Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.36 KB, 19 trang )

Lời nói đầu
Phần 1: Tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế đối với các quốc gia
1. Hội nhập kinh tế quốc tế
2. Tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đối với các quốc
gia
Phần 2: Tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam
1. Giai đoạn đầu
2. Năm 2003
Phần 3: Thực trạng và giải pháp
1. Thực trạng
2. Giải pháp
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Trang
3
3
4
6
6
7
12
12
15
18
19
Lời nói đầu
Trong những năm 80 của thế kỷ 20, quan hệ kinh tế giữa các nớc trên thế giới
bớc vào một giai đoạn mới - giai đoạn toàn cầu hoá (globalization) - xu thế tất yếu
của nền kinh tế thị trờng thế giới mà chủ nghĩa t bản chi phối trong nhiều thế kỷ
vừa qua. Toàn cầu hoá diễn ra theo quy luật thống nhất và mâu thuẫn về lợi ích


giữa các quốc gia với nhau và lợi ích chung toàn thế giới. Xu hớng cạnh tranh
trong sự hợp tác, đối đầu sang đối thoại trở nên phổ biến. Trong bối cảnh đó, Mỹ
trở thành một siêu cờng nhờ những lợi thế tận dụng trong các cuộc chiến tranh tr-
ớc đó và gần nh giữ vị thế độc tôn (sau khi khối Đông Âu sụp đổ) với tham vọng
bá chủ toàn cầu nhng vấp phải sự phản ứng và cạnh tranh của các nớc t bản phát
triển cũng nh các nớc kém phát triển (LDCs). Vì thế, quan hệ kinh tế trên thế giới
diễn ra rất đa dạng từ quan hệ song phơng cho tới khu vực hoá, toàn cầu hoá tạo
nên các liên kết kinh tế nh: các liên kết siêu nhà nớc, khu vực tự do mậu dịch,
đồng minh thuế quan, liên minh tiền tệ, liên minh kinh tế (UN và các tổ chức
chuyên ngành, WTO, WB, EU, ASEAN, Mencosour ). Tính đa dạng này thể
hiện ở đặc điểm vừa liên kết vừa đấu tranh dựa trên lợi ích của quốc gia và quốc
tế.
Ngoài ra, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là sự bùng nổ của
cách mạng tin học đã tạo nên những biến đổi lớn trong quá trình phát triển và xã
hội hoá lực lợng sản xuất, làm thay đổi cơ cấu kinh tế, năng suất lao động tăng
gấp bội so với thời kỳ hàng trăm năm trớc đó. Khoa học và công nghệ trở thành
lực lợng sản xuất đặc biệt quan trọng, chiếm phần lớn trong tỷ trọng trong các sản
phẩm dịch vụ. Vì thế, gắn liền với quá trình toàn cầu hoá thì vai trò của nhà nớc
ngày càng đợc đặc biệt chú trọng nhng còn quan trọng hơn là sự điều phối của các
liên kết kinh tế thế giới nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển đồng đều giữa các
quốc gia, các vùng, khu vực trên toàn thế giới. Quá trình này đem lại những cơ
hội cũng nh các thách thức rất lớn đối với các quốc gia tham gia cuộc chơi đó. Nó
trở thành một xu thế không thể cỡng lại đợc đợc nếu không muốn bị bỏ lại trong
trật tự kinh tế mới của thế giới. Xu thế này buộc tất cả các quốc gia, nếu muốn
phát triển, phải chuẩn bị và tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế, không còn con đ-
ờng nào khác để lựa chọn. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó.
-2-
Phần 1
Tác động của quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế đối với các quốc gia

1. Hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là một thuật ngữ mới xuất hiện trong nhiều năm trở
lại đây và cho tới nay những tranh luận về khái niệm này vẫn cha đến hồi ngã
ngũ. Nhng nhìn chung, hội nhập kinh tế quốc tế đợc hiểu là sự gắn kết nền kinh tế
của mỗi quốc gia vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu mà mối
quan hệ giữa các nớc thành viên có sự ràng buộc theo những quy định của khối
hay nói cách khác thì hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia thực hiện
mô hình kinh tế mở, tự nguyện tham gia vào các định chế kinh tế và tài chính
quốc tế, thực hiện thuận lợi hoá và tự do hoá thơng mại, đầu t cũng nh các hoạt
động kinh tế đối ngoại khác.
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc
gia và nền kinh tế thế giới. Đây vừa là quá trình hợp tác, đấu tranh cùng tồn tại và
phát triển đồng thời là quá trình dỡ bỏ dần khái niệm biên giới giữa các quốc
gia bằng cách xoá bỏ dần các rào cản thuế quan, thơng mại nh cắt giảm thuế
(thậm chí ấn định thuế suất 0%), thực hiện công cuộc đối mới, chủ động hội nhập
vào một sân chơi chung của cộng đồng quốc tế cũng nh khơi thông các dòng
chảy nguồn lực, tạo điều kiện mở rộng thị trờng.
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hớng khách quan mà nguyên nhân chủ yếu là
quá trình xã hội hoá sản xuất lan toả vợt qua khỏi phạm vi biên giới của từng quốc
gia. Quá trình này gắn liền với các hoạt động sản xuất kinh doanh của các công
ty, tập đoàn đa quốc gia tạo nên một sự gắn kết và phụ thuộc chặt chẽ giữa các
nền kinh tế riêng lẻ. Các công ty, tập đoàn đó dần hình thành các hình thức đa sở
hữu có tiềm năng về tài chính, kỹ thuật, nhân lực hùng hậu với sự trợ giúp của
chính phủ thông qua đủ mọi loại hình thức nh tín dụng, tạo thị trờng trong và
ngoài nớc và đợc hởng rất nhiều u đãi đặc biệt khác. Khi đó, ở những nớc công
nghiệp phát triển này, tính chất xã hội hoá trình độ lực lợng sản xuất rất cao và
lan toả sang các nớc khác, trong khu vực và toàn cầu dẫn tới sự giao lu và thúc
đẩy sự giao lu khiến các quốc gia muốn phát triển không còn con đờng lựa chọn
nào khác là phải mở cửa giao lu với thế giới. Vì thế, quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế diễn ra là một xu hớng tất yếu. Mọi quốc gia, một mặt, không những phải

phát huy nội lực của chính mình, mặt khác, phải mở rộng bang giao với các nớc
trong khu vực cũng nh trên toàn thế giới.
Nhìn chung, hội nhập kinh tế quốc tế chủ yếu giải quyết các vấn đề chủ yếu
nh: đàm phán cắt giảm thuế quan, giảm và loại bỏ hàng rào phi thuế quan, giảm
bớt các hạn chế đối với dịch vụ, các trở ngại đối với đầu t quốc tế, điều chỉnh các
chính sách thơng mại và tiến hành các chính sách văn hoá, giáo dục có tính
chất toàn cầu
-3-
2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế tới các quốc gia
Thực chất, hội nhập kinh tế quốc tế là sự kết hợp giữa nội lực với ngoại lực, kết
hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại nhằm bảo vệ lợi ích của dân
tộc và phát triển kinh tế đất nớc. Vì thế, đòi hỏi các quốc gia phải tiến hành xây
dựng nhanh chóng nền kinh tế đất nớc theo hớng độc lập, tự chủ có khả năng
thích ứng cao với những biến động của tình hình quốc tế. Tuy vậy, hội nhập kinh
tế quốc tế lại là con dao hai lỡi, nghĩa là nó đem lại vô số cơ hội đối với những
quốc gia biết tận dụng nh các nớc phát triển (DCs), các nớc công nghiệp mới
(NICs), nhng lại tạo ra vô vàn thách thức, khó khăn đối với các quốc gia kém phát
triển và đang phát triển (LDCs).
Nếu nhìn nhận thực tế, thì tự do hoá thơng mại và hội nhập kinh tế quốc tế có
thể làm cho một số quốc gia giàu lên trong khi một số nớc khác lại nghèo đi và
thậm chí, trong phạm vi một nớc cũng có ảnh hởng theo chiều hớng ngợc chiều đó
trong từng bộ phận dân c. Những tác động tiêu cực có thể kể đến là gây xáo trộn
quan hệ kinh tế đã hình thành trong nền kinh tế của từng nớc, tạo ra sự canh tranh
không lành mạnh giữa các quốc gia thành viên và thậm chí còn gây ra sự chia cắt
các thị trờng thế giới, hình thành các nhóm cục bộ Điều này chúng ta có thể
minh chứng phần nào bằng ví dụ đơn giản nh Mỹ và Liên minh châu Âu (EU), tuy
có khả năng và trên thực tế đã tiến hành hội nhập rất tốt, đã buộc những quốc gia
nghèo hơn phải hội nhập vào mình trong khi vẫn duy trì mức độ bảo hộ đối với
hàng nông sản của họ, cho dù đây lại là thế mạnh của các nớc LDC. Chỉ có một
điều mà ai cũng thấy đợc là tất cả quốc gia đều xuất phát từ lợi ích kinh tế của

chính họ. Vậy thì, có thực sự công bằng khi tham gia vào sân chơi chung đó?
Theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế quốc tế, hiện nay, các nớc giàu đã
thành công trong việc thiết lập cuộc chơi và thậm chí họ còn đặt ra luật chơi buộc
các quốc gia khác phải tuân theo. Mà cụ thể những nớc đó là Nhật, Mỹ và các
quốc gia Tây Âu. Họ đã thành công trong việc gỡ bỏ dần các rào cản đối với
những nớc nghèo hơn, buộc những nớc này phải để cho hàng hoá và dịch vụ của
họ tràn vào thị trờng của mình nhng vẫn thành công trong việc bảo hộ những
ngành trong nớc yếu thế hơn so với những nớc nghèo. Vậy đó có phải là sự bất
công? Dẫu biết là thế, nhng các quốc gia kia không thể không tuân theo và cố
gắng đạt đợc mục tiêu tối thiểu mà mình đề ra. Điều đó có nghĩa rằng, hội nhập
kinh tế quốc tế là tất yếu, không thể phủ nhận và vấn đề đặt ra chỉ là các nớc sẽ
tận dụng cơ hội này ra sao?
Nói thế không phải hội nhập kinh tế quốc tế không có mặt tích cực của nó. Hội
nhập kinh tế quốc tế giúp các quốc gia phát triển nhanh lực lợng sản xuất, tạo nên
sự ổn định trong quan hệ giữa các nớc, khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh, phát
triển các quan hệ thơng mại, xuất nhập khẩu, tiếp cận với nền kinh tế tri thức,
thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ, thu hút mạnh vốn đầu t nớc ngoài,
chuyển dịch cơ cấu hợp lý, tạo công ăn việc làm, phúc lợi xã hội... một cách tối u.
-4-
Tuy rằng, hiện nay, chỉ có Mỹ và một số nớc phát triển đã bớc sang nền kinh tế
đó.
Những trờng hợp điển hình nhất cho những bớc tiến đáng kể là các nớc NICs
(New Industrilized Countries) và hiện hữu nhất là Trung Quốc. Hiện nay, theo số
liệu thống kê thì Trung Quốc đã vợt qua Nhật Bản về kim ngạch xuất khẩu điện tử
và kỹ thuật cao vào thị trờng Mỹ và thu hút đợc gần 80% tổng vốn đầu t nớc ngoài
(FDI) vào châu á. Đó mới chỉ là những số liệu đơn giản về kết quả hội nhập kinh
tế quốc tế của Trung Quốc trong thời gian trở lại đây.
Nh vậy, hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu và các quốc gia trên toàn thế giới
không thể không tham gia. Những tác động mà nó mang lại là vô cùng to lớn, tuy
phụ thuộc vào nhiều yếu tố bên trong, bên ngoài, nhng ảnh hởng tới muôn mặt

của đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của bất kỳ quốc gia nào trên thế
giới.
-5-
phần 2
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
1. Giai đoạn đầu
Những năm gần đây, Việt Nam tiếp tục tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế
trên nhiều lĩnh vực và đạt đợc nhiều thành tựu đáng kể. Do phải trải qua hơn 30
năm chiến tranh, nền kinh tế của chúng ta có xuất phát điểm rất thấp. Ngoài ra,
những thiếu sót, sai lầm trong chỉ đạo phát triển kinh tế, duy trì nền kinh tế tập
trung quan liêu trong thời gian dài làm cho Việt Nam rơi vào cuộc khủng hoảng
trầm trọng, uy tín của Đảng bị giảm sút nghiêm trọng trong những năm trớc khi
tiến hành công cuộc đổi mới đất nớc (1986).
Bởi vậy, tháng 12/1986, Đại hội Đảng 6 của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra
đờng lối đổi mới kinh tế tập trung vào xoá bỏ cơ chế bao cấp, chuyển sang nền
kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ
nghĩa.
Giai đoạn 1986 1990 là giai đoạn sản xuất đợc phục hổi, kinh tế tăng trởng
và điều quan trọng hơn cả là chuyển đổi sang cơ chế mới cho dù vẫn còn tàn d của
cơ chế cũ trớc khi khối Đông Âu tan rã.
Bớc đột phá đáng kể tiến tới quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
vào tháng 6/1991, Đại hội 7 của Đảng đã tiến hành đánh giá thành quả đổi mới và
tiếp tục đề ra chính sách đối ngoài phù hợp với xu thế của thế giới là đa dạng
hoá, đa phơng hoá quan hệ quốc tế nhằm tạo thế và lực, đồng thời chuẩn bị cho
thu hút đầu t nớc ngoài trong thời kỳ đổi mới. Đây chính là những quyết sách vô
cùng đúng đắn, một mặt, giúp Việt Nam thoát khỏi sự khủng hoảng trầm trọng và
mặt khác, tạo cơ sở cho giai đoạn phát triển mới cũng nh hội nhập kinh tế quốc tế
đa đất nớc đi lên với chiến lợc ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm
2000.
Giai đoạn 1991 - 1996 đã đạt đợc những thành tựu cơ bản nh cơ chế quản lý đã

thay đổi căn bản, kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, nền kinh tế đạt tốc độ
tăng trởng cao (bình quân 8,2%), đạt kỷ lục thu hút vốn đầu t nớc ngoài
50%/năm, từng bớc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy lùi lạm phát và đặc biệt tăng
cờng kinh tế đối ngoại. Trong giai đoạn này, lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam
có quan hệ bình thờng với tất cả các nớc, các trung tâm chính trị lớn trên thế giới.
Đặc biệt, 7/1995, đánh dấu sự tích cực hội nhập của Việt Nam bằng bớc ngoặt trở
thành thành viên của Hiệp hội các nớc Đông Nam á (ASEAN). Cùng tháng này,
Việt Nam và EU đã ký Hiệp định khung về hợp tác kinh tế thơng mại và khoa học
kỹ thuật, đồng thời bình thờng hoá quan hệ thơng mại với Mỹ và tiến hành nộp
đơn gia nhập Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu á - Thái Bình Dơng (APEC) và Tổ
-6-
chức Thơng mại Thế giới (WTO). Đến cuối năm 1996, Việt Nam chính thức quan
hệ với trên 120 nớc, tổng vốn ODA giành cho chúng ta đạt mức 8,53 tỷ USD .
Tháng 6/1996, Đại hội Đảng 8 khẳng định quyết tâm một lần nữa đổi mới kinh
tế toàn diện và đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nớc. Giai
đoạn này Chính phủ Việt Nam đã và đang tiến hành cải cách môi trờng pháp lý
cho hội nhập kinh tế quốc tế nh Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu t nớc ngoài sửa đổi,
cải cách doanh nghiệp nhà nớc, cải cách hệ thống tài chính cho phù hợp với thông
lệ quốc tế, tiếp tục thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
Đây chính là những đờng lối chỉ đạo hết sức sáng suốt của Đảng ta, phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần theo định hớng XHCN, đa dạng hoá, đa phơng hoá quan
hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế thế giới.
Tiếp tục phát huy những thành tựu đạt đợc, Đại hội Đảng 9 đã thông qua Chiến
lợc phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010 nhằm xây dựng Việt Nam dân giàu, nớc
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo phơng châm Việt Nam sẵn
sàng làm bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nớc trên thế giới trên nguyên tắc
tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng cùng có lợi, không
can thiệp vào công việc nội bộ, cùng phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát
triển, đặt mục tiêu về cơ bản trở thành một nớc công nghiệp hiện đại vào năm
2020. Đồng thời không ngừng đẩy mạnh vị thế của Việt Nam trên trờng quốc tế,

gắn chặt nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế Trên
tinh thần đó, bản Phơng hớng, Nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 2001 - 2005 xác định mục tiêu tăng trởng kinh tế nhanh, bền vững, ổn định
và cải thiện đời sống nhân dân, tăng cờng kết cấu hạ tầng, giữ vững ổn định chính
trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ độc lập chủ quyền Cụ thể hoá với mục tiêu
đặt ra, kinh tế Việt Nam phải đạt tốc độ tăng trởng bình quân hàng năm đạt 7,5%,
gấp đôi so với năm 1995, kim ngạch xuất khẩu phấn đấu đạt mức tăng 16%/năm,
tăng dần tỷ trọng công nghiệp khoảng 38 - 39% , ngành dịch vụ 41 - 42%, ngành
nông, lâm ng nghiệp 20 - 21%. Để thực hiện đợc mục tiêu đó, hội nhập kinh tế
quốc tế trở nên vô cùng cần thiết nhằm tranh thủ sự hỗ trợ quốc tế cũng nh thu hút
mạnh đầu t, hợp tác của nớc ngoài vào Việt Nam, đồng thời không ngừng chủ
động hội nhập có hiệu quả.
2. Năm 2003
Là năm mà Việt Nam đạt đợc những thành tựu đáng kể. Đầu tiên phải kể đến
thành công của vòng đàm phán thứ 7 gia nhập tổ chức WTO diễn ra vào tháng 12
năm 2003 mà thế giới đánh giá Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực trong
chính sách kinh tế làm cơ sở cho kết hoạch và quyết tâm gia nhập tổ chức thơng
mại toàn cầu này vào năm 2005 theo dự kiến. Quá trình gia nhập WTO của Việt
Nam có thể khẳng định là gian nan và kiên trì trải qua gần 10 năm kể từ lần đầu
tiên nộp đơn vào năm 1995. Sau đây là tiến trình của Việt Nam tiến tới gia nhâp
WTO:
-7-

×