ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Tài liệu Giáo dục địa phương
TỈNH BẮC NINH
LỚP
7
1
BAN BIÊN
BIÊN SOẠN:
SOẠN:
BAN
NGUYỄN
THẾ
SƠN
- ĐOÀN
THỊ THUÝ
HẠNH(Đồng
(ĐồngChủ
Chủbiên)
biên)
NGUYỄN
THỊ
NGỌC
- TRẦN
VIẾT LƯU
HỒ THỊ HỒNG VÂN
PHƯƠNG
NGUYỄN
TIÊU- ĐẶNG
THỊ MỸTHỊ
HỒNG
- VŨ -ĐỨC
LIÊMTHỊ THANH NGA
PHẠM NGỌC
TRỤMINH
- NGUYỄN
THU - NGUYỄN
NGỌC THỊNH
PHẠM
TÂM THỊ
- NGUYỄN
VĂN ĐÁP
NGUYỄN VĂN ĐÁP - LÊ THỊ
AN - NGUYỄN
MINH
NHIÊN
- NGUYỄN THỊ THANH NGA
NGUYỄN
NHƯ HỌC
- LÊ
THỊ AN
NGUYỄN THỊ
HỒNGMINH
NHUNG
- NGUYỄN
THỊ VÂN
PHƯƠNG BẮC
NGUYỄN
NHIÊN
- NGUYỄN
THỊ- NGUYỄN
THANH NGA
DƯƠNG
ĐÌNH THẮNG
- TRẦN
THỊ HUYỀN
- NGUYỄN
PHƯƠNG
NGUYỄN
THỊ HỒNG
NHUNG
- NGUYỄN
PHƯƠNG
BẮCTHẢO
TRẦN QUANG
BẮC ĐÌNH
- NGUYỄN
ĐÌNH
MÙI - NGUYỄN
NGỌC HỒN
DƯƠNG
THẮNG
- TRẦN
THỊ HUYỀN
TRẦN HÙNGNGUYỄN
VIỆN - PHẠM
THỊ XN
- ĐỖ
THỊ NGUYỆT
- NGƠ
PHƯƠNG
THẢO
- TRẦN
QUANG
BẮCPHÚ THĂNG
ĐẶNG THỊ
THANH ĐÌNH
MAI - MÙI
NGUYỄN
ĐẠT THỜI
- NGUYỄN
NGUYỄN
- NGUYỄN
NGỌC
HỒNTHỊ HOA
PHẠM THỊ XN - NGƠ THỊ HẠNH LAN
NGUYỄN THỊ BẮC - NGÔ PHÚ THĂNG
HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG TÀI LIỆU
Bài
1
BẮC NINH TỪ ĐẦU THẾ KỈ X ĐẾN
ĐẦU THẾ KỈ XVI
Học xong bài này em sẽ:
¾ Có được những kiến thức cơ bản về bối cảnh lịch sử, tình hình chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hóa của Bắc Ninh qua các thời kì lịch sử từ đầu thế kỉ
X đến đầu thế kỉ XVI.
¾ Vận dụng các kiến thức đã học để trình bày về quá trình phát triển của
Bắc Ninh từ đầu thế kỉ X đến đầu thế kỉ XVI, với những sự kiện, nhân vật
lịch sử tiêu biểu, góp phần vào sự phát triển chung của lịch sử dân tộc.
¾ Tự hào về truyền thống lịch sử của quê hương Bắc Ninh; bồi dưỡng tình
yêu quê hương, đất nước; biết ơn và noi gương các danh nhân của Bắc
Ninh đã có cơng đóng góp vào sự phát triển của lịch sử địa phương và
đất nước.
Năm 1009, một vị tướng
xuất thân từ Cổ Pháp (Từ Sơn) đã
được quần thần nhà Tiền Lê suy
tơn làm hồng đế, dựng lên triều
đại quân chủ lâu dài, bền vững
đầu tiên trong lịch sử độc lập của
Việt Nam: nhà Lý (1009-1225).
Tên ơng là Lý Cơng Uẩn.
Hình 1.1. Tượng vua Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn)
tại phường Suối Hoa, thành phố Bắc Ninh
6
22
Học xong bài này, em sẽ:
Nhấn mạnh về yêu cầu cần đạt, năng
lực và phẩm chất, thái độ học sinh
Học
bài này,
emhọc.
sẽ:
cầnxong
đạt được
sau khi
Nhấn mạnh về yêu cầu cần đạt, năng
Mở đầu:
lực và phẩm chất, thái độ học sinh
Xác định nhiệm vụ, vấn đề học tập
cần đạt được sau khi học.
học sinh cần giải quyết; kết nối với
những điều học sinh đã biết, nêu vấn
Mở đầu:
đề nhằm kích thích tư duy, tạo hứng
Xác định nhiệm vụ, vấn đề học tập
thú đối với bài mới.
học sinh cần giải quyết; kết nối với
những điều học sinh đã biết, nêu vấn
đề nhằm kích thích tư duy, tạo hứng
thú đối với bài mới.
Kiến thức mới:
Với các nội dung (kênh hình, kênh
chữ) thơng qua các hoạt động học
tập giúp học sinh khai thác, tiếp nhận
bài mới.
Đặc trưng của hát
Quan họ là lối hát đối
giọng giữa cặp nam và
cặp nữ. Bên xướng và
bên đối hát đối đáp với
nhau bằng một bài hát
có cùng giai điệu nhưng
khác nhau về lời ca. Các
cặp đối bao giờ cũng hát
đơi và hát khơng có nhạc
đệm. Trong một đơi hát
sẽ được phân vị trí của
Hình 7.2. Giao lưu, đối đáp Quan họ trên sân khấu
từng người. Ở đó, một
người hát dẫn (hát chính) cịn một người hát luồn (hát phụ). Đặc biệt, khi hát
phải tuân theo luật “nam tòng nữ”. Nữ hát vế ra trước, nam hát vế đối sau.
Theo nhà nghiên cứu Trần Linh Quý, đặc trưng cơ bản của lối hát Quan họ
gồm có bốn yếu tố: vang, rền, nền, nảy.
Đình Bảng có những điều kiện gì giúp cho nơi này phát tích nhiều nhân vật nổi
tiếng trong lịch sử dân tộc?
EM CĨ BIẾT?
Thân mẫu Lý Cơng Uẩn là bà Phạm Thị Ngà quê ở làng Đình Sấm (nay là Dương
Lôi, phường Tân Hồng, thành phố Từ Sơn). Từ nhỏ, Lý Công Uẩn được thiền sư Lý
Khánh Văn nhận làm con nuôi và được sư Vạn Hạnh dạy dỗ tại chùa Lục Tổ. Lý
Công Uẩn đã từng làm tiểu tại các chùa Lục Tổ, Kiến Sơ, Thiên Tâm. Câu chuyện
sự tích làng Hồi Quan với miếu ơng bà Hộ Quốc cịn cho biết ơng có sức khỏe phi
thường và được dân cả vùng ủng hộ. Nhờ được sự dạy dỗ của các trí thức lớn, lớn
lên Lý Cơng Uẩn trở thành người văn võ song tồn, tham gia triều chính của nhà
Tiền Lê, làm đến chức Tả thân vệ điện tiền Chỉ huy sứ, thống lĩnh hết quân túc vệ.
Vang: Các nghệ nhân Quan họ thường có giọng hát vang, sáng, kể cả các
nghệ nhân ngoài 90 tuổi như cụ Nhi, cụ Bàn ở làng Diềm, cụ Khiếu ở làng Ngang
Nội lúc cụ 103 tuổi mà giọng hát vẫn vang, sáng trong trẻo. Với lối “lấy hơi, nhả
chữ, bng câu, sử dụng cách mở khẩu hình để khi hát nếu là âm trầm vẫn rõ và
âm cao không với mà giọng hát vẫn cứ vang.
Rền: Khi hát theo từng cặp, dù có người hát chính và người hát phụ, nhưng
hai giọng hát ln hồ quyện với nhau, nâng đỡ nhau, không rời rạc, không “vênh”
với nhau mà phải thật hồ quyện.
Em có biết:
Thơng tin hỗ trợ, bổ sung hoặc có
tính liên mơn nhằm làm rõ hơn nội
dung chính.
Nền: Giọng hát khi hát lên phải thật tự nhiên, nhưng vẫn đảm bảo được tính
ngọt ngào, tình tứ, đằm thắm và truyền cảm, song lại không quá điệu đà, nắn nót.
Như thế gọi là hát đã đạt được tới sự “nền”.
Nảy: Trong Quan họ, khó nhất là lối hát “nảy hạt” mà ở các loại hình dân ca
khác khơng có. “Nảy hạt” chính là đặc điểm riêng của ca hát Quan họ. Trong các
71
Năm 1009 khi vua Lê Long Đĩnh mất, Lý Công Uẩn được triều thần suy tôn lên
ngơi Hồng đế vào ngày 21/11/1009, đặt niên hiệu là Thuận Thiên. Triều Lý được
thành lập, mở ra một một kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc.
Luyện tập:
Là các câu hỏi, bài tập thực hành để
củng cố kiến thức, rèn luyện các kĩ
năng gắn với kiến thức vừa học.
1. Em hãy cùng các bạn trong nhóm thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Liệt kê các đối tượng được hưởng chính sách an sinh xã hội.
- Nêu những hoạt động để thực hiện chính sách an sinh xã hội.
2. Quan sát các bức ảnh dưới đây và cho biết mỗi bức ảnh thuộc lĩnh vực an
sinh xã hội nào?
Hình 1.6. Chính điện Đền Đơ, phường Đình Bảng, thành phố Từ Sơn
12
Vận dụng:
Sử dụng kiến thức, kĩ năng đã học
để giải quyết các tình huống, vấn đề
trong thực tiễn.
Câu hỏi:
Các câu hỏi trong bài học giúp học
sinh định hướng nội dung kiến thức
cần tìm hiểu.
Hình 11.4. Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam
tặng quà người nghèo và nạn nhân chất
độc da cam/dioxin tỉnh Bắc Ninh
Hình 11.5. Thường trực Ban Bí thư Trần
Quốc Vượng tặng quà cho các hộ nghèo
của xã Mộ Đạo - Quế Võ - Bắc Ninh
1. Em hãy tìm hiểu và giới thiệu với bạn bè về một người được hưởng chính
sách an sinh xã hội mà em biết.
2. Em hãy cùng các bạn lập một kế hoạch giúp đỡ một bạn học sinh có hồn
cảnh khó khăn?
3. Gia đình bác Hà Văn D thuộc diện hộ nghèo của tỉnh Bắc Ninh, vừa qua con trai út
của bác được cơ quan y tế kết luận bị khuyết tật bẩm sinh khơng thể nghe và nói được.
Theo em, Con bác D có được hưởng chế độ an sinh xã hội của Tỉnh khơng? Nếu
được thì thuộc diện nào? Bác D cần làm gì để con bác được hưởng chế độ đó?
4. Từ những việc làm cụ thể liên quan đến công tác an sinh xã hội, em liên
tưởng tới những giá trị truyền thống tốt đẹp nào của con người Việt Nam trong cuộc
sống đương đại?
5. Nêu một dẫn chứng (lời dạy, hành động cụ thể) của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
an sinh xã hội? Từ đó rút ra bài học cho chính mình?
99
Hãy bảo quản, giữ gìn tài liệu để dành tặng các em học sinh lớp sau.
3
Mục lục
Trang
CHỦ ĐỀ 1: LỊCH SỬ, TRUYỀN THỐNG VÀ VĂN HOÁ
Bài 1.
Bắc Ninh từ đầu thế kỉ X đến đầu thế kỉ XVI
Bài 2.
Văn Miếu Bắc Ninh
32
Bài 3.
Danh nhân, nhân vật lịch sử tiểu biểu tỉnh Bắc Ninh
(từ đầu thế kỉ X đến đầu thế kỉ XVI)
43
Bài 4.
Lễ hội làng Diềm
54
Bài 5.
Tục kết chạ giữa các làng Quan họ
60
Bài 6.
Trang phục của liền anh Quan họ
64
Bài 7.
Đặc trưng lối hát của dân ca Quan họ Bắc Ninh
67
7
CHỦ ĐỀ 2: ĐỊA LÍ, KINH TẾ, HƯỚNG NGHIỆP
Bài 8.
Dân số và sự gia tăng dân số của tỉnh Bắc Ninh
71
Bài 9.
Phân bố dân cư và quần cư tỉnh Bắc Ninh
76
Bài 10. Một số đơ thị ở tỉnh Bắc Ninh
82
CHỦ ĐỀ 3: CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI, MƠI TRƯỜNG
4
Bài 11. Chính sách an sinh xã hội của tỉnh Bắc Ninh
91
Bài 12. Bình đẳng giới
97
Lời nói đầu
Các em học sinh thân mến!
Trong tay các em là cuốn Tài liệu Giáo dục địa phương tỉnh Bắc Ninh lớp 7.
Tài liệu sẽ tiếp tục giúp các em hiểu biết thêm những kiến thức quý báu liên quan
đến sự phát triển của vùng quê Bắc Ninh - Kinh Bắc xưa và nay, làm giàu vốn tri
thức và bồi đắp lòng tự hào về quê hương, đất nước mình. Về lịch sử, các em sẽ
được khám phá những nét nổi bật của lịch sử Bắc Ninh - Kinh Bắc từ đầu thế kỉ X
đến đầu thế kỉ XVI; gắn liền với đó là những di tích, nhân vật lịch sử tiêu biểu, góp
phần làm rạng danh quê hương, đất nước trong buổi đầu xây dựng chế độ phong
kiến Đại Việt độc lập, tự chủ. Về địa lí, các em sẽ có thêm hiểu biết về điều kiện
tự nhiên, sự phân bố dân cư. Về kinh tế, các em sẽ được bổ sung kiến thức về
một số ngành nghề truyền thống và hiện đại ở Bắc Ninh, từ đó có định hướng học
tập, chuẩn bị cho sự lựa chọn nghề nghiệp phù hợp trong tương lai. Về xã hội,
các em sẽ tiếp cận một số vấn đề thiết thực trong cuộc sống hiện tại cần phải giải
quyết (chính sách an sinh xã hội, bình đẳng giới). Về văn hố, các em sẽ tiếp tục
tìm hiểu sâu hơn về những Di sản văn hoá tiêu biểu, lễ hội, nghệ thuật Dân ca
Quan họ đặc sắc của quê hương, về xây dựng đời sống văn hoá khu dân cư ở
Bắc Ninh.
Tài liệu được thiết kế các hoạt động như cuốn tài liệu Giáo dục địa phương
lớp 6 gồm: mở đầu, kiến thức mới, luyện tập, vận dụng. Hi vọng cuốn tài liệu thực
sự là nhịp cầu tri thức, tiếp nối mạch nguồn truyền thống ngàn năm văn hiến dân
tộc, trong đó có một dấu ấn riêng của vùng quê Bắc Ninh - Kinh Bắc.
Chúc các em có những khám phá thú vị và thành công trong học tập!
CÁC TÁC GIẢ
5
1
Chủ đề
LỊCH SỬ,
TRUYỀN THỐNG VÀ VĂN HOÁ
6
Bài
1
BẮC NINH TỪ ĐẦU THẾ KỈ X ĐẾN
ĐẦU THẾ KỈ XVI
Học xong bài này, em sẽ:
¾¾ Hiểu được những nét chính về bối cảnh lịch sử, tình hình chính trị, kinh
tế, xã hội, văn hoá của Bắc Ninh qua các thời kì lịch sử (từ đầu thế kỉ X
đến đầu thế kỉ XVI).
¾¾ Trình bày được q trình phát triển của Bắc Ninh (từ đầu thế kỉ X đến đầu
thế kỉ XVI), với những sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu, góp phần vào
sự phát triển chung của lịch sử dân tộc.
¾¾ Tự hào về truyền thống lịch sử quê hương; bồi dưỡng tình yêu quê
hương, đất nước; trân trọng những đóng góp của các danh nhân của
Bắc Ninh vào sự phát triển của lịch sử địa phương và đất nước.
Trong phần lịch sử của Tài
liệu giáo dục địa phương tỉnh
Bắc Ninh lớp 6, các em đã được
học về lịch sử và những đóng
góp của nhân dân vùng đất này
đối với sự phát triển của lịch sử
dân tộc từ thời nguyên thuỷ đến
đầu thế kỉ X. Từ đầu thế kỉ X đến
đầu thế kỉ XVI, nhân dân Bắc
Ninh tiếp tục có những đóng góp
quan trọng đối với sự phát triển
của lịch sử dân tộc.
Hình 1.1. Tượng vua Lý Thái Tổ
(phường Suối Hoa, thành phố Bắc Ninh)
7
Em biết gì về vua Lý Thái Tổ? Hãy chia sẻ một vài đóng góp của ơng với đất
nước mà em biết.
I. BẮC NINH TRONG BUỔI ĐẦU XÂY DỰNG QUỐC GIA PHONG KIẾN
ĐỘC LẬP (THẾ KỈ X)
1. Bắc Ninh trong buổi đầu xây dựng nền tự chủ của dân tộc
Thời Bắc thuộc, Bắc Ninh là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hố của vùng
châu thổ sơng Hồng (trị sở tại Luy Lâu và Long Biên). Ngoài ra, nơi đây cịn đóng
vai trị là một trong những trung tâm Phật giáo nổi bật ở khu vực Đông Nam Á và
miền Nam Trung Quốc.
Hình 1.2. Chùa Dâu (xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành)
- Ngôi chùa cổ nhất Việt Nam
8
Đến đầu thế kỉ X, nhiều vùng ở Bắc Ninh đã có một số dịng họ có ảnh hưởng
lớn, như họ Lý ở Đình Bảng (Từ Sơn), họ Nguyễn ở làng Nguyễn Xá (Tiên Du), họ
Lã ở Siêu Loại (Thuận Thành),… Nhiều nhân vật có ảnh hưởng lớn tới lịch sử dân
tộc xuất thân từ các gia tộc này như Thiền sư Lý Vạn Hạnh, Thiền sư Lý Khánh
Văn, Lý Công Uẩn, Nguyễn Thủ Tiệp, Lã Đường,…
Chiến thắng Bạch Đằng
năm 938 đã chấm dứt 1117
năm nước ta bị các triều đại
phong kiến phương Bắc đô hộ,
Ngô Quyền lên ngôi Vương,
khôi phục nền độc lập tự chủ,
xây dựng kinh đô tại Cổ Loa,
mở ra thời đại mới của lịch sử
dân tộc. Tuy nhiên, sau khi
Ngơ Quyền mất (năm 944),
triều đình trung ương rơi vào
hỗn loạn. Trước tình hình đó,
nhiều thế lực hào trưởng địa
phương đã nổi dậy, tạo nên
cục diện loạn 12 sứ qn.
EM CĨ BIẾT?
Năm 937, khi Kiều Cơng Tiễn giết Dương Đình
Nghệ, trong khơng khí nhân dân cả nước: “bảo
nhau dắt trẻ phù già, bổ chưng Công Tiễn, về
nhà Ngô Vương” (Thiên Nam ngữ lục), hào
trưởng Lã Minh ở Liễu Chử (nay là Liễu Khê còn gọi là làng Lựa - thuộc xã Song Liễu, huyện
Thuận Thành) đã theo Ngô Quyền trừng phạt
Kiều Công Tiễn. Năm 938, ông đã tham gia phá
quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng.
(Theo “Lịch sử Hà Bắc”, Hội đồng
Lịch sử tỉnh Hà Bắc, 1986)
Hình 1.3. Bản đồ cục diện loạn 12 sứ quân
9
Tại vùng Bắc Ninh có các sứ quân:
Nguyễn Thủ Tiệp, tự xưng là Nguyễn
Lệnh công, giữ miền Tiên Du, nay còn
dấu thành cũ ở chân núi Bát Vạn (Tiên
Du); sứ quân Lý Khuê, xưng là Lý Lãng
công, giữ miền Siêu Loại (Thuận Thành)
và một phần Gia Lâm (Hà Nội); sứ quân
Lã Đường, xưng là Lã Tá công, giữ miền
Tế Giang (bao gồm một phần Thuận
Thành và Văn Giang).
EM CÓ BIẾT?
Trong 3 sứ quân cát cứ ở vùng đất
Bắc Ninh thì sứ quân của Nguyễn
Thủ Tiệp là mạnh nhất. Nguyễn Thủ
Tiệp xưng Nguyễn Lệnh công với
trung tâm cát cứ là làng Nguyễn Xá
(huyện Tiên Du). Khi khởi binh, sứ
quân này đã chiếm giữ toàn bộ huyện
Tiên Du. Sau chiếm huyện Vũ Ninh,
Nguyễn Thủ Tiệp xưng là Vũ Ninh
vương. Từ trong cuộc hỗn loạn 12 sứ
quân, Đinh Bộ Lĩnh tiếp tục sự nghiệp
của sứ quân Trần Lãm và thu phục
các sứ quân khác. Đinh Bộ Lĩnh đã
cử Nguyễn Bặc đến đánh sứ quân
Nguyễn Thủ Tiệp. Nguyễn Thủ Tiệp bị
đánh bại và chạy vào đất Diễn Châu
(huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An).
Trong cảnh đất nước loạn lạc, Đinh
Bộ Lĩnh (xưng là Vạn Thắng vương) đã
tập hợp lực lượng rồi từ Hoa Lư (Ninh
Bình) lần lượt dẹp loạn 12 sứ quân. Năm
968, đất nước thống nhất - nhà Đinh ra
đời. Sau thời kì cầm quyền ngắn ngủi của
nhà Đinh (968 - 980), năm 980, nhà Tiền
Lê được xác lập. Vua Lê Đại Hành đã
phong vương cho các con và cử đi cai trị
(Theo “Lịch sử Hà Bắc”,
các châu, quận. Năm 993, người con thứ
Hội đồng Lịch sử tỉnh Hà Bắc, 1986)
7 là Lê Long Tung được phong làm Định
Phiên vương đóng ở thành Tư Doanh,
bên sông Ngũ Huyện. Năm 995, người con thứ 11 là Lê Long Đề được phong làm
Hành Quân vương coi châu Cổ Lãm ở phía bắc sơng Đuống.
Hình 1.4. Điện Tam bảo chùa Kim Đài (Lục Tổ) tại phường Đình Bảng, thành phố Từ Sơn
10
Cùng với sự phát triển về kinh tế, chính trị, vùng Bắc Ninh tiếp tục đóng vai trị
là trung tâm Phật giáo của vùng châu thổ sông Hồng. Bên cạnh chùa Dâu, nhiều
trung tâm Phật giáo mới dần xuất hiện như chùa Kiến Sơ, chùa Lục Tổ, chùa Chu
Minh, chùa Trường Liêu,… Các nhà sư cũng đóng vai trị quan trọng trong đời sống
chính trị, tơn giáo trong xã hội Việt Nam ở thế kỉ X.
Em hãy trình bày những nét chính về tình hình Bắc Ninh trong thế kỉ X.
2. Nhân dân Bắc Ninh tham gia cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà
Tống lần thứ nhất (981)
Cuối năm 979, nhân lúc tình hình triều đình nhà Đinh rối loạn, nhà Tống âm
mưu tiến hành xâm lược nước ta. Trước tình thế đó, sau khi lên ngơi, vua Lê Đại
Hành đã gấp rút tập hợp lực lượng để chống quân xâm lược Tống. Nhà vua chủ
trương xây dựng các trận địa chặn đường tiến quân thuỷ, bộ của địch, trong đó có
thành Bình Lỗ ở bờ nam sơng Cầu nhằm che chắn cho vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Hình 1.5. Lược đồ cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống lần thứ nhất
11
Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống lần thứ nhất (981), nhân
dân vùng đất Bắc Ninh vừa giữ vai trò hậu phương trực tiếp, chi viện nhiều sức
người, sức của, vừa đắp thành Bình Lỗ, giam chân địch ở Tây Kết không cho
chúng đi xa triền sông Cầu.
Sau các chiến dịch quân sự trên
sông Bạch Đằng và tấn công đạo quân
của Hầu Nhân Bảo, vua Lê Đại Hành
đem quân phối hợp với lực lượng ở
thành Bình Lỗ nhằm tiêu diệt đạo quân
thuỷ của Trần Khâm Tộ ở Tây Kết. Cuộc
tấn công làm quân Tống bị thiệt hại nặng
nề, số cịn lại tháo chạy xi sơng Cầu bị
qn ta truy kích. Tại trận Tây Kết, quân
ta bắt sống được các tướng Tống là
Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân.
Một lần nữa, những chiến công hiển
hách trong cuộc chiến đấu chống xâm
lược phương Bắc lại được ghi dấu trên
vùng đất Bắc Ninh.
EM CÓ BIẾT?
Đánh giá cuộc kháng chiến chống
Tống của quân dân Đại Việt do Lê
Đại Hành lãnh đạo, Trần Hưng Đạo
đã nói: “Thời Đinh - Lê dùng được
người hiền lương, đất phương Nam
mới mạnh mà phương Bắc thì mỏi
mệt suy yếu, trên dưới cùng lịng,
lịng dân khơng chia, xây thành
Bình Lỗ mà phá được quân Tống”.
(Theo “Lịch sử Hà Bắc”,
Hội đồng Lịch sử tỉnh Hà Bắc, 1986)
Nhân dân vùng đất Bắc Ninh đã có những đóng góp quan trọng như thế nào
trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống lần thứ nhất (981)?
II. BẮC NINH DƯỚI THỜI LÝ (1009 – 1225)
1. Đình Bảng - đất phát tích nhà Lý
Trên đất Bắc Ninh cổ, Đình Bảng là một trong những trung tâm chính trị, văn
hố tiêu biểu. Vào cuối thời Bắc thuộc vùng này gọi là hương Diên Uẩn, nơi quy
tụ nhiều cự tộc trong đó có họ Lý. Khoảng cuối thế kỉ VIII - đầu thế kỉ IX, Diên Uẩn
được đổi tên thành Cổ Pháp.
Cổ Pháp là vùng đất vừa thuận lợi phát triển nông nghiệp, vừa tiện vị trí giao
thương, vì thế, đã thúc đẩy sự phát triển của một vùng đất địa linh nhân kiệt.
Trong đó, thiền sư Vạn Hạnh (938 - 1018) là người đóng vai trò quan trọng trong
sự xác lập vương triều Lý.
Người sáng lập vương triều Lý (1009 - 1225) là Lý Cơng Uẩn (974 - 1028),
thuộc dịng dõi họ Lý ở hương Cổ Pháp.
12
Những điều kiện thuận lợi nào khiến vùng đất Đình Bảng trở thành nơi phát
tích nhiều nhân vật nổi tiếng trong lịch sử dân tộc?
EM CĨ BIẾT?
Lý Cơng Uẩn người hương Cổ Pháp (nay là phường Đình Bảng, thành phố Từ Sơn).
Từ nhỏ, Lý Công Uẩn được thiền sư Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi và được sư
Vạn Hạnh dạy dỗ tại chùa Lục Tổ. Lý Công Uẩn đã từng làm tiểu tại các chùa
Lục Tổ, Kiến Sơ, Thiên Tâm. Câu chuyện sự tích làng Hồi Quan với miếu ơng bà
Hộ Quốc cịn cho biết ơng có sức khoẻ phi thường và được dân cả vùng ủng hộ.
Nhờ được sự dạy dỗ của các trí thức tiêu biểu, lớn lên Lý Cơng Uẩn trở thành
người văn võ song tồn, tham gia triều chính của nhà Tiền Lê, làm đến chức Tả
thân vệ điện tiền Chỉ huy sứ, thống lĩnh hết quân túc vệ.
(Theo “Lịch sử Hà Bắc”, Hội đồng Lịch sử tỉnh Hà Bắc, 1986)
Năm 1009, vua Lê Long Đĩnh mất, Lý Công Uẩn được triều thần suy tôn lên
ngơi Hồng đế vào ngày 21/11/1009, đặt niên hiệu là Thuận Thiên. Triều Lý được
thành lập, mở ra một một kỉ ngun mới của lịch sử dân tộc.
Hình 1.6. Chính điện Đền Đơ (phường Đình Bảng, thành phố Từ Sơn)
13
Dưới thời Lý, hương Cổ Pháp được đổi thành phủ Thiên Đức và nhanh chóng
phát triển thịnh vượng. Năm 1010, vua Lý Thái Tổ đã xa giá về thăm quê, tặng cho
các bô lão quê nhà tiền và lụa theo các thứ bậc khác nhau. Cũng ngay năm đó, vua
xuống chiếu phát 20.000 quan tiền, thuê thợ làm chùa ở phủ Thiên Đức. Các vua
đời sau, đặc biệt là Lý Thánh Tơng, Lý Nhân Tơng cịn cho xây dựng ở phủ Thiên
Đức nhiều chùa, tháp lớn.
Những việc làm nêu trên của vua Lý Thái Tổ thể hiện điều gì?
EM CĨ BIẾT?
Đền Đơ cịn gọi là đền Lý Bát Đế thờ tám vị vua đầu triều Lý. Đền do vua Lý Thái
Tổ khởi dựng. Sách “Đại Việt sử kí tồn thư” chép rằng: “Năm Thuận Thiên thứ
XI (1019) dựng Thái Miếu ở sơn lăng Thiên Đức”, do vậy đền còn được coi là
“Thái Miếu nhà Lý”, ngày xưa hàng năm Bộ Lễ về đứng chủ tế ở đền. Đền Đô
được Nhà nước xếp hạng là Di tích Quốc gia đặc biệt năm 2014.
2. Tình hình Bắc Ninh dưới triều Lý
Năm 1010, vua Lý Thái Tổ chia đất nước thành 24 lộ, trong đó hai tỉnh Bắc
Ninh và Bắc Giang lúc đó thuộc lộ Bắc Giang. Tại Bắc Ninh có một số đơn vị
hành chính nổi bật như phủ Thiên Đức (khu vực thành phố Từ Sơn, huyện Tiên
Du và vùng phụ cận ngày nay); châu Vũ Ninh (khu vực huyện Quế Võ ngày
nay) và một số hương, như hương Thổ Lỗi, năm 1068 đổi tên là hương Siêu
Loại (khu vực huyện Thuận Thành và vùng phụ cận ngày nay).
Vùng đất Bắc Ninh dưới triều Lý là một trong những trung tâm kinh tế năng
động của Đại Việt. Trải qua hơn 200 năm triều Lý, sử cũ ghi đề cập đến nhiều lần
được mùa, làng xóm được ổn định. Việc trị thuỷ ở Bắc Ninh được các vua nhà Lý
hết sức chú trọng. Năm 1077, vua Lý Nhân Tông cho đắp đê dọc sông Như Nguyệt
dài 67.380 bộ (khoảng 47 km). Cùng với việc đắp đê, nhà nước còn cho đào, vét
nhiều kênh, ngịi trong đó có kênh Lãnh Kinh (phường Thị Cầu, thành phố Bắc
Ninh ngày nay) được đào năm 1089.
Dưới triều Lý, kinh tế nông nghiệp của vùng đất Bắc Ninh có bước phát triển
như thế nào? Những nguyên nhân nào để kinh tế nơng nghiệp Bắc Ninh có
bước phát triển như vậy?
14
EM CÓ BIẾT?
Phủ Thiên Đức là nơi an táng các vua Lý sau khi mất, có một loại ruộng riêng gọi là
ruộng sơn lăng. Ruộng sơn lăng được coi là ruộng công vĩnh viễn, giao cho dân xã sở
tại chia nhau cày cấy, nộp một phần hoa lợi để chi phí vào việc thờ phụng, sửa sang
và bảo vệ lăng tẩm của các vua Lý. Dân Đình Bảng cho đến triều Lê vẫn được coi là
“dân thủ lệ chuyên việc phụng thờ”, được miễn đi lính và lao dịch.
(Theo “Lịch sử Hà Bắc”, Hội đồng Lịch sử tỉnh Hà Bắc, 1986)
Cùng với sự phát triển nơng nghiệp, Bắc Ninh có nhiều làng thủ công nổi tiếng
về trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa, làm gốm, chế tác đồ kim khí. Một số làng
nghề có lịch sử lâu đời như làng lụa Tam Sơn (thành phố Từ Sơn), làng Quả Cảm
(huyện Yên Phong) làm đồ sành nâu, làng Phù Lãng (huyện Quế Võ) làm gốm men
da lươn,…
Với vị trí địa lí thuận lợi, nằm trên các trục giao thơng thuỷ bộ quan trọng
cùng sự phát triển nông nghiệp và thủ công nghiệp, vùng Bắc Ninh trở thành
trung tâm giao thương hàng hoá lớn giữa các khu vực của vùng đồng bằng châu
thổ sông Hồng.
Nêu một số dẫn chứng về sự phát triển của nghề thủ công và thương nghiệp
ở vùng đất Bắc Ninh dưới triều Lý.
EM CÓ BIẾT?
Dưới triều Lý, Bắc Ninh là trung tâm rèn sắt và đúc đồng lớn. Sử cũ chép về việc
đúc chuông và tượng cho các chùa ở trên đất Bắc Ninh, như năm 1041 đúc tượng
phật Di Lặc và 2 vị Bồ Tát cho Viện Từ Thị Thiên Phúc ở núi Tiên Du hết 7.500 cân
đồng, năm 1055 đúc chuông chùa Trùng Quang hết 6.000 cân đồng.
(Theo “Lịch sử Hà Bắc”, Hội đồng Lịch sử tỉnh Hà Bắc, 1986)
Về văn hoá, Phật giáo ở triều Lý phát triển mạnh mẽ, được coi là “quốc
giáo”, có ảnh hưởng lớn tới đời sống chính trị, văn hoá, xã hội của nhân dân.
Vùng đất Bắc Ninh là quê hương của nhiều thiền sư nổi tiếng như Lý Vạn Hạnh,
Lã Định Hương, Thiền Lão, Tơ Minh Trí, Thảo Đường, Âu Đạo Huệ, Nguyễn
Nguyên Học,…
15
EM CĨ BIẾT?
Nhà sư Thảo Đường được vua Lý
Thái Tơng trọng dụng để lập ra một
dòng thiền mới - dòng Thảo Đường
mà chính nhà vua là một thành
viên tích cực. Với dịng thiền Thảo
Đường, triều đình nhà Lý đã kết hợp
Phật giáo với truyền thống văn hoá
dân tộc và tư tưởng Nho giáo để lập
một trường phái triết học Phật giáo
mang bản sắc Việt Nam.
(Theo “Lịch sử Hà Bắc”, Hội đồng
Lịch sử tỉnh Hà Bắc, 1986)
Hình 1.7. Tượng Phật A di đà (chùa Phật Tích,
xã Phật Tích, huyện Tiên Du)
Trên cơ sở đó, nhiều ngơi chùa lớn đã được trùng tu, xây dựng tại Bắc Ninh.
Sách Đại Việt sử kí toàn thư ghi lại việc nhà Lý cho dựng 8 sở chùa tại phủ Thiên
Đức (năm 1010); dựng hai chùa Thiền Quang và Thiên Đức (năm 1016); dựng lăng
Thiên Đức (năm 1019), chùa Trùng Quang (1034), Viện Từ Thị Thiên Phúc (1041),
chùa Vạn Phúc (năm 1057) và các tháp của chùa Vạn Phúc (năm 1088 và 1105),...
EM CÓ BIẾT?
Triều Lý, các chùa lớn vùng Bắc Ninh tập trung nhiều sư tăng. Chùa Quảng Báo
(Dũng Liệt, Yên Phong) có hàng trăm tăng đồ theo sư Nguyễn Nguyên Học; chùa
Thanh Trước thì “dân chúng đông như chợ”; chùa Trùng Minh ở núi Tiên Du thì sư
Thiền Lão có hàng nghìn học trị… Năm 1129, vua Lý Thần Tông khánh thành 84.000
bảo tháp mang đặt ở nhiều nơi, nhiều nhất ở vùng Phật Tích. Vì thế, núi ở đây cịn có
tên là Bát Vạn Sơn.
(Theo “Lịch sử Hà Bắc”, Hội đồng Lịch sử tỉnh Hà Bắc, 1986)
16
Văn học và nghệ thuật trên vùng đất Bắc Ninh cũng có những bước phát
triển mới dưới triều Lý. Trong số gần 60 nhà thơ của triều Lý còn để lại tác phẩm
đến nay, thì Bắc Ninh đóng góp gần 20 người cùng với 7 vị vua Lý cũng là tác giả
văn chương của giai đoạn này.
Những dẫn chứng nào chứng tỏ Bắc Ninh đã có những đóng góp lớn vào văn
học dưới triều Lý?
Dưới triều Lý, nền giáo dục, khoa cử Đại Việt cũng từng bước được xác lập.
Bên cạnh hoạt động giáo dục tại tự viện của chùa, năm 1076, Quốc tử giám
được thành lập. Nhà Lý là vương triều đầu tiên tổ chức các khoa thi theo tinh thần
Nho giáo. Tại khoa thi đầu tiên năm 1075, Lê Văn Thịnh (người xã Đơng Cứu,
huyện Gia Bình) đã đỗ đầu, được xem là “Trạng nguyên khai khoa” trong lịch sử
khoa bảng. Lê Văn Thịnh từng giữ chức Thái sư của triều Lý. Ơng đứng đầu
phái đồn Đại Việt tiến hành đàm phán biên giới với nhà Tống tại Hội nghị Vĩnh
Bình (năm 1084). Tại đây, Lê Văn Thịnh dùng lời lẽ sắc bén với sứ Tống đòi lại
được hai châu ở vùng Quảng Nguyên bị giặc chiếm. Tiếp theo là Nguyễn
Nguyên Ức - người đỗ đầu nhiều khoa thi của triều đình và dâng nhiều kế
sách trị quốc lên vua Lý Thần Tơng.
Cho biết những đóng góp quan trọng vào truyền thống hiếu học của Đại Việt
dưới triều Lý của người dân Bắc Ninh.
Các di tích lịch sử ở vùng Bắc
Ninh cũng cho thấy sự phát triển của
một nền nghệ thuật đa dạng, đạt nhiều
thành tựu về âm nhạc, vũ đạo. Hình
chạm dàn nhạc ở chân cột chùa Phật
Tích phản ánh các điệu múa kèm với
âm nhạc của các nhạc cụ như phách,
sáo, nhị, đàn bầu, đàn nguyệt, đàn
tranh, trống cơm và trống da. Với sự
hiện diện của trống cơm, tượng người
chim và chim thần ở chùa Phật Tích
cũng cho thấy giao thoa văn hố Đại Việt
ở triều Lý với văn hố Chăm Pa.
Hình 1.8. Đèn hình đài sen triều Lý
17
Hình 1.9. Mảnh gạch triều Lý (tìm thấy tại chùa Dạm, phường Nam Sơn,
thành phố Bắc Ninh)
Nêu một số dẫn chứng về đóng góp của vùng đất Bắc Ninh vào sự phát triển
nghệ thuật dân tộc dưới triều Lý.
3. Bắc Ninh - phòng tuyến vững chắc ngăn chặn và đánh bại quân xâm lược
Tống lần thứ hai (1077)
Từ nửa sau thế kỉ XI, nhà Tống lại âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa.
Trước tình thế đó, năm 1075, Lý Thường Kiệt chủ động tiến hành cuộc tập kết quân
sự tiêu diệt các căn cứ hậu cần của quân Tống ở Ung Châu, Khâm Châu, và Liêm
Châu. Để ngăn chặn quân giặc tấn công vào phủ Thiên Đức và kinh đô Thăng
Long, quân dân nhà Lý đã xây dựng hệ thống phịng tuyến vững chắc dọc theo
sơng Cầu (tức sơng Như Nguyệt) cách Thăng Long 30 km về phía Bắc.
EM CĨ BIẾT?
Phịng tuyến Như Nguyệt thuộc đoạn giữa dịng sông Cầu từ Tam Đảo đến Lục Đầu. Vào
thời Lý, đây là khúc sông rộng do nhận nước từ sông Cà Lồ ở ngã ba Xà và sông Thiếp ở
Quả Cảm. Dọc theo hai bờ sông là đầm lầy, rừng rậm rất khó vượt qua, vì thế Lý Thường
Kiệt chỉ cần cho đắp chiến luỹ từng đoạn ở những nơi đồng trống và trục đường giao
thơng quan trọng. Đó là các đoạn ở xã Tam Giang - có bến Như Nguyệt, khởi đầu con
đường qua Yên Phụ sang Thuỵ Lôi (Đông Anh) để về Thăng Long; đoạn Thị Cầu - trên
đường từ Lạng Sơn về Thăng Long; đoạn xã Tam Đa - đối diện với dãy núi Tiên Lát bên
bờ bắc. Tại bờ nam, nhà Lý cho đắp chiến luỹ cao vài thước, mặt hướng ra bờ sơng thẳng
đứng, cịn phía trong đồng thoai thoải để quân ta dễ vận động lên mặt luỹ. Dưới chân luỹ
ở mặt sông, nhà Lý cho dựng bãi cọc, hầm chơng. Phía sau phịng tuyến, trên khu vực các
huyện Yên Phong, Tiên Du, thành phố Từ Sơn đặt doanh trại quân nhà Lý.
(Theo “Lịch sử Hà Bắc”, Hội đồng Lịch sử tỉnh Hà Bắc, 1986)
18
Hình 1.10. Lược đồ phịng tuyến Như Nguyệt
Đầu năm 1077, quân Tống tiến
đến bờ bắc sông Như Nguyệt, chia
lực lượng đóng tại xã Mai Đình do phó
tướng Triệu Tiết chỉ huy và đại bản
doanh của tướng Quách Quỳ đóng ở
khu vực xã Quang Châu (Việt Yên),
bờ bắc khu Thị Cầu. Tuy vậy, các nỗ
lực vượt sông của tướng Quách Quỳ
đều bị quân đội nhà Lý đánh bại, buộc
quân Tống phải co cụm cố thủ. Nắm
vững thời cơ, Lý Thường Kiệt quyết
định tập kích doanh trại giặc, tiêu diệt
hơn 1000 quân, buộc Quách Quỳ phải
lui quân về nước. Cuộc kháng chiến
chống qn xâm lược Tống lần thứ
hai tồn thắng.
EM CĨ BIẾT?
Vào một đêm cuối mùa xuân năm
1077, tại đền Xà thờ Trương Hống,
Trương Hát (Tam Giang, Yên Phong),
Lý Thường Kiệt cho người đọc bài thơ
“Nam quốc sơn hà”như là hiệu lệnh
mở đầu cho cuộc tấn công:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”
(Theo “Lịch sử Hà Bắc”,
Hội đồng Lịch sử tỉnh Hà Bắc, 1986)
19
Bài thơ phản ánh ý chí độc lập, tự cường của dân tộc, được coi như bản Tuyên
ngôn độc lập đầu tiên của đất nước ta.
Hình 1.11. Đền thờ Lý Thường Kiệt (xã Tam Giang, huyện Yên Phong)
EM CÓ BIẾT?
Tương truyền, bà Chúa Kho là hoàng hậu dưới triều Lý, người có cơng chiêu dân
lập ấp, khai khẩn đất đai ở vùng Quả Cảm, Cổ Mễ, Thượng Ðồng. Trong cuộc kháng
chiến chống quân xâm lược Tống lần thứ 2, bà được giao cai quản, chỉ đạo, sắp xếp,
sản xuất, tiếp tế lương thực cho quân đội nhà Lý tại kho lương ở phòng tuyến Như
Nguyệt, đồng thời đảm bảo lương thực cho người dân nơi đây. Khi cuộc kháng chiến
sắp kết thúc bà bị quân giặc giết trong một lần đi tiếp tế cho dân. Vua Lý thương tiếc,
phong cho bà là Phúc Thần. Người dân biết ơn bà, đã lập đền thờ tại chính kho lương
ở núi Kho (khu Cổ Mễ, phường Vũ Ninh, thành phố Bắc Ninh). Lễ hội đền Bà Chúa
Kho diễn ra vào ngày 14 tháng 1 (âm lịch) hàng năm.
1. Tại sao khẳng định: Việc chọn địa điểm và xây dựng phòng tuyến Như
Nguyệt là quyết định đúng đắn và sáng suốt của Lý Thường Kiệt?
2. Em hãy trình bày những nét chính về cuộc kháng chiến chống quân xâm
lược Tống lần thứ hai trên vùng đất Bắc Ninh.
20
III. BẮC NINH DƯỚI TRIỀU TRẦN (1226 - 1400)
1. Bắc Ninh trong lịch sử Đại Việt thế kỉ XIII - XIV
Tình hình chính trị
Đầu thế kỉ XIII, nhân lúc triều đình nhà Lý suy yếu, nhiều thế lực cát cứ địa
phương nổi dậy, trong đó hùng mạnh nhất là họ Trần ở phủ Thiên Trường (thuộc
vùng đất Nam Định ngày nay), đứng đầu là Trần Thủ Độ đã giúp triều Lý dẹp loạn,
vua Lý Huệ Tông đã giao nhiều quyền bính cho Trần Thủ Độ. Vì khơng có con trai
nối ngôi, Lý Huệ Tông truyền ngôi cho con gái là cơng chúa Lý Chiêu Hồng. Đầu
năm 1226, do sự dàn xếp của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng (mới lên 9 tuổi) đã
nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh. Vương triều Trần chính thức được xác lập,
trải qua 12 đời vua, cầm quyền từ năm 1226 đến năm 1400.
EM CÓ BIẾT?
Khi nhà Trần được thiết lập, các quý tộc họ Lý bị phân tán. Nhiều người ở Đình Bảng
phải chuyển cư xuống hạ lưu sông Đuống hoặc ngược lên trú ngụ tại Thái Nguyên.
Trong lúc đó, vùng Bắc Ninh là khu vực chịu ảnh hưởng của thế lực cát cứ Nguyễn
Nộn. Cuối năm 1226, Nguyễn Nộn đánh tan thế lực Đoàn Thượng ở Châu Hồng (Hải
Dương ngày nay), xưng là Đại Thắng vương. Nhà Trần vì thế phải tạm thời hồ hỗn
và phong Nguyễn Nộn làm Hồi - Đạo Hiếu Vũ vương. Năm 1229, Nguyễn Nộn ốm
chết, lực lượng của ông nhanh chóng tan rã. Vùng đất Bắc Ninh trở lại yên bình.
Dưới triều Trần, Đại Việt chia thành 12 lộ. Trong đó, lộ Bắc Giang bao gồm
vùng Bắc Ninh ngày nay.
Tình hình kinh tế
Triều đình nhà Trần cho các vương hầu, quý tộc, quan lại chiêu tập dân phiêu
tán đi khai khẩn ruộng hoang thành lập các điền trang, thái ấp. Tại Bắc Ninh đã hình
thành một số thái ấp của các vương hầu, quý tộc như thái ấp của Hoài Đức vương
Trần Bà Liệt ở Trang Liệt (Từ Sơn); thái ấp của tướng Phạm Ngộ tại Đông Lâu (Yên
Phong). Bên cạnh ruộng đất công làng xã do nông dân cày cấy, nộp thuế cho nhà
nước, ruộng chùa cũng chiếm tỉ lệ đáng kể. Vua Trần Nhân Tông từng ban tặng 70
mẫu ruộng cho chùa Thánh Ân (xã Cao Đức, huyện Gia Bình).
21
Việc đắp đê phòng lụt dưới thời Trần được đặc biệt chú trọng. Hệ thống đê trên
sông Thiên Đức (sông Đuống), sông Nguyệt Đức (sông Cầu) được bồi đắp và tu bổ
hàng năm. Sơng Thiên Đức thời kì này cịn được nạo vét, khơi thơng dịng chảy
để cung cấp nước tưới cho nông nghiệp và trở thành một đường giao thông quan
trọng nối liền vùng Kinh Bắc với kinh thành Thăng Long.
Do những thành tựu lớn lao của công cuộc trị thuỷ, việc khai khẩn đất đai ở
Bắc Ninh trong thế kỉ XIII được mở rộng. Nạn úng lụt từng bước được khắc phục,
kinh tế nơng nghiệp có điều kiện phát triển, nhiều năm được mùa to.
Trên lĩnh vực thủ công nghiệp, nhiều làng nghề thủ công ở Bắc Ninh tiếp tục
được mở rộng và phát triển dưới thời Trần, tiêu biểu là hoạt động sản xuất gốm ở
Quả Cảm và Phù Lãng không chỉ đáp ứng nhu cầu của địa phương mà còn cung
cấp sản phẩm cho xứ Bắc và kinh đơ. Nhân dân Bắc Ninh cịn chú trọng trồng dâu,
trồng gai, ni tằm, dệt lụa.
Trên cơ sở đó, hoạt động trao đổi, buôn bán diễn ra khá sôi nổi trên vùng đất
Bắc Ninh, góp phần đưa tới những biến đổi trong kinh tế và đời sống. Bến Bình
Than trở thành nơi giao lưu, buôn bán tấp nập. Làng Đình Bảng trở thành một trung
tâm trao đổi hàng hố thịnh vượng hàng đầu trong nước.
Thủ công nghiệp và thương nghiệp ở Bắc Ninh dưới thời Trần phát triển ra sao?
Về văn hoá, giáo dục
Phật giáo tiếp tục được truyền bá rộng rãi ở Bắc Ninh dưới thời Trần. Nhà Trần
cho tu sửa nhiều cơng trình
kiến trúc Phật giáo và xây
dựng mới nhiều ngơi chùa
cùng các cơng trình văn hố
trên xứ Bắc. Năm 1313, Mạc
Đĩnh Chi trùng tu chùa Dâu
với tháp chín tầng và cầu
chín nhịp. Sư Huyền Quang
dựng chùa Đại Bi (Gia Bình).
Chùa Vọng Nguyệt và nhiều
ngơi chùa khác ở Bắc Ninh
cũng được tu sửa trong thời
kì này.
Hình 1.12. Một góc chùa Phật Tích
(xã Phật Tích, huyện Tiên Du)
22
Đến thế kỉ thứ XIV, Nho giáo ngày càng
có vai trị chính trị quan trọng trong khi Phật
giáo từng bước giảm dần ảnh hưởng. Cuối
thế kỉ XIV, nhà Trần đã có những chính
sách nhằm giảm bớt số sư tăng, đưa họ về
sản xuất hoặc vào trong quân đội. Năm 1381,
chùa Đại Than (Gia Bình) được lệnh đốc xuất
tăng nhân khoẻ mạnh bổ sung vào quân đội.
EM CÓ BIẾT?
Chùa Vạn Phúc (Phật Tích, Tiên
Du) trở thành một trung tâm
truyền giáo lớn ở thế kỉ XIV. Tại
đây nhà Trần cho xây dựng một
thư viện lớn gọi là Viện Lạn Kha.
Năm 1383, Thượng hồng Trần
Nghệ Tơng đã tập hợp và sáng tác
tập “Bảo Hoà dư bút” tại cung
Bảo Hoà ở chùa. Nhà vua cũng tổ
chức thi Thái học sinh (tức thi tiến
sĩ) trên quy mô cả nước tại chùa.
Cùng với sự gia tăng ảnh hưởng của
Nho giáo, giáo dục, khoa cử Bắc Ninh cũng
có bước phát triển mới. Dưới triều Trần,
nhiều trí thức vùng đất Bắc Ninh làm rạng
danh nền khoa cử đất nước. Năm 1246,
nhà Trần mở khoa thi Thái học sinh lấy Tam
khôi, Nguyễn Quan Quang người làng Tam
Sơn huyện Đông Ngàn (phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn ngày nay) đỗ Trạng
nguyên. Ông là một văn thần nổi tiếng và cũng là người đầu tiên ở nước ta chính
thức đỗ Trạng ngun.
Em hãy nêu thành tựu chính về văn hố, giáo dục Bắc Ninh ở triều Trần.
2. Nhân dân Bắc Ninh kháng chiến chống quân Mông - Nguyên (thế kỉ XIII)
2.1. Bắc Ninh trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên (1285)
Sau khi đánh bại nhà Tống (Trung Quốc), nhà Nguyên mở cuộc chiến tranh
xâm lược Đại Việt lần thứ hai. Đầu năm 1285, tướng nhà Nguyên là Thoát Hoan
chỉ huy hai đạo quân thuỷ, bộ tràn vào nước ta. Đạo quân chủ lực tiến theo
đường từ Lạng Sơn qua lộ Bắc Giang hướng đến kinh thành Thăng Long.
Trước sức ép ngoại xâm từ phương Bắc, tháng 11 năm 1282 vua tơi nhà Trần
mở hội nghị ở bến Bình Than (Cao Đức, Gia Bình) để bàn kế hoạch kháng chiến.
Nhà Trần chọn lộ Bắc Giang làm địa bàn lập phòng tuyến ngăn chặn quân địch
trước cửa ngõ kinh thành Thăng Long. Một lực lượng lớn được điều động trấn giữ
vùng Bắc Giang - Lạng Giang. Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn - Tổng chỉ huy
quân đội nhà Trần lúc đó - cịn bố trí hệ thống phịng thủ gần Thăng Long, với các
căn cứ quân sự ở Bình Than, Phả Lại, Vạn Kiếp.
Nhân dân khắp vùng Bắc Ninh đoàn kết đứng lên kháng chiến, thực hiện kế
sách “vườn không nhà trống”, lập các đội hương binh ở các địa phương, góp
cơng sức đào cơng sự phối hợp với qn đội nhà Trần.
23
Tháng 1 năm 1285, đại quân Nguyên đã vượt biên giới ồ ạt tiến vào nước ta.
Thoát Hoan tập trung lực lượng đánh vào Nội Bàng, nơi Trần Quốc Tuấn đóng đại
bản doanh, nhằm tiêu diệt quân chủ lực Đại Việt. Quân nhà Trần lui binh về giữ Vạn
Kiếp, củng cố tuyến phịng thủ trên Bình Than.
Hình 1.13. Lược đồ cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên lần 2 năm 1285
Đầu tháng 2 năm 1285, tướng giặc là Ô Mã Nhi tiến đánh Vạn Kiếp và núi
Phả Lại (Quế Võ), vua Trần đem quân Thánh Dực và hơn 1.000 chiến thuyền theo
đường sông Đuống đến chi viện. Cuộc giao chiến lớn giữa hai bên đã diễn ra tại
Bình Than. Sau đó, quân đội nhà Trần rút khỏi Bình Than - Phả Lại để lui về giữ
tuyến phịng thủ sơng Hồng.
Thốt Hoan tiếp tục cho quân tiến qua vùng Vũ Ninh (Quế Võ), Đông Ngàn
(Từ Sơn) rồi vượt qua sông Đuống tiến vào Thăng Long. Tuy nhiên, đến mùa hè
năm 1285, vua tôi nhà Trần mở cuộc phản công chiến lược, tiêu diệt nhiều vị trí
địch ở A Lỗ, Tây Kết, thừa thắng vây hãm địch ở Thăng Long. Chủ tướng giặc là
24
Thốt Hoan bỏ chạy qua sơng Đuống
về vùng Như Nguyệt (Yên Phong). Tại
đây, Trần Quốc Toản chỉ huy đội quân
nghĩa dũng chặn đánh, làm cho giặc
Nguyên phải tháo chạy. Trong một trận
chiến đấu bên dịng sơng Như Nguyệt,
Trần Quốc Toản đã anh dũng hi sinh.
Trước khí thế phản cơng như vũ
bão của quân dân Đại Việt, đạo quân
chủ lực của quân Nguyên tan vỡ. Thoát
Hoan phải chui vào ống đồng cho quân
lính khiêng chạy về bên kia biên giới.
Cuộc xâm lược của giặc Nguyên năm
1285 hoàn toàn thất bại.
Một lần nữa, lộ Bắc Giang nói
chung, Bắc Ninh nói riêng đã góp phần
quan trọng bảo vệ cửa ngõ phía bắc
của kinh thành Thăng Long.
EM CÓ BIẾT?
Khi hội nghị các vương hầu nhà Trần
được triệu tập, Hoài Văn hầu Trần
Quốc Toản đến bến Bình Than để dự
hội nghị. Vì cịn nhỏ tuổi, Trần Quốc
Toản không được vào dự bàn việc
nước, liền trở về quê chiêu tập gia nô,
thân thuộc, được hơn 1.000 người,
lập đội nghĩa binh, dựng lá cờ lớn đề
sáu chữ vàng: “Phá cường địch, báo
hoàng ân” (Phá giặc mạnh, đền ơn
vua). Đội nghĩa quân của người thiếu
niên anh hùng hăng hái tập luyện,
chiến đấu anh dũng trong cuộc kháng
chiến chống quân xâm lược Nguyên
lần thứ hai.
Em hãy nêu những nét chính về cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần
thứ hai trên vùng đất Bắc Ninh.
2.2. Bắc Ninh trong cuộc kháng
chiến chống giặc Nguyên lần thứ ba
Tháng 12 năm 1287, quân
Nguyên tiến hành cuộc xâm lược
lần thứ ba vào Đại Việt. Quân giặc
chia làm hai đạo thuỷ, bộ do Thoát
Hoan chỉ huy đã vấp phải sự chống
trả quyết liệt quân dân nhà Trần.
Sau đó, Thốt Hoan tiến đến
vùng Vạn Kiếp, biến nơi đây thành
một căn cứ quân sự, xây dựng
thành, trại bằng gỗ trên núi Phả Lại
và Chí Linh.
EM CĨ BIẾT?
Tại cửa ải Lãnh Kinh (vùng Đáp Cầu
ngày nay), nhà Trần bố trí một đội quân
tinh nhuệ trấn giữ. Đây là một cửa ải
quan trọng trong việc cầm chân, cản giặc
trước cửa ngõ kinh thành Thăng Long.
Ngày 29-12-1287, giặc Nguyên tiến đến
cửa ải Lãnh Kinh. Tướng nhà Trần coi
giữ cửa ải là Hưng Đức Hầu Quán đem
quân đón đánh. Quân ta dùng tên thuốc
độc bắn như mưa sang đội hình địch.
Giặc vừa chết, vừa bị thương rất nhiều,
bước tiến quân của chúng phải chững lại.
25