Khi trẻ sinh ra vừa là trai vừa là gái
Kiểm tra cẩn thận cho thấy đứa bé có một tinh hoàn, trông giống như một
dương vật nhỏ và không có tử cung hoặc âm đạo. Những kiểm tra về mặt
di truyền sau đó cũng không làm sáng tỏ thêm được điều gì: Một vài tế
bào của đứa bé mang cặp nhiễm sắc thể XX điển hình ở các bé gái,
nhưng một số tế bào khác lại mang các nhiễm sắc thể XY của bé trai và
một số khác chỉ có duy nhất một nhiễm sắc thể X, thường thấy ở các bé
gái mắc hội chứng có tên là Hội chứng Turner.
Về mặt khoa học, đứa con của gia đình Hartman là một trẻ lưỡng tính thực
sự. Các nhà khoa học hoàn toàn không biết tại sao điều này lại xảy ra,
nhưng một trong những cách giải thích có thể là có 2 trứng đã được thụ
tinh trong tử cung người mẹ - một XX và một XY - nhưng thay vì phát triển
thành hai em bé sinh đôi độc lập, các hợp tử lại hợp nhất với nhau để trở
thành một phôi thai duy nhất.
Những trẻ lưỡng tính thực sự được cho là khá hiếm. Nhưng những trường
hợp chuyển giới tính ít nghiêm trọng hơn xảy ra nhiều hơn chúng ta
tưởng. Một tạp chí khoa học xuất bản năm 2000 đã ước tính rằng có từ
0,2% cho đến 2% trẻ sinh ra có vấn đề về giới tính. Có khoảng 30 vấn đề
về di truyền và hormon có thể làm phát sinh tình trạng chuyển giới tính, từ
đó dẫn đến việc ở một số người, sự pha trộn các đặc điểm nam và nữ thể
hiện khá rõ. Ở nhiều trường hợp khác, một số biến dạng ít được nhận
thấy, chẳng hạn như sự phát triển quá mức của lông trên cơ thể phụ nữ.
Trong thực tế, rất nhiều người chuyển giới tính có thể sống suốt đời là đàn
ông hoặc phụ nữ mà không một chút nghi ngờ gì về sự pha trộn giới tính
của mình.
Trong nhiều năm, các bác sĩ tin rằng biện pháp điều trị tốt nhất cho một
đứa bé mới sinh bị chuyển giới tính rõ rệt là chọn một trong hai giới tính.
Cơ quan sinh sản và cơ quan sinh dục ngoài sẽ được giải phẫu để tái tạo
cho phù hợp với một giới tính được chọn. Nhưng trong thực tế, người ta
thường quyết định đứa bé là gái vì, theo ngôn ngữ hơi thô tục của giới giải
phẫu thì “đào một cái lỗ dễ hơn là xây một cái cột”! Mục đích chính là giảm
thiểu thời gian đứa trẻ sống với một cơ thể không chuẩn với hy vọng rằng
cô bé hay cậu bé đó sẽ dễ dàng hơn trong việc phát triển một giới tính
bình thường.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sự cần thiết phải chọn một trong hai
giới tính và sự can thiệp không thể đảo ngược của các bác sĩ đã trở thành
một vấn đề lớn. Nhiều người chuyển tính trưởng thành đã bước ra từ
bóng tối và nêu lên những kinh nghiệm của họ, bao gồm cả những ảnh
hưởng tai hại được họ quy tội cho những cuộc giải phẫu ở thời thơ ấu.
Nhiều người phàn nàn rằng họ đã “bị” chọn giới tính sai. Nhiều người vẫn
còn đau khổ vì sự giấu giếm và xấu hổ của gia đình họ đối với tình trạng
của con em mình. Bên cạnh đó, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy
những cuộc giải phẫu loại này sẽ gây trở ngại cho việc thỏa mãn tình dục,
từ đó có thể tạo nên chứng hoang dâm mãn tính và ảo tưởng lo sợ về
nguy cơ bị ung thư.
Vấn đề trở nên bức thiết đến nỗi Viện Nhi khoa Hoa Kỳ đã bắt đầu xem
xét lại việc quyết định giải phẫu sớm những ca chuyển giới tính. Tiến sĩ
Ian Aaronson, giáo sư tiết niệu và nhi khoa tại Đại học Nhi khoa South
Carolina hiện đang phối hợp thực hiện một nghiên cứu quy mô nhất từ
trước đến giờ về tình trạng chuyển giới tính nhằm xác định những ảnh
hưởng, cả tốt và xấu của việc giải phẫu chọn giới tính lên cảm xúc, tâm lý
và sự thỏa mãn tình dục.
Nhưng trì hoãn giải phẫu chọn giới cũng có những gánh nặng của nó. Khi
trẻ bắt đầu nhận thức về hình ảnh cơ thể chúng ở tuổi lên 2 hoặc 3 và so
sánh chúng với bạn bè, những câu hỏi sẽ nảy sinh và tiềm tàng những
nguy cơ gây ra tổn thương tâm lý suốt thời thơ ấu của trẻ.
Một nguyên nhân nữa khiến cho việc quyết định trở nên rắc rối là thậm chí
khi các nhiễm sắc thể cho thấy một giới tính rõ rệt thì giải phẫu học có thể
cho một kết quả trái ngược hoàn toàn. Chẳng hạn trường hợp của Sherri,
một nhân viên thuế quan 45 tuổi ở San Diego. Mặc dù nhiễm sắc thể giới
tính của cô rõ ràng là XY, nhưng cô cũng rõ ràng là một phụ nữ. Sherri bị
hội chứng không phản ứng với kích thích tố nam (AIS), một chứng bệnh
ảnh hưởng lên bào thai. Tất cả các phôi thai đều hình thành trên cơ sở hệ
sinh sản nam và nữ. Chúng cạnh tranh nhau phát triển cho đến khi hệ sinh
sản nam chiếm ưu thế hơn ở các thai XY và hệ sinh sản nữ chiếm ưu thế
ở các thai XX. Tuy nhiên, cơ quan sinh dục ngoài nam sẽ không định hình
trong một bào thai XY cho đến khi tinh hoàn của phôi thai hình thành và
bắt đầu sản xuất ra hormon testosterone