Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Báo cáo "Một số đặc điểm của hành vi kinh doanh " potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.11 KB, 5 trang )



nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 45



ThS. Nguyễn Viết Tý *
ghiên cứu về đặc điểm của hành vi
kinh doanh vừa có ý nghĩa lí luận vừa
có ý nghĩa thực tiễn. Một mặt, trên cơ sở
những đặc điểm của hành vi kinh doanh,
chúng ta dễ dàng phân biệt phạm vi điều
chỉnh của pháp luật kinh tế và pháp luật dân
sự. Mặt khác, việc xác định rõ mối quan hệ
giữa hành vi dân sự và hành vi kinh doanh
rất có ý nghĩa trong việc nâng cao hiệu quả
xây dựng và áp dụng văn bản pháp luật kinh
tế và dân sự. Bởi vì, nó đảm tính thống nhất
của hệ thống pháp luật, hạn chế đợc sự
mâu thuẫn, chồng chéo nh đang tồn tại
trong các văn bản pháp luật thực định của
chúng ta hiện nay. TS. Dơng Đăng Huệ cho
rằng: "ở nớc ta, vẫn còn phải phân biệt
hành vi dân sự và hành vi thơng mại vì
chính việc phân biệt này đem lại không ít lợi
ích trong việc điều chỉnh pháp luật đối với
hoạt động kinh doanh và nhà kinh doanh".
(1)

Đặc điểm của hành vi kinh doanh đợc


chúng tôi xem xét trong mối quan hệ với
hành vi dân sự, có nghĩa là chúng tôi tập
trung giải quyết tính chất chung của hành vi
kinh doanh và hành vi dân sự đồng thời làm
sáng tỏ nét riêng biệt của hành vi kinh
doanh.
Theo PGS.TSKH. Đào Trí úc: "Hành vi
kinh doanh là một biểu hiện của hành vi
pháp lí dân sự, phải là đối tợng điều chỉnh
của Bộ luật dân sự và Luật thơng mại".
(2)

Nh vậy, mối quan hệ giữa hành vi dân sự
và hành vi kinh doanh đợc nhìn nhận nh
là mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và
cái riêng, trong đó, hành vi dân sự là cái
chung, hành vi kinh doanh là cái riêng.
Cái chung (tính chất chung) của hai loại
hành vi này thể hiện ở chỗ hành vi dân sự và
hành vi kinh doanh đều là những hành vi của
con ngời, phát sinh và tồn tại trong quá
trình sản xuất, trao đổi sản phẩm, hàng hoá,
đều là những nội dung của các quan hệ hàng
hoá - tiền tệ và ở những mức độ nhất định
đều chịu sự tác động của các quy luật kinh
tế khách quan.
Bên cạnh những điểm giống nhau tạo
nên tính chất chung giữa hành vi dân sự và
hành vi kinh doanh, giữa chúng cũng có
những điểm khác biệt và chính những điểm

khác biệt này tạo nên những đặc điểm của
hành vi kinh doanh. Đó là:
Thứ nhất, hành vi kinh doanh khác hành
vi dân sự về thời điểm xuất hiện và tính ổn
định.
Xét về mặt lịch sử, hành vi dân sự ra đời
từ rất sớm trong lịch sử x hội loài ngời, từ
khi con ngời tạo ra những sản phẩm d
thừa và có nhu cầu trao đổi lấy những sản
phẩm khác loại của ngời khác với mục đích
thoả mn các nhu cầu sinh hoạt hàng ngày
của mình. Còn hành vi kinh doanh (hành vi
thơng mại) xuất hiện muộn hơn, bởi vì con
N

* Giảng viên chính Khoa pháp luật kinh tế
Trờng đại học luật Hà Nội


nghiên cứu - trao đổi
46 - Tạp chí luật học

ngời, không phải ngay từ khi mới xuất hiện
đ biết buôn bán mà mi đến khi sự phân
công lao động trong x hội đạt đến trình độ
nhất định, trong x hội xuất hiện tầng lớp
chuyên mua đi bán lại các sản phẩm hàng
hoá với mục đích kiếm lời thì thơng mại
(kinh doanh) mới ra đời.
Cũng dới góc độ lịch sử, có thể nói, các

quan hệ dân sự mang tính ổn định và bền
vững cao hơn các quan hệ kinh tế. Đặc biệt,
các quan hệ này ít chịu tác động hơn của các
biến động bên ngoài về chính trị x hội so
với các quan hệ kinh tế. Chính vì vậy, có thể
nói, hành vi kinh doanh hay thay đổi, ít bền
vững hơn hành vi dân sự. Lịch sử đ cho
thấy, nhiều cách thức xử sự, nhiều nguyên
tắc chung của các chế định về sở hữu, thừa
kế, hôn nhân, khế ớc đ xuất hiện từ thời
khởi thuỷ của luật dân sự, đến nay vẫn còn
đợc chấp nhận. Trong khi đó, quan hệ kinh
tế chịu sự ảnh hởng của thực tế đời sống
kinh tế, chính trị, x hội nhiều hơn, do đó,
các cách thức xử sự của các chủ thể kinh
doanh thờng phải thay đổi cho phù hợp với
những thay đổi của đời sống kinh tế - x hội.
Có thể lấy những thay đổi trong việc kí kết
và thực hiện các hợp đồng kinh tế ở nớc ta
trong thời kì kế hoạch hoá tập trung và trong
thời kì hiện nay làm ví dụ minh chứng cho
điều đó. Về vấn đề này, GS. Lê Tài Triển đ
có nhận xét rằng: "Luật pháp đ đành là do
thực tế tạo nên không thể xa vời thực tế.
Nhng luật thơng mại phản ảnh thực tế
nhiều hơn. Là vì muốn cạnh tranh đợc với
đồng nghiệp, muốn thành công, hay dẫu chỉ
muốn cho công việc của mình đợc tiến
hành tiện lợi, thơng gia luôn phải có sáng
kiến, cải tạo lề lối hoạt động, do đó, phát

sinh ra những phơng thức mới, với những
hậu quả pháp lí mới".
(3)

Tóm lại, qua nghiên cứu lịch sử ra đời và
phát triển của quá trình trao đổi hàng hoá,
có thể khẳng định, hành vi dân sự ra đời sớm
hơn và ổn định hơn hành vi kinh doanh.
Thứ hai, kinh doanh là hoạt động đợc
thực hiện trên thị trờng và nhằm mục đích
sinh lợi.
Theo Điều 3 Luật doanh nghiệp, kinh
doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất
cả các công đoạn của quá trình đầu t, từ
sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung
ứng dịch vụ trên thị trờng nhằm mục đích
sinh lợi.
"Nh vậy, kinh doanh phải gắn với thị
trờng, thị trờng và kinh doanh đi liền với
nhau nh hình với bóng".
(4)
Sở dĩ kinh doanh
phải đợc diễn ra trên thị trờng, bởi vì
trong các yếu tố cấu thành của hành vi kinh
doanh, mua bán là thành tố của hoạt động
kinh doanh, nói đến kinh doanh không thể
không nói đến thành tố này. Các yếu tố khác
(sản xuất và dịch vụ) phải kết hợp với yếu tố
mua bán mới có thể coi là thực hiện xong
một hoạt động kinh doanh.

Đơng nhiên, thị trờng - nơi diễn ra
hoạt động kinh doanh phải là thị trờng
hiện, bởi hành vi kinh doanh đang đợc
chúng tôi đề cập là hành vi kinh doanh hợp
pháp, hành vi kinh doanh đợc Nhà nớc
bảo hộ. Mọi hoạt động đầu t, sản xuất, tiêu
thụ sản phẩm, dịch vụ sẽ không đợc coi là
hành vi kinh doanh nếu chúng không diễn ra
trên thị trờng hoặc diễn ra ở thị trờng
ngầm.


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 47

Là hoạt động diễn ra trên thị trờng kinh
doanh phải tuân theo các quy luật của thị
trờng, trong đó phải kể đến các quy luật
nh quy luật cạnh tranh, quy luật tăng lợi
nhuận, quy luật kích thích sức mua giả tạo,
quy luật cung cầu và các quy luật riêng
trong kinh doanh nh quy luật của ngời
mua, quy luật về ý chí tiến thủ của chủ
doanh nghiệp. Dới sự tác động của các quy
luật đó, các hành vi kinh doanh có những
nét riêng so với các hành vi dân sự.
Chẳng hạn, dới sự tác động của quy
luật cạnh tranh, các chủ doanh nghiệp
thờng phải vơn lên giành giật lấy toàn bộ
hoặc một phần nào đấy của thị trờng để tồn

tại, tăng trởng và phát triển. Để làm đợc
điều đó, ngoài việc tiến hành các hoạt động
kinh doanh, các chủ thể kinh doanh có thể
thực hiện các mu kế trong kinh doanh
nhằm buộc đối thủ canh tranh của mình nhất
định phải hành động theo đúng dự định của
mình đặt ra. Điều này hầu nh không đợc
biết đến khi thực hiện các hành vi dân sự.
Hoặc dới tác động của quy luật của ngời
mua, các chủ thể kinh doanh sẽ phải bán ra
cái thị trờng cần chứ không phải cái mình
đang có, phải có trách nhiệm với khách hàng
cả sau khi bán hàng và phải đảm bảo chữ
"tín" trong kinh doanh nhằm phát triển lâu
dài sự nghiệp kinh doanh của mình. Đây là
điều ít thấy khi thực hiện hành vi dân sự
tơng tự, nơi việc mua bán thờng đợc thực
hiện theo phơng thức "mua đứt, bán đoạn".
Theo quy định của pháp luật, hành vi
kinh doanh không chỉ là hoạt động diễn ra
trên thị trờng, mà còn là hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi.
Đây là đặc điểm mà dựa vào đó để phân
biệt hành vi kinh doanh với hành vi dân sự
nếu hành vi đợc thực hiện nhằm mục đích
tiêu dùng (thoả mn các nhu cầu cá nhân)
thì đó là hành vi dân sự; ngợc lại, cũng
hành vi đó nhng đợc thực hiện nhằm mục
đích sinh lợi thì là hành vi kinh doanh. Tiêu
chí này đợc sử dụng khá phổ biến để phân

biệt hành vi dân sự và hành vi kinh doanh
(hành vi thơng mại).
Không dừng lại ở đó, từ chỗ khác nhau
về mục đích này, có thể phái sinh những sự
khác nhau khác giữa hành vi dân sự và hành
vi kinh doanh về các yếu tố cấu thành nên
các hành vi đó, về khách thể mà các hành vi
đó hớng tới, thậm chí cả yếu tố tâm lí của
các chủ thể thực hiện hành vi Chẳng hạn,
xuất phát từ mục đích lợi nhuận, cho nên
hành vi kinh doanh bắt buộc phải có hai yếu
tố cấu thành quan trọng nhất đó là mua và
bán, có nghĩa để đợc coi là hoạt động kinh
doanh hoàn chỉnh chủ thể kinh doanh trớc
hết phải mua hàng hoá sau đó phải bán hàng
hoá đó đi, có nh vậy, mới nói đến vấn đề
lợi nhuận. Điều đó khác với hành vi dân sự,
trong đó chỉ thuần tuý mua hoặc bán. Ví dụ,
ngời nào đó có thể mua ngôi nhà để kinh
doanh (để bán kiếm lời). ở đây, khách thể
của hai hành vi trên đều là ngôi nhà nhng
sự quan tâm của hai chủ thể đó đối với ngôi
nhà lại khác nhau. Đối với ngời mua nhà
để ở, sự quan tâm của nó chủ yếu tập trung
vào thuộc tính thứ nhất của ngôi nhà, đó là
giá trị sử dụng. Còn đối với ngời mua để
bán lại quan tâm nhiều hơn đến thuộc tính
thứ hai của ngôi nhà, đó là giá trị. Hơn nữa,
các yếu tố mang tính chất tâm lí (các yếu tố



nghiên cứu - trao đổi
48 - Tạp chí luật học

phong thuỷ) nh hớng nhà, độ cao của ngôi
nhà so với những nhà liền kề, độ rộng hẹp
của cổng, cửa (những giá trị phi vật chất)
có ảnh hởng rất lớn đối với hành vi của
ngời mua nhà để ở nhng các yếu tố này,
đối với ngời mua nhà để kinh doanh hầu
nh không đợc quan tâm mấy. Đối với
những ngời mua để kinh doanh, họ chỉ
quan tâm đến việc mua ngôi nhà với giá
thích hợp nào đó để sau đó có thể bán ở một
giá cao hơn nhằm kiếm lời.
Tóm lại, kinh doanh - hoạt động đợc
thực hiện trên thị trờng và nhằm mục đích
sinh lợi là nét đặc thù quan trọng, mang tính
khách quan của hành vi kinh doanh trong
mối quan hệ với hành vi dân sự nói chung.
Thứ ba, kinh doanh là hoạt động mang
tính chất nghề nghiệp, đợc các chủ thể kinh
doanh thực hiện.
Kinh doanh là hoạt động mang tính nghề
nghiệp có nghĩa là chủ thể của hành vi khi
tham gia thơng trờng thực hiện sự phân
công lao động x hội. Các hành vi này đợc
chủ thể tiến hành thờng xuyên, liên tục, thể
hiện tính chuyên nghiệp cao và mang lại thu
nhập chính cho chủ thể thực hiện hành vi.

Dựa vào nét đặc thù này, dễ dàng nhận thấy,
mặc dù, trên thơng trờng có thể diễn ra
những hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
nhng chúng không thể đợc coi là hành vi
kinh doanh, bởi vì đó không phải là hoạt
động thờng xuyên của ngời thực hiện
hành vi, hơn nữa hoạt động đó không mang
lại thu nhập chính cho ngời đó. Ví dụ, nhân
chuyến công tác, một viên chức nhà nớc
mua số lợng hàng hoá nhất định nào đó ở
nơi công tác về để bán.
Pháp luật hiện hành ở nớc ta cha quy
định trực tiếp về đặc điểm này của hành vi
kinh doanh. Để nâng cao hiệu quả của điều
chỉnh pháp luật đối với hoạt động kinh
doanh, pháp luật cần phản ánh đặc điểm này
khi xác định hành vi kinh doanh.
Liên quan đến đặc điểm này của hành vi
kinh doanh, đặc thù về chủ thể thực hiện
hành vi kinh doanh cũng có ý nghĩa quan
trọng trong việc phân biệt hành vi dân sự với
hành vi kinh doanh. Có thể nói rằng chủ thể
kinh doanh trớc hết là chủ thể hành vi dân
sự, các chủ thể này phải có đầy đủ năng lực
pháp luật và năng lực hành vi dân sự nhng
điều đó không có nghĩa tất cả các chủ thể
của hành vi dân sự đều là chủ thể kinh
doanh. Xuất phát từ tính chất của hoạt động
kinh doanh, chỉ có những chủ thể nào hội đủ
những điều kiện nhất định mới là chủ thể

kinh doanh. Những điều kiện để trở thành
chủ thể kinh doanh phải đợc pháp luật quy
định cụ thể. Trong lúc pháp luật cha quy
định cụ thể, những điều kiện đó có thể hiểu
là phải có quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng
nào đó về các yếu tố cần có của quá trình
kinh doanh (vốn, tài sản, sức lao động );
trong khuôn khổ của pháp luật, phải đợc tự
do và chủ động tiến hành các hoạt động kinh
doanh và phải tự chịu trách nhiệm về kết quả
cuối cùng của quá trình kinh doanh. Chính
những điều kiện riêng này tạo nên đặc thù
về chủ thể kinh doanh.
Trên thực tế, trong nhiều trờng hợp,
phải dựa vào đặc thù này để xác định trở lại
giao dịch nào là giao dịch dân sự, giao dịch
nào là giao dịch thơng mại (kinh doanh).
Bởi vì, ở nhiều mối quan hệ trong lĩnh vực


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 49

trao đổi hàng hoá và cung ứng dịch vụ, một
bên có mục đích kinh doanh còn bên kia lại
có mục đích tiêu dùng nên một bên sẽ có
hành vi kinh doanh còn bên kia sẽ có hành
vi dân sự. Trong những trờng hợp cụ thể
nh vậy, Nhà nớc còn phải dựa vào đặc thù
về chủ thể để xác định tính chất của giao

dịch. Chẳng hạn, khi xác định tính chất
thơng mại của các giao dịch, Bộ luật
thơng mại Cộng hoà liên bang Đức dựa
trên dấu hiệu chủ quan đ quy định giao
dịch thơng mại là giao dịch đợc các
thơng gia thực hiện.
(5)

Mặc dù là tiêu chí chủ quan nhng nó có
ý nghĩa rất quan trọng đối việc phân biệt
giữa luật kinh tế và luật dân sự. ở đây, các
nhà làm luật phải có những quy định rõ ràng
để xác định phạm vi điều chỉnh của pháp
luật kinh tế và pháp luật dân sự. Có nh vậy
mới điều chỉnh bằng pháp luật một cách có
hiệu quả các quan hệ x hội.
Cuối cùng, cũng cần lu ý rằng, xuất
phát từ bản chất của nền kinh tế nớc ta là
nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN
cũng nh xuất phát từ vai trò của kinh doanh
trong nền kinh tế, so với các hành vi dân sự,
Nhà nớc tác động ở mức độ cao hơn vào
các hoạt động kinh doanh. Nhà nớc tác
động vào hoạt động kinh doanh thông qua
các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế ở
tầm vĩ mô cũng nh thông qua hệ thống
pháp luật của mình nhằm tạo môi trờng
thuận lợi cho các chủ thể kinh doanh thực
hiện hành vi của mình đồng thời đa hoạt
động kinh doanh vào trật tự kỉ cơng nhất

định. Chính sự tác động mạnh mẽ đó của
Nhà nớc vào hoạt động kinh doanh đ tạo
nên sự khác biệt nhất định giữa hành vi dân
sự và hành vi kinh doanh.
Nói tóm lại, giữa hành vi dân sự và
hành vi kinh doanh có những sự tơng đồng
và khác biệt. Chính trên cơ sở sự tơng
đồng, khác biệt đó có thể nhìn nhận một
cách khái quát mối quan hệ giữa hành vi dân
sự và hành vi kinh doanh là mối quan hệ
giữa cái chung và cái riêng trong đó hành vi
dân sự là cái chung và hànhvi kinh doanh là
cái riêng. Với t cách cái chung và cái riêng,
hành vi dân sự và hành vi kinh doanh đều
tồn tại khách quan và độc lập tơng đối với
nhau; những thuộc tính vốn có của các hành
vi dân sự đợc biểu hiện cụ thể trong các
hành vi kinh doanh đồng thời trong hành vi
kinh doanh cũng có những nét đặc thù riêng
của nó. Từ đó dẫn đến những nguyên tắc,
những chế định cơ bản của luật dân sự phải
đợc cụ thể hoá, chi tiết hoá trong luật kinh
tế cho phù hợp với những đặc điểm của hành
vi kinh doanh./.

(1).Xem: TS. Dơng Đăng Huệ, "Cơ sở khoa học và
thực tiễn của việc xây dựng pháp luật thơng mại
kinh tế", Tạp chí Nhà nớc và Pháp luật, số 1/1996.
(2).Xem: PGS.TSKH. Đào Trí úc, "Vai trò của luật
dân sự ở nớc ta hiện nay", Đề tài NCKH cấp bộ:

Những vấn đề lí luận cơ bản về Bộ luật dân sự ở Việt
Nam, H.1997, tr. 4 -25
(3).Xem: GS. Lê Tài Triển, Luật thơng mại Việt
Nam dẫn giải, Quyển 1, tr. 2, Kim lai ấn quán, Sài
gòn 1972.
(4).Xem: PGS.TS. Đỗ Đình Toàn, Lí thuyết quản trị
kinh doanh, Nxb. Thống kê, H.1994, tr. 16.
(5).Xem: GS. Mozolin, Luật dân sự và thơng mại
của các nớc t bản chủ nghĩa, Maxcơva 1980, tr. 32.

×