, vai trị của mình. Trong điều kiện
hiện nay, khi Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ làm ăn với các nước
trên thế giới, là thành viên WTO, một sân chơi mà vấn đề tranh chấp
thương mại diễn ra thường xuyên và ngày càng phức tạp, thì ngay từ lúc
Lê Thị Như Trang

Luật 47


Đề án môn học

này, các doanh nghiệp Việt Nam cần có một cái nhìn nghiêm túc về những
ưu thế của TT.
II. Nội dung của pháp luật về Trọng tài thương mại hiện hành
PLTTTM 2003 được Ủy ban Thường cụ Quốc hội thơng qua ngày
25/02/2003, có hiệu lực từ 01/07/2003.
Ngày 31/07/2003, Hội Đồng Thẩm phán TAND tối cao ban hành Nghị
quyết 05/2003/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định của
PLTTTM 2003 .
Ngày 15/01/2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 25/2004/ NĐ-CP
quy định chi tiết thi hành một số điều của PLTTTM 2003.
Những quy đinh trong các văn bản nêu trên là cơ sở pháp lý chủ yếu
cho hoạt động TTTM ở Việt nam. Bên cạnh đó, Bộ luật tố tụng Dân sự, các
văn bản Pháp luật về kinh doanh thương mại, về Thi hành án cũng có quy
định liên quan đến TTTM.
1. Các quy định về thoả thuận Trọng tài
Thỏa thuận Trọng tài (ThTT) là sự nhất trí của các bên về việc đưa ra

TT giải quyết tranh chấp đã hoặc sẽ phát sinh, Đây là vấn đề then chốt
trong việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng con đường TT, bởi, nếu
khơng có ThTTT thì các bên khơng thể đưa tranh chấp ra giải quyết tại
TTTM.
Điều 2.2 PLTTTM 2003 định nghĩa: “ThTTT là thỏa thuận giữa các
bên cam kết giải quyết bằng TT các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã
phát sinh trong hoạt động thương mại”. ThTTT được coi là một nguyên tắc
nền tảng cho việc giải quyết tranh chấp bằng TT, thể hiện tại Điều 3.1 của
PL: “Tranh chấp được giải quyết bằng TT nếu trước hoặc sau khi xảy ra
tranh chấp các bên có ThTTT”.
Bản chất của thỏa thuận là sự thống nhất ý chí của các bên; ý chí này
phải hồn tồn tự nguyện, minh bạch, không bên nào bị lừa dỗi hoặc bị đe
dọa. Nội dung của ThTTT là việc các bên giao cho TT quyền giải quyết vụ
Lê Thị Như Trang

Luật 47


Đề án môn học

tranh chấp, mặc nhiên thừa nhận TT có quyền đưa ra phán quyết chung
thẩm bắt buộc các bên phải thi hành. Do đó, khi một ThTTT có hiệu lực thì
TA khơng có thẩm quyền đối với việc giải quyết tranh chấp, và ThTTT có
tác dụng rang buộc các bên, khơng bên nào được thối thác việc giải quyết
tranh chấp bằng TT.
Điều 9 PLTTTM 2003 quy định về hình thức của ThTTT:
“1. ThTTT phải được lập bằng văn bản. ThTTT thông qua thư, điện
báo, telex, fax, thư điện tử hoặc hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chỉ của
các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng TT được coi là ThTTT bằng văn bản;
2. ThTTT có thể là điều khoản TT trong hợp đồng hoặc là một thỏa

thuận riêng”
Tại thời điểm ThTTT được xác lập, tranh chấp có thể phát sinh hoặc
chưa phát sinh. Do đó, ThTTT có thể là Điều khoản TT (đối với tranh chấp
chưa phát sinh) hoặc thỏa ước TT (đối với tranh chấp đã phát sinh). ThTTT
độc lập với hợp đồng.
Về hiệu lực, theo quy định tại Điều 10.1 của PLTTTM, ThTTT sẽ vô
hiệu nếu tranh chấp không thuộc hoạt động thương mại được quy định tại
Đ2.3 của Pháp lệnh (PL). Ngoài ra, theo Nghị Định số 25/2004/NĐ-CP,
ngoài việc xác định rõ những tranh chấp có thể giải quyết bằng TT là
những tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, còn quy định chi
tiết thêm về mặt chủ thể: “ TTTM có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát
sinh trong hoạt động thương mại quy đinh tại Khoản 2 Điều 3 của PL mà
các bên tranh chấp là các nhân kinh doanh hoặc tổ chức kinh doanh” (Điều
2.1 NĐ 25).
Các trường hợp ThTTT vơ hiệu ngồi việc được đề cập ở phần hiệu
lực cảu ThTTT như trên, còn một số các trường hợp khác. Theo Điều 10
của PL, có 6 trường hợp như sau:
1. Tranh chấp phát sinh không thuộc hoạt động thương mại được quy
định tại khoản 3 Điều 2 của PL này;
Lê Thị Như Trang

Luật 47


Đề án mơn học

2. Người ký ThTTT khơng có thẩm quyền ký kết theo quy định của pháp
luật;
3. Một bên ký kết ThTTT khơng có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
4. ThTTT không quy định hoặc quy định khơng rõ đối tượng tranh

chấp, tổ chức trọng tai có thẩm giải quyết vụ tranh chấp mà sau đó các bên
khơng có thỏa thuận bổ sung;
5. ThTTT khơng được lập theo quy định tại Điều 9 của PL này;
6. Bên ký kết ThTTT bị lừa dối, bị đe dọa và có u cầu tun bố
ThTTT vơ hiệu; thời hiệu u cầu tuyên bố ThTTT vô hiệu là sáu tháng, kể
từ ngày ký kết ThTTT, nhưng phải trước ngày HĐTT mở phiên họp đầu tiên
giải quyết vụ tranh chấp quy định tại Điều 30 của PL này.
Đây là những căn cứ để TA xem xét quyết định của TT có hợp pháp
hay khơng, khi có đơn u cầu hủy quyết định TT.
ThTTT dù là một điều khoản trong hợp đồng (điều khoản TT) hay là
một thỏa thuận riêng (thỏa ước TT) thì nó vẫn ln tồn tại độc lập với hợp
đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng
không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của điều khoản TT (theo Điều 11 PL).
Tính độc lập tương đối này của ThTTT có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là
khi hợp đồng bị hủy bỏ, vô hiệu thì ThTTT vẫn có hiệu lực. Pháp luật TT
của các nước trên thế giới cũng quy định tương tự về vấn đề này.
2. Các quy định về thẩm quyền Trọng tài thương mại
Theo xu hướng phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới thì TT
được thành lập chủ yếu để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt
động thương mại. Tùy theo quan điểm của mỗi nước mà thẩm quyền của
TT có thể được quy định khác nhau, nhưng có một điểm chung nhất là
pháp luật TT các nước đều thừa nhận TT là một phương thức phổ biến và
hữu hiệu trong việc giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương
mại.
Khái niệm “hoạt động thương mại” trong PLTTTM 2003 được hiểu
Lê Thị Như Trang

Luật 47



Đề án môn học

theo nghĩa rất rộng: “Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều
hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi;
thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li - xăng; đầu tư; tài
chính, ngân hàng bảo hiểm; thăm dị, khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành
khách bằng đường hàng khơng, đường biển, đường sắt, đường bộ và các
hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật” (Điều 2.3 PL).
Như vậy, về cơ bản, thuật ngữ “hoạt động thương mại” trong PL có
nội hàm tương tự như trong Luật Mẫu của UNCITRAL về TT Với quy
định này, thẩm quyền của TT đã được PL mở rộng theo hướng phù hợp với
pháp luật các nước trên thế giới.
Ngoài thẩm quyền chung về đối tượng TT thì vấn đề thẩm quyền theo
lãnh thổ khơng được đặt ra, mà hoản tồn phụ thuộc vào sự lựa chọn của
các bên tranh chấp. Điều này tạo một mặt bằng pháp lý bình đẳng cho tất cả
các TrTTT trên cả nước, các bên tranh chấp có quyền thỏa thuận lựa chọn
bất cứ TrTTTTM nào mà không phụ thuộc vào nơi cư trú hay nơi đặt trụ sở
của các bên.
3. Các quy định về Trọng tài viên
Hiệu quả giải quyết tranh chấp thương mại phụ thuộc phần lớn vào đội
ngũ Trọng tài viên (TTV), do vậy, pháp luật của các nước đều đưa ra
những tiêu chuẩn nhất định làm cơ sở cho các bên lựa chọn TTV. Theo
Điều 12 PLTTTM 2003:
1. Cơng dân Việt Nam có đủ các điều kiện sau đây có thể làm TTV:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
b) Có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực vô tư, khách quan;
c) Có bằng đại học và đã qua thực tế công tác theo ngành đã học từ
năm năm trở lên.
2. Người đang bị quản chế hành chính, đang bị truy cứu trách nhiệm

hình sự hoặc đã bị kết án mà chưa được xóa án tích khơng được làm TTV.
Lê Thị Như Trang

Luật 47


Đề án môn học

3. Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Chấp hành viên, công chức
đang công tác tại TA nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra,
cơ quan thi hành án không được làm TTV.
So với NĐ 116/CP năm 1994, điều kiện về TTV của PL đã đơn giản
hơn, như trình độ chun mơn của người muốn làm TTV chỉ địi hỏi có
trình độ đại học, bất kể ngành nào, khơng nhất thiết phải có trình độ đại học
Luật, thâm niên cũng đã rút bớt lại còn 5 năm…
Điều 12 PL cũng quy định một số đối tượng không được trở thành
TTV. Vấn đề này là cần thiết để đảm bảo cho việc giải quyết tranh chấp
của TTV được đúng đắn, trung thực và khách quan.
Quyền và nghĩa vụ của TTV được quy định cụ thể tại Điều 13 PL:
1. TTV có các quyền sau đây:
a) Chấp nhận hoặc từ chối giải quyết vụ tranh chấp;
b) Độc lập trong việc giải quyết vụ tranh chấp;
c) Từ chối cung cấp các thông tin liên quan đến vụ tranh chấp;
d) Hưởng thù lao.
2. TTV có các nghĩa vụ sau đây:
a) Tuân thủ các quy định của PL này;
b) Vô tư, khách quan trong việc giải quyết vụ tranh chấp;
c) Từ chối giải quyết vụ tranh chấp trong các trường hợp quy định tại
khoản 1 Điều 27 của PL này;
d) Giữ bí mật nội dung vụ tranh chấp mà mình giải quyết;

đ) Khơng được nhận hối lộ hoặc có hành vi khác vi phạm đạo đức
TTV.
So với thẩm phán, quyền, nghĩa vụ của TTV được quy định mở hơn;
có những quyền chỉ có đối với TTV như: quyền từ chối giải quyết vụ tranh
chấp mà không bắt buộc phải nêu lý do; quyền được hưởng thù lao… Điều
này xuất phát từ sự khác nhau về bản chất giữa TT và TA: Thẩm phán là
một chức danh tư pháp mang tính cơng quyền, xét xử các vụ tranh chấp là
Lê Thị Như Trang

Luật 47


Đề án môn học

thực hiện quyền lực tư pháp của Nhà nước, trên cơ sở pháp luật và nhân
danh Nhà nước; cịn TTV là một cơng dân được các bên tranh chấp ủy
nhiệm giải quyết một vụ tranh chấp trên cơ sở pháp luật và sự thỏa thuận
của các bên.
4. Các quy định về Trung tâm Trọng tài thương mại (TrTTTTM)
Điều 16 PLTTTM 2003 quy định về địa vị pháp lý và cơ cấu tổ chức
của TrTTT:
1. TrTTT là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu
và tài khoản riêng.
2. TrTTT được lập chi nhánh, văn phịng đại diện của Trung tâm.
3. TrTTT có Ban điều hành và các TTV.
Ban điều hành TrTTT gồm có Chủ tịch, một hoặc các Phó chủ tịch, có
thể có Tổng Thư ký do Chủ tịch TrTTT cử…
TrTTTTM là một hình thức tổ chức hoạt động của các TTV nhằm
thực hiện việc giải quyết các tranh chấp thương mại do các bên giao, phải
có ít nhất 5 TTV sáng lập thì mới có thể thành lập TrTTTTM (Điều 14.2

PL).
Theo quy định tại Điều 14.1 PL: “Căn cứ vào tình hình phát triển kinh
tế - xã hội của các địa phương, TrTTT được thành lập tại một số địa phương
theo quy định của Chính phủ”. Cũng theo Nghị định 25/2004/NĐ-CP ngày
15/01/2004, TrTTT được thành lập tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà
Nẵng- những địa phương có hoạt động thương mại sôi động, kinh tế phát
triển.
TrTTT là một tổ chức có tư cách pháp nhân, do đó, có đầy đủ quyền
và nghĩa vụ của một pháp nhân: độc lập hoàn toàn trong hoạt động nghiệp
vụ và phải chịu trách nhiệm hồn tồn về tồn bộ hoạt động của mình.
Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các TrTTT được pháp luật quy định cụ thể
tại Điều 17 PL:

Lê Thị Như Trang

Luật 47


Đề án môn học

1. Xây dựng Điều lệ và Quy tắc tố tụng của TrTTT, nhưng không được
trái với những quy định của PL này;
2. Mời những người có đủ điều kiện quy định tại Điều 12 của PL này
làm TTV của Trung tâm;
3. Chỉ định TTV để thành lập HĐTT theo quy định của PL này; .
4. Cung cấp các dịch vụ hành chính, văn phịng cho các HĐTT giải
quyết các vụ tranh chấp;
5. Thu phí TT, trả thù lao cho TTV theo Điều lệ của TrTTT;
6. Tổ chức rút kinh nghiệm, bồi dưỡng nâng cao trình độ và kỹ năng
giải quyết tranh chấp của TTV;

7. Báo cáo định kỳ hoạt động của TrTTT với Bộ Tư pháp, Hội Luật gia
Việt Nam và Sở Tư pháp nơi TrTTT đăng ký hoạt đơng;
8. Xóa tên TTV trong danh sách TTV của TrTTT khi TTV vi phạm
nghiêm trọng các quy định của PL này và Điều lệ của TrTTT;
9. Lưu trữ hồ sơ, cung cấp các bản sao quyết định TT theo yêu cầu của
các bên hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
10. Nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Tại Điều 16.2 PL cũng quy định rõ, “TrTTT được lập chi nhánh, văn
phòng đại diện của Trung tâm”. Quy định này hoàn toàn phù hợp với thực
tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, là sự bổ sung cần thiết cho quy định
về việc TrTTT chỉ được thành lập ở một số địa phương nhất định.
PL cũng quy định TrTTT có Ban điều hành để thực hiện công tác
quản lý, điều hành hoạt động của trung tâm cũng như đối với các TTV, tại
Điều 16.3 PL.
5. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp của TTTM
Theo quy định của PLTTTM 2003 thì việc giải quyết tranh chấp bằng
TT phải tuân thủ một số các nguyên tắc:
Thứ nhất, nguyên tắc thẩm quyền dựa trên ThTTT, quy định tại Điều
3.1 PL: “Tranh chấp được giải quyết bằng TT nếu trước hoặc sau khi xảy ra
Lê Thị Như Trang

Luật 47


Đề án mơn học

tranh chấp các bên có ThTTT”. Như vậy, việc khơng có ThTTT hoặc
ThTTT vơ hiệu là căn cứ để TA tuyên bố quyết định TT vô hiệu khi có yêu
cầu. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất của phương thức giải quyết tranh chấp
bằng con đường TT.

Thứ hai, nguyên tắc khi giải quyết tranh chấp, TTV phải độc lập,
khách quan, vô tư, phải căn cứ vào pháp luật và tôn trọng thỏa thuận của
các bên, được thể hiện tại Điều 3.2 PL: “Khi giải quyết tranh chấp, TTV
phải độc lập, khách quan, vô tư, phải căn cứ vào pháp luật và tôn trọng
thỏa thuận của các bên”. Theo nguyên tắc này, TTV chỉ căn cứ vào pháp
luật và sự thỏa thuận của các bên nhằm giải quyết đúng đắn vụ tranh chấp;
TTV không chịu sự tác động của bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào, không
được thiên vị, định kiến với bất cứ bên nào. Đề đảm bảo thực hiện nguyên
tắc này, PLTTTM 2003 quy định quyền và nghĩa vụ cụ thể của TTV (Điều
13 PL); quy định các trường hợp TTV phải từ chối giải quyết vụ tranh chấp
(Điều 27.1 PL); cũng như quy định một trong những căn cứ để TA hủy
quyết định TT là TTV đã vi phạm nghĩa vụ của mình (Điều54.5 PL).
Điều 13. Quyền, nghĩa vụ của TTV
1. TTV có các quyền sau đây:
a) Chấp nhận hoặc từ chối giải quyết vụ tranh chấp;
b) Độc lập trong việc giải quyết vụ tranh chấp;
c) Từ chối cung cấp các thông tin liên quan đến vụ tranh chấp;
d) Hưởng thù lao.
2. TTV có các nghĩa vụ sau đây:
a) Tuân thủ các quy định của PL này;
b) Vô tư, khách quan trong việc giải quyết vụ tranh chấp;
c) Từ chối giải quyết vụ tranh chấp trong các trường hợp quy định tại
khoản 1 Điều 27 của PL này;
d) Giữ bí mật nội dung vụ tranh chấp mà mình giải quyết;

Lê Thị Như Trang

Luật 47



Đề án môn học

đ) Không được nhận hối lộ hoặc có hành vi khác vi phạm đạo đức
TTV.
Điều 27. Thay đổi TTV
1. TTV phải từ chối giải quyết vụ tranh chấp, các bên có quyền yêu cầu
thay đổi TTV giải quyết vụ tranh chấp trong các trường hợp sau đây:
a) TTV là người thân thích của một bên hoặc đại diện của bên đó;
b) TTV có lợi ích trong vụ tranh chấp;
c) Có căn cứ rõ ràng cho thấy TTV không vô tư, khách quan trong khi
làm nhiệm vụ.
Điều 54. Căn cứ để hủy quyết định TT TA ra quyết định hủy quyết định
TT nếu bên yêu cầu chứng minh được rằng HĐTT đã ra quyết định TT thuộc
một trong các trường hợp sau đây:
…5. Bên yêu cầu chứng minh được trong q trình giải quyết vụ tranh
chấp có TTV vi phạm nghĩa vụ của TTV quy định tại khoản 2 Điều 13 của
PL này;
Thứ ba, nguyên tắc áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp, quy
định tại Điều 7 PL:
1. Đối với vụ tranh chấp giữa các bên Việt Nam, HĐTT áp dụng pháp
luật của Việt Nam để giải quyết tranh chấp.
2. Đối với vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài, HĐTT áp dụng pháp
luật do các bên lựa chọn. Việc lựa chọn pháp luật nước ngoài và việc áp
dụng pháp luật nước ngồi khơng được trái với các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam.
Trong trường hợp các bên không lựa chọn được pháp luật để giải
quyết vụ tranh chấp thì HĐTT quyết định.
Thứ tư, nguyên tắc xét xử không công khai, quy định tại Điều 38.3
PL: “Phiên họp giải quyết vụ tranh chấp không cơng khai. Trong trường
hợp có sự đồng ý của các bên, HĐTT có thể cho phép những người khác

tham dự phiên họp”. Đây chính là một trong những ưu thế lớn của TT so
Lê Thị Như Trang

Luật 47


Đề án mơn học

với TA, vì nó hợp với mong muốn của các nhà kinh doanh, là việc giải
quyết tranh chấp khơng làm ảnh hưởng đến uy tín trên thương trường và
đảm bảo được bí mật kinh doanh. Với nguyên tắc này, TT không cho phép
những người không liên quan đến vụ tranh chấp tham gia tiến trình TT nếu
các bên không đồng ý. TTV cũng không được phép tiết lộ những điều mình
biết về vụ tranh chấp mà mình đã tham gia giải quyết (Điều 12.2.d PL).
Thứ năm, nguyên tắc chỉ xét xử một lần, quy định tại Điều 6 PL:”
Hiệu lực của quyết định TT Quyết định TT là chung thẩm, các bên phải thi
hành, trừ trường hợp TA hủy quyết định TT theo quy định của PL này”. Đây
là nguyên tắc đặc trưng của TT: quyết định của TT có hiệu lực thi hành,
khơng thể bị khuyến cáo. Nếu việc giải quyết tranh chấp của TT có theo
những trường hợp được quy định cụ thể thì các bên có quyền yêu cầu TA
xem xét để hủy quyết định TT. (Điều 54 PL)
Thứ sáu, nguyên tắc ra quyết định của TT, quy định tại Điều 42 PL:
“Nguyên tắc ra quyết định TT Quyết định TT của HĐTT được lập theo
nguyên tắc đa số, trừ trường hợp vụ tranh chấp do TTV duy nhất giải quyết.
Ý kiến của thiểu số được ghi vào biên bản phiên họp.
6. Các quy định về mối quan hệ giữa Toà án và Trọng tài thương mại
TT, do bản chất phi Nhà nước của mình, khơng thể nhân danh quyền
lực Nhà nước để thực hiện một số cơng việc phát sinh trong q trình giải
quyết tranh chấp thương mại do các bên giao. Do đó, TA phải hỗ trợ TT
trong việc giải quyết chúng. Vai trò hỗ trợ của TA là một yếu tố quan trọng

ảnh hưởng rõ rệt đến hoạt động của TT. PLTTTM 2003 quy định mối quan hệ
giữa TA và TT được coi là bước đột phá phù hợp với thông lệ đã được ghi
nhận trong pháp luật quốc tế và pháp luật TT của các nước trên thế giới.
Thứ nhất, TA hỗ trợ việc thi hành ThTTT, thể hiện ở Điều 5 PL:
“Trong trường hợp vụ tranh chấp đã có ThTTT, nếu một bên khởi kiện tại
TA thì TA phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp ThTTT vô hiệu”.
Thứ hai, TA có quyền xem xét tính hợp pháp của ThTTT; tuy nhiên,
Lê Thị Như Trang

Luật 47


Đề án mơn học

HĐTT có quyền xem xét ThTTT trước khi đưa đến TA, quy định tại Điều
30 PL.
Thứ ba, TA giúp các bên trong việc lựa chọn TTV trong những tình
huống cần thiết.
Điều 26. HĐTT do các bên thành lập
1. Trong trường hợp các bên khơng có thỏa thuận khác thì trong thời
hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nguyên đơn gửi đơn kiện cho bị đơn, bị đơn
phải chọn TTV và thông báo cho nguyên đơn biết TTV mà mình chọn.
Hết thời hạn này, nếu bị đơn khơng thơng báo cho ngun đơn tên TTV
mà mình chọn, thì nguyên đơn có quyền yêu cầu TA tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là TA cấp tỉnh) nơi bị đơn có trụ sở
hoặc cư trú chỉ định TTV cho bị đơn.
Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu,
Chánh án TA giao cho một Thẩm phán chỉ định TTV cho bị đơn và thông
báo cho các bên.
Về nguyên tắc, việc lựa chọn TTV là quyền của các bên tranh chấp.

Tuy nhiên, không phải lúc nào việc lựa chọn TTV cũng xảy ra suôn sẻ; và
sự hỗ trợ của TA là hết sức cần thiết (Điều 26 PL).
Thứ tư, TA ra quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
nhằm tạo điều kiện cho TT hoạt động, (thể hiện tại các Điều từ 33 đến 35PL). Trong quá trình giải quyết tranh chấp, có thể phát sinh nhiều vấn đề
nếu không được xử lý kịp thời, chúng sẽ ảnh hưởng xấu đến việc giải quyết
tranh chấp của TT.
Thứ năm, TA thực hiện việc lưu trữ hồ sơ đối với TT vụ việc, quy
định tại Điều 48 PL:
1. Đối với việc giải quyết vụ tranh chấp do TrTTT tổ chức, hồ sơ, quyết
định TT, biên bản hòa giải được lưu trữ tại TrTTT.
2. Đối với việc giải quyết vụ tranh chấp tại HĐTT do các bên thành
lập, trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày công bố quyết định TT hoặc
Lê Thị Như Trang

Luật 47


Đề án mơn học

biên bản hịa giải, HĐTT phải gửi quyết định TT, biên bản hòa giải kèm
theo hồ sơ giải quyết vụ tranh chấp cho TA cấp tỉnh nơi HĐTT ra quyết định
TT hoặc lập biên bản hòa giải để lưu trữ.
Thứ sáu, TA xem xét và hủy bỏ quyết định TT khi có yêu cầu.
PLTTTM 2003 quy định các bên có quyền yêu cầu TA xét hủy quyết định
TT trong những trường hợp nhất định, để đảm bảo việc TT không được làm
việc, ra quyết định một cách tùy tiện (theo Điều 50- 54 PL).
7. Các quy định về Tố tụng Trọng tài
Tố tụng TTTM là trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại
bằng hình thức TT. Tố tụng TT có những điểm khác với tố tụng TA, do bản
chất hình thức tài phán tư của mình. Tố tụng TT linh hoạt, thơng thống

hơn so với tố tụng TA. Trong tố tụng TT ln có quy định về mối quan hệ
của TT với TA, TA cần phải hỗ trợ hoạt động của TT (như trên đã phân
tích). Khác với TA, TT chỉ thực hiện một cấp xét xử và việc xét xử là
không công khai.
PLTTTM 2003 quy định về tố tụng TT tại Chương V, gồm các bước:
Gửi đơn kiện và thụ lý đơn kiện
Điều 20. Đơn kiện
1. Để giải quyết vụ tranh chấp tại TrTTT, nguyên đơn phải làm đơn
kiện gửi TrTTT. .
Đơn kiện gửi TrTTT gồm có các nội dung chủ yếu sau đây:
a) Ngày, tháng, năm viết đơn;
b) Tên và địa chỉ của các bên;
c) Tóm tắt nội dung vụ tranh chấp;
d) Các yêu cầu của nguyên đơn;
đ) Trịì giá tài sản mà nguyên đơn yêu cầu;
e) TTV của TrTTT mà nguyên đơn chọn.

Lê Thị Như Trang

Luật 47


Đề án môn học

2. Để giải quyết vụ tranh chấp tại HĐTT do các bên thành lập, nguyên
đơn phải làm đơn kiện gửi cho bị đơn; nội dung đơn kiện theo quy định tại
khoản 1 Điều này.
3. Kèm theo đơn kiện, nguyên đơn phải gửi bản chính hoặc bản sao
ThTTT, bản chính hoặc bản sao các tài liệu, chứng cứ. Bản sao phải có
chứng thực hợp lệ.

4. Tố tụng TT bắt đầu khi TrTTT nhận được đơn kiện của nguyên đơn
hoặc từ khi bị đơn nhận được đơn kiện của nguyên đơn, nếu vụ tranh chấp
được giải quyết tại HĐTT do các bên thành lập.
5. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ khi nhận được đơn kiện,
TrTTT phải gửi cho bị đơn bản sao đơn kiện của nguyên đơn và những tài
liệu theo quy định tại khoản 3 Điều này.
Cũng giống như trong tố tụng tại TA, đơn kiện chỉ được chấp nhận khi
được gửi trong thời gian còn thời hiệu khởi kiện (Điều 21 PL):
Quy định này rất cần thiết trong tố tụng TT, để các bên có trách nhiệm
quan tâm tới việc giải quyết các tranh chấp phát sinh, đồng thời hạn chế
việc kéo dài thời gian, tạo tâm lý an tâm cho các nhà kinh doanh.
Việc nộp tạm ứng phí TT là yêu cầu đối với Ngun đơn (nếu các bên
khơng có thỏa thuận khác). Mỗi TrTTT có biểu phí riêng. Trường hợp giải
quyết vụ tranh chấp tại HĐTT do các bên thành lập thì phí TT do HĐTT ấn
định (theo Điều 22.3 PL).
Gửi bản tự bảo vệ, đơn kiện lại
Việc gửi bản tự bảo vệ vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ tố tụng của bị
đơn khi nhận được đơn kiện và các tài liệu kèm theo của nguyên đơn. Đây
là điểm tiến bộ, phù hợp với thực tiễn thương mại hiện nay, khi mà tranh
chấp trong lĩnh vực thương mại ngày càng đa dạng, phức tạp, nhiều vụ việc
mang tính chất chuyên sâu, bên nào cũng có lý lẽ, lập luận riêng để bảo vệ
cho quyền lợi của mình. Quyền tự bảo vệ thông qua việc gửi bản tự bảo vệ
đảm bảo cho một q trình tố tụng cơng bằng. (Điều 24 PL)
Lê Thị Như Trang

Luật 47


Đề án mơn học


PLTTTM cịn cho phép bị đơn được quyền kiện lại nguyên đơn ngay
trong vụ tranh chấp về những vấn đề có liên quan đến yêu cầu của nguyên
đơn, quy định tại Điều 29 PL.
Thành lập HĐTT
Sau khi đơn kiện của nguyên đơn đã được gửi, các bên sẽ lựa chọn
TTV để thành lập HĐTT giải quyết vụ tranh chấp. Điều 25 PL quy định cụt
hể về trình tự, thủ tục thành lập HĐTT; Điều 26 quy định về thành lập
HĐTT do các bên tự thành lập để giải quyết vụ tranh chấp. PL cũng quy
định về những trường hợp các bên được quyền thay đổi TTV và thủ tục
thay đổi TTV trong quá trình tố tụng TT tại Điều 27.
Như vậy, có thể thấy các quy định của pháp luật TTTM Việt Nam về
thủ tục chọn và chỉ định TTV để thành lâph HĐTT là cụ thể, chặt chẽ, tôn
trọng quyền định đoạt của các bên trong giải quyết tranh chấp.
Lựa chọn địa điểm, ngôn ngữ TT và pháp luật áp dụng
Các bên có quyền thỏa thuận địa điểm giải quyết vụ tranh chấp (Điều
23 PL), không bắt buộc phải tiến hành tại trụ sở TrTTT hoặc nơi cư trú, nơi
đặt trụ sở của một trong các bên. Trường hợp khơng có thỏa thuận thì
HĐTT quyết định, nhưng phải bảo đảm thuận tiện cho các bên trong việc
giải quyết (Điều 23). Sự thuận lợi ở đây dựa trên cơ sở, thuận lợi cho việc
thu thập và xuất trình chứng cứ, chi phí đi lại…
Đối với các tranh chấp có yếu tố nước ngồi, ngơn ngữ do các bên
thỏa thuận lựa chọn,. “Các bên có quyền thỏa thuận về sử dụng ngôn ngữ
trong tố tụng TT, nếu các bên khơng có thỏa thuận thì ngơn ngữ dùng trong
tố tụng TT là tiếng Việt” (Điều 49.7 PL).
Xem xét ThTTT và thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp
Đây là bước đặc thù trong tố tụng TT: HĐTT có quyền xem xét, xác
định thẩm quyền của chính mình khi có khiếu nại của các bên về thẩm
quyền của HĐTT. Điều 30.1 PL: “Trước khi xem xét nội dung vụ tranh
chấp, nếu có đơn khiếu nại của một bên về việc HĐTT khơng có thẩm quyền
Lê Thị Như Trang


Luật 47


Đề án môn học

giải quyết vụ tranh chấp; vụ tranh chấp khơng có ThTTT hoặc ThTTT vơ
hiệu, HĐTT phải xem xét, quyết định với sự có mặt của các bên, trừ trường
hợp các bên có yêu cầu khác Bên khiếu nại đã được triệu tập hợp lệ mà
vắng mặt không có lý do chính đáng thì được coi là đã rút đơn khiếu nại.
HĐTT tiếp tục xem xét giải quyết vụ tranh chấp”.
Trong trường hợp không đồng ý với quyết định của HĐTT về nội
dung nêu trên, trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày nhận được
quyết định của HĐTT, các bên có quyền yêu cầu TA cấp tỉnh nơi HĐTT đã
ra quyết định xem xét lại quyết định của HĐTT Bên có u cầu phải đồng
thời thơng báo việc này cho HĐTT. Quyết định của TA có giá trị thi hành,
nên nếu TA quyết định vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của HĐTT,
vụ tranh chấp không có ThTTT hoặc ThTTT vơ hiệu thì HĐTT ra quyết
định đình chỉ giải quyết vụ tranh chấp. Các bên có quyền khởi kiện ra TA
để giải quyết theo tố tụng Dân sự, nếu khơng có thỏa thuận nào khác.
Cung cấp và thu thập chứng cứ cho vụ tranh chấp
Điều 32. Thu thập chứng cứ
1. Các bên có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh sự việc mà
mình nêu ra. HĐTT có quyền yêu cầu các bên cung cấp chứng cứ liên quan
đến vụ tranh chấp.
2. Trong trường hợp cần thiết, HĐTT có thể tự mình thu thập chứng
cứ; mời giám định theo yêu cầu của một bên hoặc các bên và phải thông
báo cho các bên biết. Bên yêu cầu giám định phải nộp tạm ứng phí giám
định, trường hợp các bên mời giám định thì cùng phải nộp tạm ứng phí
giám định.

Nghiên cứu hồ sơ, xác minh sự việc
“Sau khi được chọn hoặc được chỉ định, các TTV phải nghiên cứu hồ
sơ; xác minh sự việc nếu thấy cần thiết” (Điều 31.1 PL). Đề giải quyết vụ
tranh chấp được đúng đắn, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên, trách
nhiệm của các TTV sau khi được chọn hoặc chỉ định là phải nghiên cứu kỹ
Lê Thị Như Trang

Luật 47


Đề án môn học

càng hồ sơ vụ tranh chấp cũng như các quy định pháp luật có liên quan.
Đây là một bước chuẩn bị quan trọng của TTV cho toàn bộ các hoạt động
tiếp theo của quá trình tố tụng TT.
Theo Điều 31.2 PL: “HĐTT có quyền gặp các bên để nghe các bên
trình bày ý kiến. Theo yêu cầu của một bên hoặc các bên hoặc theo sáng
kiến của mình, HĐTT có thể tìm hiểu sự việc từ người thứ ba, với sự có mặt
của các bên hoặc sau khi đã thông báo cho các bên”. Ở đây, điều luật quy
định cụ thể là HĐTT, chứ không phải là TTV, do đó, từng cá nhân TTV
khơng được tiếp xúc với các bên hoặc gặp bên thứ ba, điều này đảm bảo
tính khách quan trong hoạt động giải quyết tranh chấp của HĐTT.
Áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
TTTM là tổ chức tài phán phi chính phủ, khơng có quyền lực của cơ
quan Tư pháp Nhà nước nên khơng có quyền quyết định biện pháp khẩn
cấp tạm thời. Trong khi đó, q trình tố tụng TT có rất nhiều trường hợp
cần có biện pháp mang tính quyền lực đối với một bên để hỗ trợ cho việc
giải quyết vụ tranh chấp. Một trong các hìnht hức hỗ trợ quan trọng của TA
đối với TT là việc TA ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời,
tạo điều kiện thuận lợi cho TT trong việc giải quyết tranh chấp.

Điều 33 PL quy định các biện pháp khẩn cấp tạm thời; Điều 34 đến 36
quy định thủ tục áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời và
trách nhiệm của bên yêu cầu áp dụng các biện pháp này. Theo đó. Bên yêu
cầu phải gửi đơn và bản sao ThTTT, cung cấp đầy đủ bằng chứng; đồng
thời phải nộp một khoản tiền đảm bảo do TA ấn định. Trường hợp bên yêu
cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho
bên kia, cho người thứ ba thì phải bồi thường. Với quy định như trên,
người yêu cầu phải cân nhắc khi làm đơn gửi TA yêu cầu áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời. Khi thấy biện pháp khẩn cấp tạm thời khơng cịn
phù hợp hoặc khơng cịn cần thiết, bên u cầu có quyền làm đơn yêu cầu
TA thay đổi hoặc hủy bỏ.
Lê Thị Như Trang

Luật 47


Đề án mơn học

Hịa giải
Đây khơng phải là thủ tục bắt buộc của quá trình tố tụng TT.
Theo Điều 37.1 PL: “Trong q trình tố tụng TT, các bên có thể tự hịa
giải. Trong trường hợp hịa giải thành thì theo yêu cầu của các bên, HĐTT
sẽ đình chỉ tố tụng”. Việc tự hịa giải có thể tiến hành trong bất kỳ thời
điểm nào trong tồn bộ q trình tiến hành tố tụng TT.
Điều 37.2 quy định: “Các bên có thể yêu cầu HĐTT tiến hành hòa
giải. Trong trường hợp hịa giải thành thì các bên có thể u cầu HĐTT lập
biên bản hòa giải thành và ra quyết định cơng nhận hịa giải thành. Biên
bản hịa giải thành phải được các bên và các TTV ký. Quyết định công nhận
hòa giải thành của HĐTT là chung thẩm và được thi hành theo quy định tại
Điều 57 của PL này”.

Phiên họp giải quyết tranh chấp
Thời gian mở phiên họp giải quyết vụ tranh chấp do Chủ tịch HĐTT
quyết định, nếu các bên khơng có thỏa thuận khác. Giấy triệu tập các bên
tham dự phiên họp giải quyết vụ tranh chấp phải gửi cho các bên chậm nhất
ba mươi ngày trước ngày mở phiên họp, nếu các bên khơng có thỏa thuận
khác (theo Điều 38 PL). HĐTT có thể quyết định hỗn phiên họp khi có
u cầu chính đáng của các bên hoặc xét thấy chưa đủ cơ sở để giải quyết
vụ tranh chấp.
Tại phiên họp, các bên được quyền thỏa thuận mọi vấn đề liên quan
đền tranh chấp đang giải quyết. Phiên họp giải quyết vụ tranh chấp không
công khai. Trong trường hợp có sự đồng ý của các bên, HĐTT có thể cho
phép những người khác tham dự phiên họp. Các bên có thể trực tiếp hoặc
ủy quyền cho người đại diện tham dự phiên họp giải quyết vụ tranh chấp.
Các bên có quyền mời nhân chứng, luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Tại phiên họp, các bên cũng được trình bày ý kiến về tất cả
nội dung của vụ tranh chấp, được quyền đối đáp tranh luận với nhau để làm
sáng tỏ vụ việc.
Lê Thị Như Trang

Luật 47


×