Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

LUẬN VĂN: Chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (829.22 KB, 103 trang )













LUẬN VĂN:

Chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm
sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trong
xét xử phúc thẩm các vụ án hỡnh sự










Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tư pháp là một nhiệm vụ quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta rất quan


tâm, trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng đề ra. Đảng ta đã có một số
văn bản định hướng cho công tác này: Đó là Chỉ thị 53-CT ngày 21/3/2000; Nghị quyết số
08-NQ/TW ngày 2/1/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị.
Theo đó một trong những nội dung cơ bản là đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội,
hạn chế thấp nhất tình trạng Viện kiểm sát truy tố, Toà án tuyên bị cáo không phạm tội.
Để đạt được mục đích là không truy tố, xét xử oan người vô tội. Nhà nước phải tạo
ra cơ chế về tổ chức hoạt động cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố
tụng; cũng như đòi hỏi các cơ quan, người tiến hành tố tụng phải tiến hành điều tra, truy
tố, xét xử đúng người đúng tội. Trong đó, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan tiến hành tố
tụng với chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh
vực điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự; phải đảm bảo chất lượng của việc điều tra,
truy tố; không truy tố người không có hành vi phạm tội.
Việc truy tố của Viện kiểm sát đối với một người để đưa ra tòa xét xử phải đảm
bảo các điều kiện theo luật định. Việc truy tố phải đảm bảo tính có căn cứ, có chứng cứ
đầy đủ, đảm bảo đúng quy định của pháp luật (là pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự).
Một khi điều tra nhưng thiếu chứng cứ, chứng cứ không rõ ràng, chính xác; không được thu
thập một cách hợp pháp hoặc với con người cụ thể, hành vi cụ thể của họ không đảm bảo các
quy định để xác định là một tội phạm quy định trong BLHS thì không thể bị truy tố xét xử.
Tuy nhiên trong quá trình tiến hành tố tụng một vụ án hình sự thì mỗi giai đoạn tố
tụng có vai trò, vị trí quan trọng khác nhau. Ví như để xét xử đúng thì trước hết việc điều tra
phải đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật Tuy nhiên việc điều tra theo pháp luật mới chỉ là
giai đoạn đầu, việc có kết tội bị cáo hay không phải được tiến hành tại phiên tòa. Kết quả
điều tra xét hỏi tại phiên tòa là căn cứ, là cơ sở để kết tội bị cáo hay tuyên bố bị cáo không
phạm tội. Do vậy, việc thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự của

Viện kiểm sát, Kiểm sát viên là rất quan trọng; đây là khâu quyết định của hoạt động tố tụng
để Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử ra các quyết định đúng pháp luật.
Mặt khác, quy định của pháp luật tố tụng hình sự thì việc xét xử các vụ án hình sự
theo nguyên tắc xét xử hai cấp. Do đó, sau khi vụ án đã được xét xử sơ thẩm, nếu có
kháng cáo, kháng nghị vụ án sẽ được xét xử lại theo trình tự phúc thẩm. Nguyên tắc hai

cấp xét xử giúp cho việc xét xử của Toà án chính xác hơn, quyền và lợi ích hợp pháp của
bị cáo, của những người tham gia tố tụng khác theo luật định được đảm bảo. Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 quy định về thẩm quyền xét xử của Toà án các cấp - Theo Điều
170 thì Toà án nhân dân cấp huyện và Toà án quân sự khu vực (gọi tắt là Toà án cấp
huyện) được xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội
phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng. Theo đó Toà án cấp huyện được xét xử
các tội phạm có khung hình phạt đến 15 năm. Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án quân
sự khu vực (gọi tắt là Toà án cấp tỉnh) xét xử những vụ án còn lại - cá biệt có thể xét xử
vụ án thuộc thẩm quyền cấp dưới khi thấy cần thiết. Như vậy, xét xử các vụ án thuộc cấp
tỉnh là những vụ án thuộc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thường là những vụ án phức
tạp, có nhiều bị cáo tham gia và địa bàn hoạt động tội phạm rất rộng trong quốc gia hoặc
có thể là tội phạm xuyên quốc gia, do đó, khi có kháng án, kháng nghị thì xét xử phúc
thẩm của Toà án tối cao cũng đều là những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp. Vì
vậy, đòi hỏi công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm của kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải không ngừng nâng cao chất lượng, đổi mới về
phương thức hoạt động, có tư duy mang tính chiến lược mới đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay; đảm bảo cho việc xét xử chính xác,
đúng pháp luật, sửa chữa, khắc phục được các thiếu sót của sơ thẩm cấp tỉnh mà lý do có
thể do nhận thức chưa đầy đủ, trách nhiệm chưa cao hoặc có thể do quy định, hướng dẫn
áp dụng pháp luật chưa đầy đủ.
Do đó, việc nghiên cứu đề tài " Chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm
sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hỡnh sự "
làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn

Theo tác giả được biết thì ngoài một số đề tài nghiên cứu và luận văn thạc sĩ có đề
cập đến việc thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự nói chung.
Trong một vài năm qua ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao có chuyên đề của Vụ thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự đề cập đến việc "Nâng cao chất lượng công tác
thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự các vụ án hình sự có bị cáo Tòa án

tuyên không phạm tội". Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại
Hà Nội có đề tài "Nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự".
Các đề tài nghiên cứu liên quan đến chất lượng của cán bộ công chức nhà nước
nói chung có các công trình tiêu biểu sau đây:
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức chính quyền các xã miền núi đặc
biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh Hà Giang (2005), Lê Đình Vĩ, Luận văn thạc sĩ.
- Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình
sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2006), Vũ Viết Tuấn, Luận văn thạc sĩ.
- Nâng cao chất lượng bồi dưỡng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh Kiên
Giang hiện nay (2006), Luận văn thạc sĩ của Võ Thị Mỹ Dung.
- Nâng cao năng lực quản lý nhà nước của cán bộ công chức chính quyền cấp xã ở tỉnh
Hà Tĩnh hiện nay (2006), Luận văn thạc sĩ của Trần ánh Dương.
- Nâng cao chất lượng thực hiện quy chế dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Hưng
Yên giai đoạn hiện nay (2006), Luận văn thạc sĩ của Ngô Thị Hòa.
- Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp quyền
sử dụng đất tại Toà án nhân dân ở nước ta hiện nay (2006), Luận văn thạc sĩ của Nguyễn
Thị Tú.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước Cộng
hoà dân chủ nhân dân Lào (2006), Luận văn thạc sĩ của Suc Ni Lan Đon Kun Lạ Vông.
- Nâng cao chất lượng công tác pháp chế trong ngành công nghiệp ở nước ta hiện
nay (2007), Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Tiến Vỵ…
Tuy nhiên các nghiên cứu, bài viết và chuyên đề nêu trên mới đề cập đến những
khía cạnh nhất định hoặc đề cập những vấn đề chung nhất. Đề tài này chỉ tập trung đến

những vấn đề về chất lượng công tác thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện
Kiểm sát nhân dân trong việc xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự các vụ án hình sự.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong xét xử phúc
thẩm các vụ án hình sự nhằm đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không làm oan sai người vô tội.

- Phạm vi nghiên cứu của luận văn: luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề cơ bản
liên quan đến chất lượng thực hành quyền công tố các vụ án hình sự ở cấp phúc thẩm
thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc Viện Kiểm
sát truy tố, Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội, đồng thời khắc phục được các sai sót của
cấp sơ thẩm, đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng pháp luật không làm oan sai. Đề tài không
nghiên cứu việc thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự nói chung ở những
giai đoạn tố tụng trước đó.
Thời gian nghiên cứu: Đề tài xác định nghiên cứu trong thời gian sau khi thi hành
bộ luật hình sự 1999 và bộ luật tố tụng hình sự 2003; việc áp dụng các quy định của 2 bộ
luật này (phần thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự
thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao); trong thực tiễn hoạt động của ngành kiểm sát nhân
dân trong thời gian qua.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những luận
cứ lý luận, các điều kiện - phương pháp bảo đảm việc truy tố, xét xử hình sự đúng người đúng
tội, đúng pháp luật - không làm oan người vô tội.
Quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta cũng như lý
luận chung về Nhà nước, pháp luật nhất là chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam. Từ đó xây dựng đề ra những quan điểm và một số giải pháp cơ bản để
nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân trong việc xét xử hình sự các vụ án hình sự, đảm
bảo cho việc xét xử đúng người đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan, sai cho người

không phạm tội. Góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự
của bộ luật hình sự 1999; bộ luật tố tụng hình sự 2003; đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp
mà Nghị quyết 48, Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị đã đề ra.
4.2. Nhiệm vụ của luận văn
Làm rõ một số vấn đề về lý luận cơ bản của việc thực hành quyền công tố và kiểm
sát xét xử các vụ án hình sự.

- Phân tích làm rõ những vấn đề trong hoạt động tố tụng hình sự để nâng cao hiệu
quả, chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm hình sự
nhằm hạn chế thấp nhất tình trạng sau khi đã được xét xử phúc thẩm nhưng tình trạng
khiếu nại oan sai vẫn còn phổ biến.
- Phân tích, đánh giá thực trạng, những thiếu sót tồn tại trong hoạt động thực hành
quyền công tố của lực lượng kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong công tác
kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự.
- Đề xuất các quan điểm, luận chứng các giải pháp để nâng cao chất lượng thực
hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự, hạn chế đến mức
thấp nhất các sai sót trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự ở cấp tối cao.
- Chỉ ra những bất cập quy định trong bộ luật hình sự, bộ luật tố tụng hình sự và
thực tiễn của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự liên
quan đến tình trạng án phúc thẩm còn oan sai.
- Đề ra các giải pháp cụ thể để thiết thực nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố của kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ
án hình sự.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước và pháp luật. Đường lối quan điểm của Đảng ta trong xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN và cải cách tư pháp hiện nay. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân. Bảo đảm không làm oan người vô tội và không để lọt kẻ phạm tội.
6. Đóng góp mới của luận văn

Là việc nghiên cứu chuyên sâu dưới góc độ lý luận chung về Nhà nước và pháp
luật. Đề cập trực tiếp và tương đối toàn diện các vấn đề về lý luận, thực tiễn trong thực
hiện pháp luật, đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không làm oan
người vô tội.
Đề tài sẽ đặt ra một số vấn đề góp phần sửa đổi bộ luật hình sự, bộ luật tố tụng
hình sự theo hướng cụ thể hơn, rõ ràng hơn để việc thực thi pháp luật của các cơ quan cũng
như người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng áp dụng thống nhất - hạn chế

việc xét xử không đúng pháp luật. Đồng thời chỉ ra các nguyên nhân: Khách quan, chủ quan
dẫn đến việc xét xử chưa đúng pháp luật ở cấp phúc thẩm. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn
luận văn đặt ra những giải pháp cụ thể nhất là các giải pháp trong quản lý chỉ đạo điều hành
nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án
hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
7. ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận văn
- Nghiên cứu một số khái niệm, phạm trù liên quan đến thực hành quyền công tố
của Viện kiểm sát nhân dân nói chung và công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát
xét xử các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. Xác định những vấn đề liên quan
đến điều kiện đảm bảo chất lượng quyền công tố Nhà nước giao cho ngành Kiểm sát
chống oan sai trong truy tố xét xử các vụ án hình sự.
- ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có ý nghĩa tham khảo cho các cơ quan có thẩm
quyền nói chung và cho ngành Kiểm sát nói riêng trong hoàn thiện pháp luật hình sự, tố
tụng hình sự cũng như đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo điều hành của ngành Kiểm sát
đối với công tác này - góp phần làm tài liệu cho nghiên cứu, giảng dạy của các cơ sở đào
tạo của ngành luật.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 8 tiết.

Chương 1
cơ sở lý luận về chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên viện kiểm sát
nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự

1.1. khái niệm thực hành quyền công tố và nhiệm vụ quyền hạn của kiểm sát
viên viện kiểm sát nhân dân tối cao trong giai đoạn xét xử phúc thẩm các vụ án hình
sự
1.1.1. Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố
Quyền công tố trong quá trình tồn tại cùng chiều dài lịch sử, cho đến ngày nay vẫn
còn đang có nhiều quan điểm khác nhau. Tuy vậy, tựu chung lại chúng tôi thấy một số

quan điểm cơ bản, trước khi đưa ra khái niệm quyền công tố.
Quan điểm cho rằng, quyền công tố gắn liền với sự phát triển khoa học pháp lý.
Khi mà các khái niệm dân chủ và quyền con người được đề cao, đòi hỏi cần có một cơ
quan Nhà nước đứng ra bảo vệ quyền xét xử. Đại diện tư tưởng này phải kể tới F.
Fosthoft viết trong cuốn “Sự phát triển của các cơ quan tư pháp ở bang Bắc sông Ranh”
[16, tr.272].
Quan điểm thứ hai lại đưa ra quyền công tố là một quyền độc lập, chỉ có trong xã hội
dân chủ, nhằm bảo vệ các quyền của các chủ thể quan hệ pháp luật khi tham gia quá trình tố
tụng tại phiên toà và thực hiện các quyền theo quy định của pháp luật (điều này cho thấy,
quyền công tố có thể nằm trong cơ cấu của tối cao pháp viện). Cơ quan công tố là “mối liên lạc
giữa các cơ quan công quyền với quần chúng, giữa các cơ quan công quyền với nhau nhằm
phục vụ lợi ích hợp pháp của các bên theo quy định của pháp luật” [17, tr.169, 182-1990, 285-
300]. Trong cuốn sách này, Hessische và cộng sự đã định nghĩa quyền công tố là một loại
quyền năng mà khi có sự phân chia triệt để ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thì
phải có một cơ quan đặc biệt để thực hiện quyền tư pháp nhưng “chống” lại quyền xét xử
nhằm bảo vệ các đạo luật và các thể nhân bị toà xét xử. Đó là quyền công tố.
Quan điểm thứ ba: Sau khi chế độ phong kiến tan rã, con người đã tách toà án ra
khỏi hệ thống các cơ quan hành pháp, cùng với sự phát triển của hệ thống pháp luật thì
lịch sử công tố mới xuất hiện. Tuy quyền công tố không xuất hiện cùng với Nhà nước

nhưng lịch sử của nó gắn liền với quá trình phát triển của Nhà nước và sự phân chia
quyền lực trong bộ máy Nhà nước, gắn với sự phát triển và văn minh của pháp luật. Còn
trước đó việc xét xử do các quan chức hành chính kiêm nhiệm và họ đại diện cho nhà vua
để xét xử, chứ không đại diện cho công quyền. Theo tác giả Vũ Mộc viết: Quyền công tố
là người đại diện cho Nhà nước, đại diện công quyền để đưa các vụ việc vi phạm trật tự
pháp luật thống trị ra cơ quan xét xử (ra toà án). Quyền công tố không xuất hiện cùng với
Nhà nước mà nó chỉ xuất hiện cùng toà án với tư cách là cơ quan xét xử chuyên nghiệp
và độc lập [19, tr.118 - 119].
Quan điểm thứ tư: Quyền công tố là một khái niệm pháp lý, gắn liền với bản chất
của Nhà nước và xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật. Quyền công tố

tồn tại trong tất cả các kiểu Nhà nước, từ Nhà nước chủ nô đến các Nhà nước đại diện
[28, tr.86].
Qua những quan điểm trên, tựu chung chúng tôi thấy ba quan điểm đầu các tác giả
đều dựa trên cơ sở chung khi xác định sự xuất hiện quyền công tố, gắn quyền công tố với
vấn đề dân chủ. Theo quan điểm này ta thấy quyền công tố là kết quả trực tiếp và tất yếu
của quá trình vận động xã hội ở thời điểm xuất hiện dân chủ với nghĩa là một thể chế. Từ
những kinh nghiệm thực tế và kết quả của sự tổng kết những lý thuyết chung cho thấy sự
xuất hiện của quyền công tố chưa có sức thuyết phục bởi tính thiếu căn cứ. Từ thực tế khi
nghiên cứu Nhà nước và pháp luật thế giới cho thấy các cơ quan chuyên trách thực hiện
quyền công tố xuất hiện khá muộn, gắn liền với đấu tranh chống lại chế độ chuyên chế,
phi dân chủ, thực hiện sự chia quyền lực trong tổ chức bộ máy Nhà nước. Tuy vậy, chúng
ta cũng không nên đồng nhất giữa sự ra đời cơ quan chuyên trách thực hiện quyền công
tố (là một bộ phận thuộc cơ cấu bộ máy nhà nước) với sự ra đời của quyền công tố (khái
niệm pháp lý). Quan điểm thứ tư đã cho ta thấy quyền công tố luôn gắn với bản chất của
nhà nước, là một bộ phận cấu thành và không thể tách rời của công quyền. Quan điểm
này coi quyền công tố là quyền nhân danh nhà nước (nhân danh công quyền) thực hiện
việc buộc tội đối với những người đã thực hiện những hành vi phạm tội (theo quan điểm
của giai cấp thống trị xã hội). Như vậy, khi Nhà nước xuất hiện thì đồng thời cũng dẫn tới

sự ra đời của quyền công tố và Nhà nước nào cũng ban hành pháp luật để quản lý xã hội
nhằm đấu tranh với tội phạm theo quan điểm của giai cấp thống trị.
Quyền công tố có liên hệ chặt chẽ với pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự, trong
đó quy định tất cả các hành vi nguy hiểm nào cho xã hội là tội phạm. Bất kỳ giai cấp nào
thống trị có được quyền lực Nhà nước đều hết sức quan tâm đến lĩnh vực pháp luật hình sự.
Bởi vì pháp luật hình sự là công cụ để chuyên chính giai cấp hữu hiệu nhất. Khi một hành
vi được coi là phạm tội được thực hiện sẽ làm phát sinh một loại quan hệ pháp luật giữa
một bên là Nhà nước và bên kia là người phạm tội. Trong mối quan hệ này Nhà nước là
chủ thể sử dụng quyền của mình (quyền lực công) để truy cứu trách nhiệm hình sự và áp
dụng hình phạt đối với người phạm tội. Người phạm tội là người bị truy cứu trách nhiệm
hình sự và gánh chịu những chế tài hình sự do Nhà nước quy định và áp dụng sự buộc tội

nhân danh Nhà nước được gọi là quyền công tố.
Quyền công tố là một khái niệm pháp lý gắn liền với bản chất của Nhà nước nó
xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật, tồn tại khi còn Nhà nước và mất
đi khi không còn Nhà nước [26].
Khi nghiên cứu về khái niệm quyền công tố, chúng tôi thấy sự xuất hiện khái niệm
có mối liên hệ chặt chẽ với khái niệm quyền công tố, đó là tư tố. Cả hai khái niệm này
cùng xuất hiện, tồn tại và phát triển, có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Trong quá trình tìm hiểu lịch sử Nhà nước và pháp luật thế giới cho chúng tôi
thấy, “công tố” và “tự tố” là khái niệm pháp lý xuất hiện rất sớm trong pháp luật của các
Nhà nước cổ đại. Tư tố là một chế định pháp lý thuộc loại cổ xưa nhất mà pháp luật cổ
đại cho phép người bị hại hoặc người thân thích của họ sử dụng để khởi kiện, khởi tố
chống lại người đã thực hiện những hành vi phạm tội xâm phạm tới các quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân. Quyền này của người bị hại (hoặc người thân thích của họ) được
gọi là “quyền tư tố”; người đứng ra khởi tố vụ án được gọi là “tư tố viên” và các vụ án
như thế này gọi là “án tư tố” [5, tr.171-179].
Những vụ án tư tố, các tư tố viên giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ quá trình
giải quyết vụ án. Họ không chỉ toàn quyền cung cấp các chứng cứ, thực hiện việc buộc
tội bị cáo trước tòa và đề nghị chế tài hình sự, bồi thường thiệt hại đối với người phạm tội

mà còn có thể kết thúc quá trình tố tụng bằng việc hòa giải (thỏa thuận) với người phạm
tội. Quyền tư tố do người bị hại trực tiếp thực hiện nhân danh cá nhân để bảo vệ của bản
thân trước tòa (hoặc có thể nhờ người khác thay mặt mình thực hiện quyền này).
Sự ra đời của chế định tư tố trong pháp luật xưa được xuất phát từ quan niệm của
mọi người cho rằng việc bảo vệ các quyền và lợi ích cá nhân bị người khác xâm hại là
việc riêng tư của từng người. Nhà nước không thấy cần thiết phải can thiệp vào những
việc đó. Còn nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của chế định đó là do sự phát triển yếu kém
của pháp luật và Nhà nước lúc bấy giờ. Trong điều kiện như vậy, quyền công tố chỉ được
sử dụng trong một phạm vi hẹp nhằm bảo vệ các lợi ích mang tính chất công cộng của
Nhà nước (của giai cấp thống trị và của các cộng đồng (xã hội). Do nhiều yếu tố nên tư tố
ngày càng bị thu hẹp. Điều này chúng ta cũng dễ hiểu vì: Khi người ta muốn thực hiện

một vụ án tư tố phải rất tốn kém về thời gian, tiền của, công sức cho quá trình thu thập
chứng cứ, đảm bảo sự có mặt của nhân chứng cho đến việc thực hiện việc buộc tội trước
Tòa án. Như thế, không phải ai cũng đủ điều kiện và khả năng làm việc trên, nếu thuê
luật sư thì rất tốn kém không phải ai cũng làm được. Mặt khác pháp luật lại cho hòa giải,
thỏa thuận với người phạm tội đã dẫn tới tình trạng nhiều vụ án nghiêm trọng (xét về trật
tự xã hội) không bị xét xử và trừng trị. Điều này làm cho pháp luật không nghiêm minh,
công bằng xã hội không được đảm bảo. Từ những nguyên nhân trên, dẫn đến Nhà nước
thấy cần thiết phải can thiệp và quá trình án tư tố trong những trường hợp người bị hại
không muốn thực hiện quyền tư tố, nhằm bảo đảm lợi ích công.
Như vậy, trong quá trình phát triển của xã hội cũng như của bộ máy Nhà nước và
pháp luật, cơ chế vận hành của hệ thống tư pháp hình sự đã có những thay đổi căn bản.
Từ chỗ vận hành theo quyền tư tố là chủ yếu, tố tụng hình sự chuyển sang vận hành chủ
yếu dựa vào quyền công tố. Vai trò công tố càng trở nên quan trọng và đứng ra giải quyết
các vụ án hình sự ở hầu khắp các quốc gia như ngày nay. Như vậy, công tố viên vừa là
người đại diện cho công quyền (nhân danh Nhà nước), vừa thay mặt người bị hại đứng ra
buộc tội bị cáo, công tố viên hành động vì xã hội và bảo vệ không chỉ lợi ích của Nhà
nước, lợi ích của cá nhân và lợi ích của cộng đồng, nhằm đảm bảo sự công bằng của xã
hội.

Trước những ưu việt trên, hầu hết các quốc gia trên thế giới, tư tố tồn tại song
song với công tố. Nhưng phạm vi và vai trò áp dụng của nó dần dần thu hẹp và chuyển
xuống hàng thứ hai sau công tố. Nội dung của quyền tư tố cũng dần dần bị thu hẹp và
thông thường chỉ bao gồm quyền yêu cầu khởi tố vụ án, cung cấp chứng cứ, yêu cầu bồi
thường thiệt hại và thực hiện buộc tội bị cáo trước Tòa án đối với bị cáo trong các vụ án
tư tố. Trong một số ít quốc gia theo hệ thống pháp luật lục địa, tư tố vẫn giữ vai trò quan
trọng trong việc giải quyết một số loại án tư tố. Tại các quốc gia này chỉ có người bị hại
mới có quyền khởi tố đối với các vụ án ít nghiêm trọng như tội vu khống, làm nhục người
khác, gây thương tích nhẹ hoặc gây thiệt hại không lớn về tài sản… Trong các vụ án này
các công tố viên được gọi là bên chính tố, người bị hại được gọi là bên phụ tố (người truy
tố phụ), thực hiện việc buộc tội bị cáo trước Tòa án hoàn toàn độc lập với công tố viên

(Bộ Tư pháp - đã dẫn).
Khái niệm quyền công tố được Hiến pháp năm 1980 là văn bản pháp lý đầu tiên
của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đưa ra thuật ngữ “Thực hành quyền
công tố” khi đề cập tới chức năng của Viện kiểm sát nhân dân (Điều 138). Thuật ngữ này
lại được nhắc tới ở Điều 1 và Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981.
Như vậy, trong các hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, bên cạnh khái niệm truyền
thống “kiểm sát việc tuân theo pháp luật” đã xuất hiện “quyền công tố” và “thực hành
quyền công tố”. Từ đó đến nay đã có nhiều tài liệu giảng dạy, nhiều bài viết đăng trên các
tạp chí khoa học đề cập tới khái niệm này. Song cho tới nay, khi chúng ta đang trong quá
trình đẩy mạnh cải cách tư pháp, vẫn chưa đạt được sự thống nhất trong việc nhận thức
về vấn đề này. Từ năm 1960 đến nay, ở nước ta đang tồn tại nhiều quan điểm khác nhau
về quyền công tố. Nhưng khái quát lại hiện có 7 quan điểm cơ bản. Trong luận văn này
chúng tôi không nhằm mục đích để tranh luận về các quan điểm cho nên các quan điểm
này chúng tôi sẽ dùng trong những đề tài tham luận sau. Trên mỗi quan điểm khác nhau
đều đưa ra những khái niệm khác nhau về quyền công tố. Mỗi quan điểm đều có những
hạt nhân hợp lý riêng của nó. Tuy vậy, xuất phát từ những căn cứ khoa học, các quy định
của pháp luật, thực tiễn hoạt động của cơ quan tư pháp cũng như kinh nghiệm tổ chức và

hoạt động công tố ở các nước khác cho thấy những quan điểm trên đã bộc lộ một số vấn
đề cần phải nghiên cứu tiếp như:
- Có những quan điểm đánh đồng quyền công tố với chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của Viện kiểm sát, dẫn tới tình trạng mở rộng phạm vi quyền công tố vượt
khỏi lĩnh vực tố tụng hình sự sang lĩnh vực tư pháp khác như dân sự, kinh tế, lao động,
hành chính.
- Những quan điểm coi quyền công tố là một quyền năng, một hình thức thực hiện
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, đến việc xem nhẹ bản
chất của quyền công tố như là một hoạt động độc lập của Viện kiểm sát nhân danh quyền
lực công.
- Hoặc là quá thu hẹp phạm vi quyền công tố, coi quyền công tố là quyền của Viện
kiểm sát truy tố kẻ phạm tội ra tòa và thực hiện quyền buộc tội tại phiên tòa sơ thẩm.

Từ đó cho thấy, điểm hạn chế chung nhất của hầu hết các công trình nghiên cứu về
quyền công tố là không phân định rõ khái niệm, bản chất, nội dung, phạm vi của quyền
công tố, hoạt động thực hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật. Đa số các tác giả đều cho rằng hai chức năng của Viện kiểm sát (chức năng công tố
và chức kiểm sát việc tuân theo pháp luật) như pháp luật trước đây quy định vừa có tính
độc lập tương đối, vừa liên hệ chặt chẽ tác động qua lại, bổ sung cho nhau, giữa chúng có
những nội dung hòa nhập vào nhau, đan xen lẫn nhau không thể tách rời, tạo nên sự
thống nhất trong chức năng của Viện kiểm sát.
Theo ý kiến chúng tôi, để làm rõ khái niệm quyền công tố, phải xuất phát từ lịch
sử Nhà nước và pháp luật thế giới nói chung cũng như lịch sử Nhà nước và pháp luật
Việt Nam nói riêng. Dù muốn hay không muốn chúng ta đều phải thừa nhận Nhà nước ra
đời và tồn tại luôn luôn là đại diện chính thức cho xã hội (xét về mọi phương diện).
Trong xã họi có giai cấp, bất kể xã hội nào, có nhiều loại quan hệ xã hội cùng tồn tại,
nhưng chung quy lại có hai nhóm quan hệ cơ bản, nhóm quan hệ xã hội thể hiện lợi ích
công cộng và nhóm quan hệ xã hội thể hiện lợi ích của từng công dân. Nhà nước nói
chung luôn bảo vệ các quan hệ xã hội liên quan đến lợi ích chung, đến trật tự xã hội
chung và trừng trị những hành vi vi phạm các quan hệ xã hội loại này. Điều này không

phải là vô lý khi các Nhà nước cổ đại và các Nhà nước tư sản hiện đại phân chia pháp
luật thành “công pháp” và “tư pháp”. Công pháp là pháp luật có liên quan đến lợi ích
chung của toàn xã hội còn tư pháp là luật pháp liên quan đến lợi ích của từng công dân.
Nhưng các luật gia Liên Xô và các Nhà nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cho rằng
sự phân chia pháp luật thành công pháp và tư pháp chỉ có tính ước lệ về nguyên tắc
không thừa nhận nó với lập luận cho rằng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
cơ bản thì giữa lợi ích của từng cá nhân và lợi ích của Nhà nước không thể có sự đối lập
mà kết hợp hài hòa. Đồng thời, chính việc thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
đòi hỏi phải mở rộng can thiệp của Nhà nước vào các quan hệ tư pháp. Mặc dù không
thừa nhận sự phân chia hệ thống pháp luật thành “công pháp” và “tư pháp”, nhưng khoa
học pháp lý của các nước xã hội chủ nghĩa đã phân chia hệ thống pháp luật thành các
ngành luật, trên cơ sở dựa vào tính chất của các quan hệ xã hội được quy phạm pháp luật

điều chỉnh như: Luật hình sự, tố tụng hình sự, dân sự, tố tụng dân sự, hành chính, tố tụng
hành chính… Từ những lý thuyết trên, chúng tôi tán thành quan điểm cho rằng, quyền
công tố như bất kỳ quyền (hay nhóm quyền) nào của Viện kiểm sát luôn luôn phải được
xem xét trong mối liên hệ với tính đặc thù của lĩnh vực pháp luật cụ thể nào đó trong hoạt
động của Viện kiểm sát [20, tr.20].
Từ những vấn đề được đưa ra ở trên, chúng tôi cho rằng khái niệm quyền công tố
được thể hiện như sau:
Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về Nhà nước, được Nhà
nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là cơ quan Viện kiểm sát) để
phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để
làm được điều này, cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố phải có trách
nhiệm đảm bảo việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định truy tố bị can
ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa [26, tr.40].
1.1.2. Thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối
cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự
1.1.2.1. Về tính chất của phúc thẩm các vụ án hình sự

Tính chất của phúc thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 là
việc Toà án cấp trên trực tiếp xét lại những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Theo đó, phúc thẩm vụ án hình sự được coi là
một thủ tục tố tụng do luật định nhằm kiểm tra lại tính có căn cứ và tính hợp pháp của
bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
Thông qua thủ tục phúc thẩm, Toà án cấp trên có nhiệm vụ sửa chữa những sai lầm trong
việc áp dụng pháp luật của Toà án cấp dưới… Chính vì vậy, phần thứ tư của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 1988 có tên gọi "Xét lại các bản án và quyết định chưa có hiệu lực
pháp luật theo thủ tục phúc thẩm".
Từ khi thực hiện đường lối cải cách tư pháp với các nội dung được nêu trong các
Nghị quyết của Đảng, hệ thống tư pháp Việt Nam đã có những chuyển đổi mạnh mẽ; nhất
là những vấn đề có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tư

pháp trong tố tụng hình sự. Ngày 26/11/2003, Quốc hội nước Công hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ tư đã thông qua Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, có hiệu
lực từ ngày 01/7/2004. Một trong những điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
là chính thức ghi nhận nguyên tắc "Thực hiện chế độ hai cấp xét xử" tại Điều 20. Quy
định này khẳng định Toà án Việt Nam thực hiện chế độ hai cấp xét xử, phù hợp với thông
lệ chung trên thế giới và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam
đã tham gia ký kết.
Căn cứ để Toà án cấp phúc thẩm có thể mở phiên toà xét xử lại vụ án hoặc quyết
định sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm là kháng cáo, kháng nghị. Nội dung kháng cáo và
quyết định kháng nghị là cơ sở để Toà án cấp phúc thẩm xác định phạm vi xét xử phúc
thẩm.
Thủ tục phúc thẩm là thủ tục xét xử lại những bản án, quyết định chưa có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị (khác thủ tục giám đốc thẩm chỉ là xét lại bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật). Theo thủ tục phúc thẩm thì Toà án phải mở phiên
toà xét xử lại vụ án với sự tham gia đầy đủ thành phần như Kiểm sát viên, bị cáo, người
bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người kháng cáo, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị. Khi đã có kháng cáo, kháng nghị theo

đúng trình tự luật định thì vụ án buộc phải đưa ra xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Đảm bảo
chế độ hai cấp xét xử. Do đó, về tính chất xét xử phúc thẩm là việc Toà án xét xử lại bản
án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Việc xác định xét xử phúc thẩm là xét
xử cấp thư hai là một trong những nội dung rất quan trọng của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003. Vì đây là căn cứ pháp lý để nhà làm luật quy định những vấn đề tiếp theo của
thủ tục này như: Trình tự, thủ tục, thẩm quyền xét xử phúc thẩm. Tuy nhiên, nguyên tắc
hai cấp xét xử không có nghĩa là mọi vụ án hình sự đều phải thông qua xét xử sơ thẩm và
xét xử phúc thẩm mà xét xử phúc thẩm chỉ được tiến hành khi có kháng cáo, kháng nghị
bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật. Bản án và quyết định sơ thẩm có hiệu lực
pháp luật khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà không bị kháng cáo hay kháng nghị.
Khi xét xử phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng
nghị. Nếu xét thấy cần thiết thì Toà án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác

không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án, hoặc quyết định sơ thẩm. Khi xem xét các
phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị, Toà án cấp phúc thẩm phải đảm bảo nguyên
tắc là chỉ được làm lợi cho bị cáo, không được quyết định bất lợi cho bị cáo hoặc thay đổi
bất lợi về quyền của các đương sự khác đã được Toà án cấp sơ thẩm quyết định. Trường
hợp xem xét thấy phần không bị kháng cáo kháng nghị có sai lầm nghiêm trọng thì phải
kiến nghị cấp giám đốc thẩm xem xét quyết định (Điều 241 Bộ luật tố tụng hình sự).
Như vậy, bản chất pháp lý của thủ tục phúc thẩm là thủ tục mà Toà án cấp trên xét xử
lại vụ án hoặc xét lại quyết định của Toà án cấp dưới chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo
hoặc kháng nghị. Khi xét xử phúc thẩm Toà án cấp phúc thẩm có những quyền nhất định
như quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, nhất là biện pháp tạm giam.
Bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm. Sửa bản án, quyết
định sơ thẩm, huỷ bản án, quyết định sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại hoặc điều tra lại (Khoản
2 Điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003). Xét xử phúc thẩm còn bảo đảm quyền lợi hợp
pháp của bị cáo, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, đồng thời đảm bảo
cho Viện kiểm sát thực hiện được nhiệm vụ, quyền hạn của mình do pháp luật quy định về
thực hành quyền công tố.

1.1.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát - Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân tối cao thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử phúc thẩm các vụ án
hình sự
a. Quyền kháng nghị phúc thẩm:
Khi thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử phúc thẩm, theo Bộ luật tố tụng
hình sự, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị các bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật. Kháng nghị phúc thẩm là một hoạt động quan trọng của Viện kiểm sát
nhân dân và chỉ Viện kiểm sát nhân dân mới có quyền kháng nghị.
Các quy định của pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát
nhân dân từ trước tới nay thấy rằng kháng nghị phúc thẩm là quyền riêng có của Viện
kiểm sát nhân dân. Điều 232 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: Viện kiểm sát cùng cấp và
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định sơ thẩm.
Các Điều luật từ Điều 233 đến 240 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về thời

hạn, thủ tục kháng nghị phúc thẩm. Quy chế số 960 ngày 17/9/2007 về thực hành quyền
công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng
dẫn cụ thể về cách thức thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm. Đây là những căn cứ
pháp lý cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm của mình. Để
đảm bảo cho việc quyết định truy tố của Viện kiểm sát cũng như bảo đảm cho việc xét xử
được đúng pháp luật, khi phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm, Viện kiểm sát
có quyền kháng nghị phúc thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại. Đây vừa là quyền,
vừa là trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân. Có thể nói, kháng nghị phúc thẩm là một
trong những biểu hiện rõ nhất quyền năng công tố của Viện kiểm sát. Khi có kháng nghị
phúc thẩm, Toà án cấp trên phải mở phiên toà xét xử phúc thẩm, thông qua đó khắc phục
những vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án cấp dưới. Mục
đích của kháng nghị phúc thẩm là nhằm khắc phục những vi phạm của bản án, quyết định
sơ thẩm, đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp của bản án, quyết định của Toà án. Kháng
nghị khác kháng cáo ở chỗ người kháng cáo chỉ cần không đồng ý về một phần nào đó
của bản án, quyết định sơ thẩm là có thể thực hiện quyền kháng cáo, Viện kiểm sát chỉ

thực hiện kháng nghị khi phát biện bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật
có sai lầm trong đánh giá chứng cứ hoặc áp dụng pháp luật.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố trong xét
xử phúc thẩm các vụ án hình sự theo luật định và theo sự phân công, phân cấp của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Để nâng cao hiệu quả công tác thực hành quyền
công tố ở giai đoạn này Kiểm sát viên cần đảm bảo các yêu cầu sau đây:
Một là, thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm theo khoản 2, Điều 233 Bộ luật tố tụng
hình sự 2003 quy định Viện kiểm sát cùng cấp với Toà án đã ra bản án, quyết định sơ
thẩm và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp của Viện kiểm sát cấp đó có quyền kháng nghị
đối với bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.
Theo Điều 36 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng các
cấp là người có thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm. Điều 32 Quy chế 960/2007/VKSTC-
V3 về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự nêu cụ thể là: Viện
trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện có quyền kháng nghị đối với

những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp
huyện; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có quyền kháng
nghị phúc thẩm đối với các bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của
Toà án nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh. Đối với các Viện thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử phúc thẩm thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì theo Điều 32 của
Quy chế này: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao uỷ quyền cho các Viện trưởng
Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại thành phố Hà Nội, thành
phố Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, quyết định
sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương theo khu vực được phân công. Kháng nghị phúc thẩm là thể hiện rõ nét nhất
quyền năng công tố của Viện kiểm sát. Thực hiện tốt việc kháng nghị phúc thẩm sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát.
Hai là, căn cứ kháng nghị phúc thẩm Bộ luật tố tụng hình sự 1988 và 2003 chưa
quy định căn cứ kháng nghị phúc thẩm; có nghĩa là chưa có quy định cụ thể đối với một
bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật mà có vi phạm thì vi phạm như thế

nào, đến mức độ nào thì bị kháng nghị phúc thẩm. Tuy vậy, theo các Quy chế của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình
sự đã xác định các căn cứ để kháng nghị phúc thẩm; Điều 32 Quy chế công tác kiểm sát
xét xử hình sự năm 1996 quy định các căn cứ kháng nghị phúc thẩm:
- Có những tình tiết qua cuộc điều tra và xét hỏi tại phiên toà không đầy đủ, chưa
rõ ràng.
- Kết luận của bản án hoặc quyết định sơ thẩm không phù hợp với những tình tiết
khách quan của vụ án.
- Có những vi phạm nghiêm trọng trong áp dụng Bộ luật hình sự.
- Có những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hình sự.
Theo Quy chế này, chưa quy định cụ thể vi phạm nghiêm trọng là như thế nào nên
cách hiểu khi áp dụng không thống nhất. Do đó Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã xây
dựng Quy chế tạm thời về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự
năm 2004. Điều 33 Quy chế quy định:

- Việc điều tra, xét hỏi tại phiên toà phiến diện hoặc không đầy đủ.
- Kết luận của bản án, quyết định sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết khách
quan của vụ án.
- Có những vi phạm trong áp dụng Bộ luật hình sự.
- Có những vi phạm về thủ tục trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.
Sau thời gian thực hiện thấy quyết định nêu trên chưa đáp ứng yêu cầu của thực
tiễn. Nhiều kháng nghị bị cấp phúc thẩm bác hoặc rút. Do đó Quy chế năm 2007, theo
Điều 33 đã quy định các căn cứ:
- Việc điều tra, xét hỏi tại phiên toà phiến diện hoặc không đầy đủ.
- Kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm không phù hợp với các tình
tiết khách quan của vụ án.
- Có vi phạm trong việc áp dụng Bộ luật hình sự.
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm
nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng.

Tóm lại, cả 3 Quy chế về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án
hình sự đều đưa ra 4 căn cứ để kháng nghị phúc thẩm. Các căn cứ này về cơ bản giống
nhau, chỉ có điểm khác biệt là 2 Quy chế ban hành sau khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 xác định khi có vi phạm trong việc áp dụng Bộ luật hình sự là căn cứ để kháng nghị
phúc thẩm. còn Quy chế trước đó xác định là vi phạm nghiêm trọng trong áp dụng Bộ
luật hình sự.
Hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao là cần thiết cho việc nâng cao hiệu
quả thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát các cấp trong đó có thực hành quyền
công tố trong xét xử phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Tuy nhiên, quy định
nêu trên mới là của ngành Kiểm sát; nhiều trường hợp chưa có sự thống nhất giữa Toà án
và Viện kiểm sát trong nhận xét, đánh giá vi phạm của bản án, quyết định sơ thẩm; dẫn
đến có trường hợp Viện kiểm sát cho rằng có vi phạm nhưng Toà án lại cho rằng không
có vi phạm hay vi phạm không đáng kể. Do đó cần có quy định thống nhất trong Bộ luật
tố tụng hình sự.
Ba là, thời hạn kháng nghị phúc thẩm: Điều 234 và 239 Bộ luật tố tụng hình sự

quy định về thời hạn kháng nghị phúc thẩm. Theo đó đối với Viện kiểm sát cùng cấp thì
thời hạn là 15 ngày, đối với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày Toà án
sơ thẩm tuyên án. Kháng nghị đối với các quyết định của Toà án sơ thẩm của Viện kiểm
sát cùng cấp là 7 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 15 ngày kể từ ngày ra quyết
định.
Theo quy định tại Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao thì thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng nghị là ngày tiếp theo của
ngày được xác định. Ngày được xác định là ngày Toà án tuyên án hay quyết định. Thời
điểm kết thúc là thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn. Nếu là ngày nghỉ cuối
tuần hoặc nghỉ lễ thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc đầu tiên tiếp
theo ngày nghỉ đó.
Để đảm bảo cho việc kháng nghị của Viện kiểm sát (nhất là Viện kiểm sát cấp
trên) theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì quy định về việc gửi bản án (điều 229)
của Toà án cho Viện kiểm sát như sau: Toà án cấp sơ thẩm phải giao bản án cho Viện

kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày tuyên án. Như vậy Viện kiểm sát
cùng cấp có thể chỉ còn có 5 ngày nghiên cứu để kháng nghị phúc thẩm. Đối với Viện
kiểm sát cấp trên thì Bộ luật tố tụng hình sự không quy định Toà án cấp sơ thẩm phải gửi
bản án cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Do đó, việc kháng nghị phúc thẩm của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao đối với án sơ thẩm của Toà án cấp tỉnh gặp rất nhiều khó khăn
và thiếu tính khả thi. Trước mắt để khắc phục khó khăn này, theo Quy chế 960/KSXXHS
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định Viện kiểm sát cùng cấp nhận được án văn
phải sao gửi ngay cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp để xem xét kháng nghị phúc thẩm
theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Bốn là, việc bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị theo quy định của Điều 238 Bộ luật
tố tụng hình sự: trước khi bắt đầu hoặc tại phiên toà, Viện kiểm sát có quyền bổ sung,
thay đổi kháng nghị nhưng không làm xấu đi tình trạng của bị cáo; rút một phần hay toàn
bộ kháng nghị. Quy định này tạo điều kiện cho Viện kiểm sát nghiên cứu, cân nhắc để có
được bản kháng nghị đúng pháp luật, có chất lượng. Vì vậy, mặc dù Viện kiểm sát đã có
kháng nghị, nhưng trong thời gian chờ mở phiên toà phúc thẩm, Viện kiểm sát vẫn có

quyền xét xét hoàn thiện bản kháng nghị của mình.
Chú ý, nếu bổ sung, thay đổi kháng nghị cần phân biệt các trường hợp: Nếu thay
đổi một phần hay toàn bộ kháng nghị được thực hiện trong thời gian mà thời hạn kháng
nghị vẫn còn thì có thể bổ sung, thay đổi theo cả hai hướng: Có lợi hoặc không có lợi cho
bị cáo. Kể cả trường hợp đã rút một phần hay toàn bộ kháng nghị, sau đó lại kháng nghị
lại thì vẫn được chấp nhận để xét xử phúc thẩm. Trong trường hợp đã hết tời hạn kháng
nghị phúc thẩm thì Viện kiểm sát chỉ được bổ sung, thay đổi kháng nghị theo hướng
không làm xấu đi tình trạng của bị cáo. Vì nếu thay đổi theo hướng không có lợi cho bị
cáo thì thời hạn kháng nghị đã hết thì bị cáo không thể hoặc khó khăn cho việc thực hiện
quyền bào chữa của mình, đồng thời quy định này cũng nhằm đảm bảo quyền, lợi ích của
bị cáo.
Năm là, sự phối hợp giữa Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện
kiểm sát cấp dưới trong bảo vệ, rút kháng nghị.

Theo thống kê một số năm cho thấy số bị cáo bị kháng nghị phúc thẩm, khi xét xử
Viện kiểm sát nhân dân cấp trên rút kháng nghị khoảng 20%; Toà án cấp phúc thẩm bác
kháng nghị khoảng 30%. Tổng cộng kháng nghị phúc thẩm bị rút và bác kháng nghị
khoảng 50%. Đây là hạn chế của công tác kháng nghị phúc thẩm. Chính là hạn chế của
việc thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân. Hạn chế này có nhiều nguyên
nhân, trong đó có nguyên nhân về sự phối hợp của Viện kiểm sát cấp trên và Viện kiểm
sát cấp dưới trong công tác kháng nghị phúc thẩm [35].
Khi có kháng nghị của Viện kiểm sát tức là có sự khác biệt giữa đánh giá và nhận
định hoặc áp dụng pháp luật của Hội đồng xét xử sơ thẩm với Viện kiểm sát về toàn bộ
hay một phần cáo trạng của Viện kiểm sát. Vấn đề đặt ra trong kháng nghị và xét xử phúc
thẩm hình sự là Viện kiểm sát cấp dưới kháng nghị (thông thường) nhưng bảo vệ kháng
nghị lại là Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Do đó, để có được quyết định đúng pháp luật
thì giữa Viện kiểm sát cấp trên và Viện kiểm sát cấp dưới phải có sự phối hợp chặt chẽ.
Sau khi kháng nghị, Viện kiểm sát cấp dưới phải báo cáo Viện kiểm sát cấp trên. Cụ thể
đối với các kháng nghị mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, sau khi kháng nghị Viện kiểm sát tỉnh phải báo cáo lên Viện kiểm sát nhân dân tối

cao. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao làm công tác thực hành quyền công tố
ở cấp phúc thẩm phải là người trực tiếp nghiên cứu các kháng nghị và nắm bắt các thông
tin mà Viện kiểm sát cấp tỉnh báo cáo. Trên cơ sở đó có thể bổ sung những căn cứ để bảo
vệ quan điểm kháng nghị hoặc bổ sung, rút kháng nghị nếu thấy có căn cứ. Viện kiểm sát
cấp trên có thể đề nghị Viện kiểm sát đã kháng nghị phúc thẩm bổ sung, rút kháng nghị
hoặc tự mình quyết định kháng nghị bổ sung, rút kháng nghị của Viện kiểm sát cấp dưới.
b. Thực hành quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm
Thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trước
hết thể hiện là sự có mặt của Kiểm sát viên tại phiên toà. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì
phiên toà không thể xét xử. Những người tham gia tố tụng khác được triệu tập theo quy
định của pháp luật đó là quyền và nghĩa vụ của họ có liên quan đến kháng cáo, kháng
nghị.

Khi thực hành quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm, đòi hỏi Kiểm sát viên phải
tiến hành những hoạt động:
Trước hết Kiểm sát viên phải chuẩn bị và chủ động xét hỏi những tình tiết của vụ
án có liên quan đến kháng cáo kháng nghị. Nhất là đối với kháng nghị của Viện kiểm sát,
vì bảo vệ thành công kháng nghị chính là thể hiện rõ nét chất lượng quyền công tố của
Kiểm sát viên tại phiên toà phúc thẩm. Thông qua kết quả xét hỏi tại phiên toà, Kiểm sát
viên bổ sung vào bài phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên toà khi đề xuất giải
quyết vụ án.
Kiểm sát viên tiến hành kết luận vụ án và trực tiếp tranh luận với người bào chữa,
bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự… tại phiên toà bảo đảm nguyên tắc dân chủ và bình
đẳng. Kiểm sát viên phải tranh luận với các ý kiến phản biện, bào chữa của những người
tham gia tố tụng. Tuy nhiên không tranh luận trùng lặp, Chủ toạ phiên toà phải tạo điều
kiện và bảo đảm cho việc tranh tụng được bình đẳng, dân chủ trước toà.
Với tư tưởng chỉ đạo về cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW và
đã thể chế hoá trong Bộ luật tố tụng hình sự. Trong đó xác định vai trò, vị trí, nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát trong thực hành quyền công tố nói chung, thực hành quyền
công tố trong giai đoạn xét xử phúc thẩm nói riêng. Điểm nhấn chính là việc thực hiện

nguyên tắc tranh tụng; theo đó, Viện kiểm sát với tư cách là một bên đại diện cho Nhà
nước thực hiện chức năng buộc tội. Đồng thời thực hiện việc gỡ tội và làm rõ các chứng
cứ, tình tiết của vụ án có lợi cho bị cáo và bảo đảm quyền, nghĩa vụ cho những người
tham gia tố tụng phúc thẩm.
Thực hiện quyền công tố trong xét xử phúc thẩm hình sự mà mục đích chung là
đảm bảo cho việc xét xử phúc thẩm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không làm oan
người vô tội. Theo quy định của Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và việc triển
khai thực hiện Điều 170 này đến tháng 6/2009 tất cả các Toà án cấp huyện, Toà án Quân
sự cấp tỉnh, quân đoàn… đã được tăng thẩm quyền xét xử với mức hình phạt bị truy tố tới
15 năm tù. Với thực tế này, án sơ thẩm của cấp tỉnh xét xử sẽ giảm đáng kể. Do đó án
phúc thẩm mà Toà án nhân dân tối cao phải xét xử do có kháng cáo kháng nghị cũng sẽ
giảm nhiều. Vấn đề đặt ra cho Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao khi tham gia

xét xử phúc thẩm là phải nâng cao hơn nữa chất lượng thực hành quyền công tố; tăng
cường cả chất lượng và số lượng các kháng nghị phúc thẩm, khi tham gia phiên toà phải
đảm bảo thực sự chất lượng. Nhất là việc bảo đảm cho kháng nghị của Viện kiểm sát
phải được xem xét, kiểm tra, tổ chức, giải quyết tại phiên toà có hiệu quả nhất.
c. Những vấn đề cần hoàn thiện trong các chế định của thủ tục xét xử phúc thẩm:
- Về quyền kháng cáo kháng nghị:
+ Kháng cáo:
Quyền kháng cáo quy định cho nhiều người tham gia tố tụng khác nhau, đồng thời
phạm vi kháng cáo của những người có quyền kháng cáo cũng được quy định khác nhau,
tuỳ thuộc vào vai trò, tư cách tham gia tố tụng của họ và sự liên quan của bản án, quyết
định sơ thẩm đối với quyền lợi ích hợp pháp của những người này.
Theo quy định tại Điều 21 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì: bị cáo , người bị
hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo về tất cả những vấn đề trong bản
án sơ thẩm như: tội danh, hình phạt (bao gồm cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung),
các biện pháp tư pháp; mức bồi thường thiệt hại, án phí, các quyết định về xử lý tài sản,
vật chứng v. v…đối với quyết định sơ thẩm: bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp
pháp của họ chỉ được kháng cáo hai loại quyết định là quyết định đình chỉ hoặc tạm đình

chỉ vụ án. Về nguyên tắc, khác với quy định của pháp luật tố tụng hình sự một số nước
chỉ quy định cho phép người bị hại kháng cáo phần trách nhiệm dân sự; luật tố tụng hình
sự Việt Nam cho phép người bị hại và đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo theo
hướng tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, dân sự của bị cáo.
Đối với nguyên đơn dân sự và bị đơn dân, do quyền và lợi ích của họ chỉ liên quan
đến phần bồi thường thiệt hại trong bản án, quyết định sơ thẩm hình sự nên luật tố tụng
hình sự quy định họ và đại diện hợp pháp của họ chỉ có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm
liên quan đến bồi thường thiệt hại như mức bồi thường, phương thức, thời hạn, các biện
pháp đảm bảo việc bồi thường, án phí dân sự… Tương tự như vậy, những người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp của họ chỉ có quyền
kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ trong vụ án hình sự đó,
mà thông thường là các quyết định liên quan đến việc xử lý tài sản.

Đối với những người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần;
nhất là đối với người chưa thành niên không có người bảo vệ quyền lợi cho họ do mồ côi
cha mẹ, không nơi nương tựa, lang thang cơ nhỡ… cần có quy định trong Bộ luật tố tụng
hình sự về chủ thể có quyền kháng cáo phúc thẩm trong giới hạn phạm vi nhất định nhằm
bảo vệ cho quyền lợi của một số đối tượng nêu trên như các tổ chức: Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh, Hội phụ nữ v.v…
- Kháng nghị phúc thẩm:
+ Về căn cứ kháng nghị phúc thẩm:
Bộ luật tố tụng hình sự cần quy định cụ thể là Viện kiểm sát kháng nghị bản án,
quyết định sơ thẩm khi phát hiện thấy có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật như: Bản
án xử không đúng tội danh; mức hình phạt quá nhẹ hoặc quá nặng; cho hưởng án treo hay
áp dụng các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không đúng với quy định
của Bộ luật hình sự, quyết định mức bồi thường không thoả đáng, quyết định xử lý tài sản
để đảm bảo thi hành án không chính xác v.v… có vi phạm thủ tục tố tụng hình sự như:
Thành phần Hội đồng xét xử không đúng quy định pháp luật tố tụng hình sự. Không triệu
tập nhân chứng quan trọng mà thiếu người đó sẽ ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án một
cách đúng đắn đến chứng minh làm rõ sự thật vụ án; không có người bào chữa trong những

trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa; việc xét hỏi tại phiên toà phiến diện hoặc
không đầy đủ; kết luận của bản án, quyết định của cấp sơ thẩm không phù hợp với các
tình tiết khách quan của vụ án.
+ Về thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm:
Để tăng cường chất lượng kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân và
phù hợp với chủ trương cải cách tổ chức, bộ máy của các cơ quan tư pháp theo tinh thần
cải cách tư pháp. Việc sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự cần quy định Viện kiểm sát cấp
huyện, quận (hay khu vực) có quyền kháng nghị phúc thẩm – Viện kiểm sát ngang cấp
với Toà phúc thẩm khi Toà phúc thẩm xét xử lại các vụ án sơ thẩm có quyền kháng nghị
phúc thẩm các vụ án này. Viện kiểm sát cấp trên của cấp Toà xét xử sơ thẩm (có thể là
Toà phúc thẩm hay Toà thượng thẩm) có quyền kháng nghị phúc thẩm bản án sơ thẩm
của Toà án cấp khu vực, quận, huyện hay Toà phúc thẩm.

×