Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Báo cáo "Quyền hạn của toà án nhân dân trong xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính " potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.75 KB, 6 trang )



nghiên cứu - trao đổi
Tạp Chí luật học - 35




ThS. Nguyễn Văn Quang *
uyền hạn của tòa án trong xét xử sơ thẩm
các vụ án hành chính có thể đợc hiểu
theo hai nghĩa rộng, hẹp khác nhau. Theo
nghĩa rộng, đó là toàn bộ các quyền mà pháp
luật trao cho tòa án với t cách là ngời tiến
hành tố tụng để tham gia vào các giai đoạn
của tố tụng hành chính từ khởi kiện, thụ lí,
chuẩn bị xét xử cho đến xét xử sơ thẩm.
Theo nghĩa hẹp, quyền hạn của tòa án trong
xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính là
quyền mà pháp luật trao cho tòa án khi xét
xử sơ thẩm các vụ án hành chính, thể hiện
trong nội dung của các phán quyết mà hội
đồng xét xử đa ra. Trong phạm vi bài này,
chúng tôi đề cập vấn đề quyền hạn của tòa án
trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính theo
nghĩa hẹp nêu trên.
1. Cơ sở lí luận xác định quyền hạn
của tòa án trong xét xử sơ thẩm các vụ án
hành chính
Bàn về quyền hạn của tòa án trong xét xử
sơ thẩm các vụ án hành chính, chúng tôi cho


rằng cần lí giải những căn cứ khoa học làm
cơ sở để xác định vấn đề này.
Thứ nhất, phạm vi kiểm tra của tòa án
đối với các quyết định hành chính, hành vi
hành chính - đối tợng của xét xử hành chính
là một trong các cơ sở để xác định quyền hạn
của tòa án trong xét xử sơ thẩm vụ án hành
chính. Khi tiến hành các công việc quản lí
hành chính nhà nớc, pháp luật đòi hỏi các
quyết định hành chính, hành vi hành chính
phải đảm bảo thoả mn cả yêu cầu hợp pháp
(phù hợp với quy định của pháp luật) lẫn hợp
lí (phù hợp với thực tiễn của quản lí hành
chính nhà nớc). Đặc thù của quản lí hành
chính là hoạt động có tính chủ động, sáng
tạo nên trong nhiều trờng hợp pháp luật quy
định cho các chủ thể quản lí hành chính nhà
nớc đợc quyền lựa chọn các phơng án
khác nhau để giải quyết công việc của mình.
Để đánh giá đợc quyết định hành chính,
hành vi hành chính có hợp lí hay không đòi
hỏi ngời thẩm phán phải có kiến thức, kinh
nghiệm và những hiểu biết mang tính chuyên
nghiệp về các lĩnh vực của hoạt động quản lí
hành chính nhà nớc.
Thứ hai, những đòi hỏi của sự phân công
rõ ràng, rành mạch giữa hoạt động xét xử của
tòa án với hoạt động quản lí hành chính nhà
nớc mà bộ máy hành chính nhà nớc đảm
nhiệm cũng là cơ sở để xác định quyền hạn

của tòa án trong xét xử sơ thẩm các vụ án
hành chính. Phù hợp với đòi hỏi nêu trên, khi
xét xử các vụ án hành chính, tòa án không
đợc phép thay đổi nội dung của các quyết
định hành chính hoặc hành vi hành chính bị
kiện mà chỉ có quyền phán quyết về tính hợp
pháp của chúng mà thôi. Về mặt nguyên tắc,
trong xét xử sơ thẩm các vụ án hành chính
tòa án không đợc cản trở hoạt động quản lí
hành chính nhà nớc bằng việc sửa đổi hoặc
thay thế các quyết định quản lí hành chính
nhà nớc mà chỉ có quyền phán xét về tính
hợp pháp của chúng trên cơ sở các quy định
của pháp luật
2. Quyền hạn của tòa án trong xét xử
sơ thẩm các vụ án hành chính theo quy
định của pháp luật hiện hành
Quyền hạn của tòa án trong xét xử sơ
thẩm các vụ án hành chính thể hiện ở nội
Q

*
Giảng viên Khoa hành chính - nhà nớc
Trờng đại học luật Hà Nội


nghiên cứu - trao đổi
36 - Tạp chí luật học

dung của các phán quyết mà hội đồng xét xử

đợc phép đa ra tại phiên tòa. Về mặt lí
thuyết, phạm vi, nội dung của các phán quyết
mà hội đồng xét xử sơ thẩm đa ra phải đợc
quy định một cách rõ ràng trong pháp luật.
Bởi chỉ có nh vậy ngời ta mới xác định
đợc việc tòa án có thể can thiệp đến mức độ
nào vào hoạt động quản lí hành chính nhà
nớc nhằm tránh sự chồng lấn giữa hành
pháp và t pháp. Tuy nhiên, các quy định của
pháp luật về tố tụng hành chính của chúng ta
hiện nay cha giúp đợc các thẩm phán hành
chính xác định một cách rõ ràng vấn đề này.
Trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
hành chính (sửa đổi, bổ sung ngày 25 tháng
12 năm 1998), ngoài các quy định về các
việc thuộc thẩm quyền xét xử hành chính của
tòa án và việc phân định thẩm quyền xét xử
của các cấp tòa án còn có hai điều (Điều 49
và Điều 50) nói về quyết định và bản án của
hội đồng xét xử sơ thẩm. Song hai điều này
của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
hành chính mới chỉ nêu ra một cách chung
chung về bản án và quyết định xét xử sơ
thẩm.
Các quy định tại Điều 49 và 50 của Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
cha đa ra nội dung cụ thể về quyền hạn
của tòa án trong xét xử sơ thẩm các vụ án
hành chính. Bởi lẽ, các quy định này mới chỉ
đề cập chung rằng bản án, quyết định sơ

thẩm của tòa án có các quyết định của tòa
án hoặc quyết định cụ thể song nội dung
các quyết định này nh thế nào thì Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án hành chính lại
không quy định một cách rõ ràng. Điều này
đ gây khó khăn cho tòa án khi xét xử các vụ
kiện hành chính, bởi lẽ, tòa án không có
những chuẩn mực cụ thể về mặt pháp luật để
ra các phán quyết của mình. Theo tổng kết
của ngành tòa án, nhiều thẩm phán không
biết tuyên bản án hành chính nh thế nào cho
phù hợp với pháp luật. Trên thực tế, khi Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
có hiệu lực thi hành, Tòa án nhân dân tối cao
đ ban hành Công văn số 39/ KHXX ngày
6/7/1996 hớng dẫn thi hành một số quy
định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính. Tại mục 6 Công văn này có
ghi: đồng thời với việc ra quyết định hủy
bỏ quyết định hành chính hay kết luận hành
vi hành chính trái pháp luật, tòa án cần kiến
nghị với cơ quan đ ban hành văn bản quy
phạm pháp luật trái với văn quy phạm pháp
luật của cấp trên để cơ quan đó tự hủy bỏ.
Nh vậy, theo hớng dẫn này của Tòa án
nhân dân tối cao, khi xét xử sơ thẩm vụ án
hành chính, tòa án có quyền hủy bỏ quyết
định hành chính hay kết luận hành vi hành
chính là trái pháp luật. Trớc đây, trong Dự
thảo Luật tổ chức tòa án hành chính kèm

theo tờ trình Quốc hội của Chính phủ về Dự
án luật tổ chức tòa án hành chính số 1650/CP
ngày 30/3/1995, cũng đ đề cập vấn đề này,
cụ thể là:
1. Khi xét xử, tòa án hành chính có
quyền:
- Phán quyết về tính hợp pháp của quyết
định hành chính, hành vi hành chính bị kiện;
- Hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết
định hành chính, chấm dứt hành vi hành
chính trái pháp luật;
- Buộc cơ quan hành chính nhà nớc bị
kiện thực hiện trách nhiệm công vụ của mình
theo quy định của pháp luật;
- Buộc cơ quan hành chính nhà nớc bị
kiện bồi thờng hoặc khôi phục quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức
đ bị xâm phạm.
2. Căn cứ tính chất, mức độ vi phạm, yêu
cầu cơ quan nhà nớc bị kiện hoặc cấp trên
của cơ quan đó quyết định hình thức kỉ luật
hành chính đối với công chức đ ban hành
quyết định hoặc thực hiện hành vi trái pháp
luật; áp dụng các biện pháp nhằm khắc phục
nguyên nhân vi phạm pháp luật trong các cơ
quan nhà nớc.


nghiên cứu - trao đổi
Tạp Chí luật học - 37


Tuy nhiên, Dự án luật này không đợc
Quốc hội thông qua. Trong quá trình xây
dựng Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
hành chính cũng có nhiều ý kiến cho rằng để
phù hợp với các văn bản pháp luật về tố tụng
khác (nh Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án dân sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án kinh tế ) không cần thiết phải đa
quy định cụ thể về quyền hạn trong xét xử sơ
thẩm các vụ án hành chính của tòa án. Nếu
cần, có thể hớng dẫn trong công văn của
Tòa án nhân dân tối cao là đủ. Chúng tôi cho
rằng, việc không quy định cụ thể quyền hạn
của tòa án trong xét xử sơ thẩm các vụ án
hành chính là khiếm khuyết của pháp luật
bởi lẽ đối tợng của xét xử hành chính là
quyết định hành chính, hành vi hành chính
vốn dĩ rất phức tạp, việc quy định rõ ràng về
quyền hạn của tòa án trong xét xử sơ thẩm
các vụ án hành chính là hết sức cần thiết.
Tuy còn thiếu những quy định cụ thể của
pháp luật liên quan đến vấn đề nêu trên
nhng trong thực tế, khi xét xử các vụ án
hành chính, hội đồng xét xử sơ thẩm thờng
ra các phán quyết sau đây:
+ Bác yêu cầu của ngời khởi kiện, giữ
nguyên quyết định hành chính, hành vi hành
chính bị kiện.
Khi xét xử sơ thẩm, nếu hội đồng xét xử

thấy quyết định hành chính, hành vi hành
chính bị kiện là hoàn toàn phù hợp với pháp
luật hiện hành (có nghĩa là đảm bảo tính hợp
pháp) thì tòa án có quyền bác đơn khởi kiện
của ngời khởi kiện và giữ nguyên quyết
định hành chính, hành vi hành chính bị kiện.
+ Hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết
định hành chính hoặc chấm dứt hành vi hành
chính trái pháp luật. Yêu cầu cơ quan, cán bộ
có thẩm quyền sửa hoặc ban hành quyết định
hành chính mới thay thế. Buộc cơ quan, cán
bộ có thẩm quyền phải thực hiện hành vi
hành chính mà họ có nghĩa vụ phải thực hiện
theo quy định của pháp luật.
Khi xét xử sơ thẩm, nếu có đầy đủ căn cứ
để xác định rằng quyết định hành chính
(hoặc một phần quyết định hành chính),
hành vi hành chính là không hợp pháp thì hội
đồng xét xử tuyên bố hủy bỏ quyết định
hành chính hoặc một phần quyết định hành
chính hay chấm dứt hành vi hành chính bất
hợp pháp đó.
Khi ra quyết định hủy bỏ toàn bộ hoặc
một phần quyết định hành chính bị kiện vì lí
do bất hợp pháp, hội đồng xét xử cũng phải
xác định rõ những hành vi hành chính phải
chấm dứt vì quyết định hành chính bất hợp
pháp đó. Trong trờng hợp cần phải sửa
quyết định hành chính đ ban hành hoặc phải
ban hành quyết định hành chính mới thay thế

cho quyết định hành chính cũ, tòa án phải
yêu cầu cơ quan, cán bộ có thẩm quyền thực
hiện công việc này chứ tòa án không có thẩm
quyền sửa hoặc ban hành quyết định hành
chính mới thay thế cho quyết định hành
chính bị hủy.
Trong trờng hợp tòa án xác định rằng cơ
quan, cán bộ có thẩm quyền có nghĩa vụ phải
thực hiện hành vi hành chính theo quy định
của pháp luật mà không thực hiện thì tòa án
sẽ yêu cầu buộc họ phải thực hiện những
hành vi hành chính này.
+ Quyết định vấn đề bồi thờng thiệt
hại.
Điều 3 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án hành chính quy định: Ngời khởi kiện
vụ án hành chính có thể đồng thời yêu cầu
đòi bồi thờng thiệt hại; trong trờng hợp
này các quy định của pháp luật dân sự, pháp
luật tố tụng dân sự cũng đợc áp dụng để
giải quyết yêu cầu đòi bồi thờng thiệt hại.
Nh vậy, khi xét xử các vụ án hành chính,
tòa án cũng có quyền quyết định vấn đề bồi
thờng thiệt hại khi đợc ngời khởi kiện
yêu cầu. Những thiệt hại này phát sinh từ
quyết định hành chính, hành vi hành chính
bất hợp pháp mà tòa án đ tuyên. Mức bồi


nghiên cứu - trao đổi

38 - Tạp chí luật học

thờng thiệt hại, đối tợng đợc bồi thờng,
thời hạn bồi thờng do tòa án xác định theo
quy định của pháp luật dân sự và tố tụng dân
sự.
Ngoài ra, hội đồng xét xử sơ thẩm cũng
có quyền ra quyết định tạm đình chỉ và đình
chỉ vụ án nếu thấy có căn cứ đợc quy định
tại Điều 40 và Điều 41 Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính.
3. Một số vớng mắc liên quan đến
vấn đề quyền hạn của tòa án trong xét xử
sơ thẩm các vụ án hành chính
Những khiếm khuyết trong pháp luật
hiện hành liên quan đến vấn đề quyền hạn
của tòa án trong xét xử sơ thẩm các vụ án
hành chính đ gây ra không ít những khó
khăn cho công tác xét xử hiện nay. Dới đây
chúng tôi xin nêu ra một số nội dung có tính
chất điển hình.
3.1. Phạm vi quyền hạn kiểm tra của tòa
án đối với quyết định hành chính, hành vi
hành chính
Về phơng diện lí luận, khi xét xử các vụ
án hành chính, thông thờng, tòa án chỉ kiểm
tra tính hợp pháp mà không kiểm tra tính hợp
lí của các quyết định hành chính, hành vi
hành chính bị khiếu kiện. Tuy nhiên, trên
thực tế, tòa án rất cần có quy định cụ thể của

pháp luật để xác định rằng tòa án có hay
không có quyền kiểm tra tính hợp lí của các
quyết định hành chính, hành vi hành chính bị
kiện. Điều này rất quan trọng, bởi lẽ, trong
trờng hợp tòa án thấy rõ ràng quyết định
hành chính, hành vi hành chính bị kiện là bất
hợp lí, liệu tòa án có thể hủy quyết định hành
chính hoặc đình chỉ hành vi hành chính bị
kiện vì lí do bất hợp lí đó không?
Có ý kiến cho rằng, các quy định của
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính cũng đ chỉ cho chúng ta thấy là tòa án
chỉ có quyền kiểm tra tính hợp pháp của các
quyết định hành chính, hành vi hành chính.
Để chứng tỏ điều này, ngời ta viện dẫn Điều
1 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
hành chính trong đó có đoạn có quyền
khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu tòa án
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Chúng tôi cho rằng, quy định này cha nói
một cách trực tiếp phạm vi quyền hạn kiểm
tra của tòa án đối với các quyết định hành
chính, hành vi hành chính bị kiện. Vấn đề
này có thể tham khảo Luật tố tụng hành
chính của nớc Cộng hoà nhân dân Trung
Hoa với việc quy định nguyên tắc trong xét
xử các vụ án hành chính là tòa án xét xử các
việc hành chính bằng việc thẩm tra tính hợp
pháp của các quyết định hành chính, hành vi
hành chính

(1)
.
3.2. Những căn cứ xác định quyết định
hành chính, hành vi hành chính bất hợp
pháp
Để đánh giá tính hợp pháp của các quyết
định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu
kiện, tòa án cần thiết phải xác định những
căn cứ cụ thể để đánh giá tính hợp pháp của
chúng. Đây là vấn đề phức tạp nhng cho
đến nay, trên thực tế, vẫn cha có văn bản
pháp luật nào của cơ quan nhà nớc có thẩm
quyền hớng dẫn cụ thể. Vì lí do này, khi xét
xử các vụ án hành chính, tòa án còn gặp
những khó khăn, lúng túng khi quyết định
việc giữ nguyên hay phải hủy quyết định
hành chính, đình chỉ hành vi hành chính bị
khiếu kiện.
Thông thờng về mặt lí thuyết, tính hợp
pháp của quyết định hành chính, hành vi
hành vi hành chính đợc đánh giá dựa trên
một số căn cứ sau đây:
- Quyết định hành chính hoặc hành vi
hành chính phải đợc ban hành hoặc thực
hiện bởi chủ thể có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật. Ví dụ: Quyết định của
chủ tịch ủy ban nhân dân huyện về việc đa
ngời vào trờng giáo dỡng là quyết định
bất hợp pháp vì chủ tịch ủy ban nhân dân



nghiên cứu - trao đổi
Tạp Chí luật học - 39

huyện không có thẩm quyền thực hiện công
việc này.
- Nội dung của các quyết định hành
chính hoặc hành vi hành chính phải hợp
pháp. Điều này có nghĩa là nội dung của các
quyết định hành chính, hành vi hành chính
phải phù hợp với các quy định của pháp luật
hiện hành.
- Quyết định hành chính phải đợc ban
hành theo đúng trình tự, thủ tục, dới hình
thức đợc pháp luật quy định. Hành vi hành
chính phải thực hiện theo đúng trình tự, thủ
tục đợc pháp luật quy định. Ví dụ: Khi xử
phạt hành chính đối với ngời vi phạm với
mức phạt là 2.000.000 đồng thì ngời xử
phạt phải tiến hành lập biên bản vi phạm
hành chính trớc khi ban hành quyết định xử
phạt. Nếu không tiến hành lập biên bản mà
ra quyết định xử phạt hành chính thì quyết
định xử phạt hành chính trong trờng hợp
này bị coi là bất hợp pháp vì đ không tuân
thủ theo thủ tục đ đợc pháp luật quy định.
Tuy nhiên, cũng cần lu ý rằng, trong
quản lí hành chính nhà nớc, thông thờng
về một vấn đề có nhiều văn bản quy phạm
phạm pháp luật của các cơ quan có thẩm

quyền khác nhau cùng quy định. Trong
nhiều trờng hợp các văn bản này không
thống nhất mà có sự mâu thuẫn với nhau về
mặt nội dung. Vấn đề đặt ra là, khi xét xử,
tòa án sẽ phải căn cứ vào văn bản quy phạm
pháp luật nào để đánh giá tính hợp pháp của
quyết định hành chính, hành vi hành chính bị
kiện? Theo hớng dẫn của Công văn số
39/KHXX do Tòa án nhân dân tối cao ban
hành ngày 6/7/1998 thì căn cứ để xem xét
quyết định hành chính, hành vi hành chính
đúng hay sai (nói cách khác là hợp pháp hay
bất hợp pháp) là văn bản quy phạm pháp luật
có giá trị pháp lí cao nhất đang có hiệu lực
thi hành tại thời điểm có quyết định hành
chính, hành vi hành chính bị khiếu kiện. Vì
thế, để có căn cứ pháp luật đúng đắn, tòa án
phải xác minh đầy đủ những văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan tại thời điểm
quyết định hành chính, hành vi hành chính bị
kiện để từ đó xác định chính xác văn bản có
giá trị pháp lí cao nhất tại thời điểm đó. Đây
là công việc không đơn giản đối với các
thẩm phán xét xử hành chính.
Vấn đề thực tế khác mà hiện nay cơ quan
xét xử rất quan tâm là cần xử lí nh thế nào
đối với các quyết định hành chính bị kiện vì
lí do vi phạm hình thức, thủ tục ban hành. Về
mặt lí thuyết, nh đ nêu trên, các quyết định
hành chính vi phạm hình thức, thủ tục ban

hành đều bị coi là bất hợp pháp và cần phải
hủy. Tuy nhiên, trên thực tế, tình trạng vi
phạm về thủ tục ban hành quyết định hành
chính xảy ra còn nhiều, nhất là việc ban hành
các quyết định trong xử lí vi phạm hành
chính. Theo quy định của Pháp lệnh xử lí vi
phạm hành chính, trong trờng hợp phạt tiền
từ 20.000 đồng trở lên, cán bộ có thẩm
quyền xử phạt đều phải lập biên bản vi phạm
hành chính trớc khi ra quyết định xử phạt.
Trong thời hạn 15 ngày hoặc nếu có tình tiết
phức tạp là 30 ngày kể từ ngày lập biên bản,
cán bộ có thẩm quyền xử phạt phải ra quyết
định xử phạt đối với ngời vi phạm. Tuy vậy,
trên thực tế, trong nhiều trờng hợp, việc lập
biên bản vi phạm hành chính là rất khó khăn
(do có sự chống đối từ phía ngời vi phạm,
ngời vi phạm cố tình không kí vào biên
bản ) nhng cán bộ có thẩm quyền vẫn phải
ra quyết định xử phạt. Trờng hợp vi phạm
về thời hạn ra quyết định xử phạt hành chính
cũng xảy ra khá nhiều trên thực tế. Vậy có
nên coi các quyết định hành chính trong
trờng hợp này là bất hợp pháp hay không?
Trên thực tế, các tòa án giải quyết vấn đề này
không thống nhất. Có thẩm phán cho rằng đó
là quyết định hành chính bất hợp pháp cần
phải hủy. Ngợc lại, có thẩm phán lại xác
định quyết định hành chính đó vẫn đợc coi
là hợp pháp cần phải giữ nguyên nếu không

sẽ gây ra nhiều khó khăn cho cơ quan hành
chính trong việc ban hành quyết định hành


nghiên cứu - trao đổi
40 - Tạp chí luật học

chính mới thay thế cho quyết định hành
chính bị hủy. Chúng tôi cho rằng Tòa án
nhân dân tối cao cần sớm có các hớng dẫn
cụ thể để tòa án các cấp có thể áp dụng thống
nhất trong hoạt động xét xử của mình.
3.3. Quyền hạn của tòa án đối với các văn
bản quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng quy
phạm pháp luật hoặc những việc làm khác trái
pháp luật mà tòa án phát hiện ra trong quá
trình xét xử các vụ án hành chính
Thực tiễn xét xử đặt ra vấn đề là trong
quá trình điều tra, xác minh các tình tiết của
vụ án, nếu tòa án phát hiện ra những văn bản
quy pháp luật, văn bản áp dụng quy phạm
pháp luật hoặc những việc làm trái pháp luật
khác của các cơ quan, cán bộ có thẩm quyền
thì tòa án có những quyền hạn gì trong việc
xử lí đối các văn bản và hành vi nói trên?
Hiện nay đang có hai quan điểm trái
ngợc nhau về vấn đề này. Quan điểm thứ
nhất cho rằng, tòa án chỉ phán quyết về tính
hợp pháp của các quyết định hành chính,
hành vi hành chính là đối tợng bị khởi kiện

hành chính, có nghĩa là tòa án chỉ giải quyết
yêu cầu của ngời khởi kiện chứ không đề
cập các văn bản hoặc hành vi khác không
phải là đối tợng mà ngời khởi kiện yêu
cầu. Ví dụ: Trong vụ kiện về quyết định xử
phạt vi phạm hành chính của cán bộ có thẩm
quyền, ngời khởi kiện là ngời không chấp
hành quyết định hành chính khác nên đ bị
cán bộ có thẩm quyền xử phạt. Thực tế quyết
định hành chính mà ngời đó phải chấp hành
lại là quyết định trái pháp luật. Vì thế, quyết
định xử phạt hành chính bị kiện là quyết định
hành chính bất hợp pháp. Ngời khởi kiện
chỉ kiện quyết định xử phạt hành chính này
nên tòa án chỉ phán quyết về quyết định xử
phạt này mà không đề cập quyết định hành
chính bất hợp pháp mà ngời đó lẽ ra phải
chấp hành nhng thực tế đ không chấp
hành. Quan điểm thứ hai cho rằng, trong quá
trình xét xử, nếu tòa án phát hiện ra văn bản
pháp luật hoặc hành vi trái pháp luật thì tòa
án có quyền kiến nghị với các cơ quan, cán
bộ có thẩm quyền đ ban hành văn bản hoặc
có hành vi trái pháp luật hủy bỏ hoặc chấm
dứt hành vi trái pháp luật và áp dụng các
biện pháp khôi phục lại quyền, lợi ích hợp
pháp đ bị xâm phạm. Chúng tôi cho rằng
quan điểm thứ hai là hợp lí, phù hợp với mục
tiêu, nhiệm vụ chung đặt ra cho ngành tòa
án. Thực tế, trong Công văn số 39/KHXX

ngày 6/7/1996 nêu trên, Tòa án nhân dân tối
cao cũng đ hớng dẫn rằng trong trờng
hợp văn bản quy phạm pháp luật làm căn cứ
ban hành quyết định hành chính, hành vi
hành chính trái với văn bản quy phạm pháp
luật cấp trên (nói cách khác là trái pháp luật),
tòa án cần kiến nghị với cơ quan đ ra văn
bản quy phạm pháp luật đó tự hủy bỏ; nếu
trong thời gian nhất định mà vẫn cha hủy
bỏ thì yêu cầu viện kiểm sát áp dụng các quy
định tại Chơng II Luật tổ chức viện kiểm sát
nhân dân kháng nghị văn bản nói trên. Tuy
nhiên, Công văn nêu trên mới chỉ đề cập
trờng hợp văn bản quy phạm pháp luật làm
căn cứ cho việc ban hành quyết định hành
chính hoặc là cơ sở cho việc thực hiện hành
vi hành chính là trái pháp luật. Trên thực tế,
trong quá trình xét xử, tòa án còn phát hiện
ra cả những văn bản áp dụng quy phạm pháp
luật hoặc hành vi trái pháp luật có liên quan
đến quyết định hành chính, hành vi hành
chính bị kiện. Song hiện tại vẫn cha có văn
bản hớng dẫn tòa án các cấp đờng lối giải
quyết cụ thể. Theo chúng tôi, Tòa án nhân
dân tối cao cần có văn bản hớng dẫn về vấn
đề nêu trên theo hớng trao cho tòa án quyền
kiến nghị với cơ quan, cán bộ có thẩm quyền
hoặc đề nghị viện kiểm sát kháng nghị nhằm
hủy bỏ văn bản, chấm dứt hành vi trái pháp
luật và khôi phục lại các quyền, lợi ích hợp

pháp đ bị xâm hại./.

(1). Xem Điều 5 Luật tố tụng hành chính nớc Cộng
hoà nhân dân Trung Hoa (Bản dịch tiếng Việt của Bộ
t pháp).

×