Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Các lựu chọn và cơ hội:Các con đường mở ra trước Việt Nam pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.15 KB, 37 trang )

Fulbright Economics Teaching Program Economics Executive Education Program Choices and Opportunities
2001-2002






CÁC LỰA CHỌN VÀ CƠ HỘI:
CÁC CON ĐƯỜNG MỞ RA TRƯỚC VIỆT NAM



Tiến só David O. Dapice
Trung tâm Nghiên cứu Kinh doanh và Chính phủ
Trường Quản lý Nhà nước John F. Kennedy





Tháng 9 - 2000






Fulbright Economics Teaching Program Economics Executive Education Program Choices and Opportunities
2001-2002


David Dapice

1
Tóm tắt bài viết “Các lựa chọn và Cơ hội: Các con đường Mở ra trước Việt Nam”
Dẫn nhập
Tăng trưởng của Việt Nam đã chậm lại kể từ tốc độ 9% năm 1997, Việt Nam đã và
đang nhận được rất nhiều tư vấn của các nhà tài trợ đề xuất phát triển khu vực tư nhân,
hạ thấp các hàng rào mậu dòch, và cải thiện thò trường vốn để có thể tận dụng lợi thế
của nền kinh tế thế giới. Nhữngû tư vấn này có thể hợp lý đối với nhiều người nhưng
cũng khó thực hiện trong khi còn có nhiều vấn đề liên quan đến chủ nghóa xã hội, công
bằng, và ổn đònh. Nhiều người vẫn còn coi Mỹ như thù đòch, và cải thiện quan hệ với
Trung Quốc không giảm nhẹ được mối lo về cạnh tranh ngày càng tăng của Trung
Quốc trên nhiều ngành công nghiệp quan trọng của Việt Nam. Cách tốt nhất để tận
dụng lợi thế của khoa học công nghệ, gồm cả Internet, hiện vẫn còn đang được thảo
luận. Điều mọi người đều đã đồng ý là: Việt Nam vẫn còn nghèo và không có nhiều
đất. Mọi người sẽ phải thoát khỏi nông nghiệp để xóa nghèo đói và bắt đầu "theo kòp"
các nơi khác. Ngay cả nếu tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người bằng nhau
(ví dụ như 5% mỗi năm) thì mức tăng ở Việt Nam là 20 đô la, ở Trung Quốc là 50 đô
la, và ở Thái Lan là 150 đô la hàng năm.
Thay vì lặp lại lời tư vấn, bài viết này trình bày ba giải pháp thay thế, hay ba tình
huống trong tương lai của kinh tế Việt Nam. Mỗi tình huống là kết quả của một
phương pháp tư duy nhất quán, với các chính sách và thu hoạch khác nhau. Dù lựa
chọn tình huống nào, điều quan trọng là phải thấy rõ được các ý nghóa.
Tác giả bò thiên vò bởi lòng tin là các máy tính và thông tin nhanh hơn, rẻ hơn đang tạo
ra một cuộc cách mạng có tầm quan trọng tương đương với thời phát minh ra máy in
hay điện năng. Quyết đònh không tham gia vào tiến trình này cũng tương tự như quyết
đònh thu giá điện 1 đô la cho mỗi kilowatt giờ. Có thể làm như vậy, nhưng liệu chính
phủ có muốn để người dân bò tối? Tuy nhiên, việc tận dụng lợi thế của những tiến bộ
(hiện nay thuê bao một đường thoại xuyên Thái bình dương chỉ tốn 5 cent mỗi giờ!
Chẳng bao lâu nữa điện thoại sẽ gần như miễn phí.) đòi hỏi quá trình ra quyết đònh

phải nhanh hơn. Đây là điều rất khó đối với chính phủ và ngay cả đối với các doanh
nghiệp nhà nước theo kiểu cũ. Chậm chạp nghóa là thua. Cần xem tại sao dòng FDI ở
Việt Nam năm 1999 - 2000 giảm 80% - 90% so với năm 1996, trong khi đó tăng gấp
đôi hay gấp ba ở Hàn Quốc và Thái Lan.
Tình huống 1: Tiếp tục như bình thường (hay kém hơn)
Một số người ở Việt Nam nhìn lại thập kỷ vừa qua với sự thoả mãn và tin tưởng là nên
tiếp tục cách tiếp cận từng bước. Hầu hết những người này muốn duy trì hệ thống
ngân hàng nhà nước như hiện nay, muốn các doanh nghiệp nhà nước lớn được hưởng
độc quyền, và nghi ngờ về các lợi ích của Internet. Họ tin tưởng vào tự cung tự cấp và
Fulbright Economics Teaching Program Economics Executive Education Program Choices and Opportunities
2001-2002

David Dapice

2
bảo hộ. Tác giả tranh luận là quan điểm trên chỉ là tự thoả mãn, nếu xét sự chậm lại
của tăng trưởng nông nghiệp, tác động của cuộc cách mạng thông tin liên lạc, và mối
đe dọa to lớn của cạnh tranh nước ngoài, đặc biệt từ Trung Quốc. (Bài viết trình bày
một trường hợp nghiên cứu về công nghiệp xe máy.) Tiếp tục chính sách theo chiều
hướng này dường như sẽ làm cho tăng trưởng bò suy giảm nhiều hơn, có thể chỉ còn 4%
- 5% mỗi năm, tuy tỉ lệ đầu tư đạt 25% - 30% GDP nhưng với những mô hình đầu tư
không hiệu quả. Khía cạnh yếu nhất của tình huống này là tạo công ăn việc làm. Mỗi
năm sẽ cần phải tạo 1.4 triệu việc làm mới, trong khi tình huống này sẽ chỉ tạo được
rất ít, không giúp được gì nhiều trong việc giảm nhẹ tình trạng thất nghiệp và thiếu
việc. Kết quả có thể là tụt hậu và tăng bất ổn đònh xã hội. Thuế thu nhập cá nhân cao
(thuộc hàng cao nhất thế giới) cũng sẽ thúc đẩy rất nhiều lao động có năng lực ra nước
ngoài và kết quả là giảm thu nhập thuế của chính phủ. Năng lực kỹ thuật cũng đồng
thời bò giảm.
Có một "hộp" đặt vấn đề giải thích vai trò chủ đạo. Rõ ràng là không phải trực tiếp tạo
ra việc làm, vì số lao động trong doanh nghiệp nhà nước sẽ giảm. Khu vực nhà nước

chỉ có vai trò nhỏ bé trong nông nghiệp, ngay cả trong công nghiệp tỉ trọng sản lượng
cũng giảm xuống chỉ còn 41% và có thể bò khối công nghiệp FDI vượt qua trong một
hai năm tới. Tỉ trọng của khu vực nhà nước trong dòch vụ cũng đang giảm. Như vậy vai
trò chủ đạo có thể là nhà nước làm chủ một số ngành công nghiệp "nặng", điện và điện
thoại, ngân hàng và đường sắt. Tuy nhiên các nhượng bộ thương mại sẽ làm cho các vò
trí này dần dần yếu đi. Hoặc có nghóa là khu vực nhà nước sẽ chuyển sang các ngành
mang tính đột phá, nhưng rõ ràng là khu vực tư nhân đang nổi trội trong công nghiệp
phần mềm. Một vai trò chủ đạo sẽ mang ý nghóa nếu được đònh nghóa là tạo lập một
môi trường trong đó tất cả các công ty có năng lực cạnh tranh sẽ có điều kiện để phát
triển.
Tình huống 2: Tiếp tục như bình thường (hay khá hơn)
Trong tình huống này, các nhóm thực tiễn và kỹ trò cân bằng với nhóm bảo thủ. Kết
quả là một sự thoả hiệp. Tăng cường thiện ý cho sản xuất hàng xuất khẩu, chú trọng
hơn vào dòch vụ để giảm các giá đang quá cao và cải thiện chất lượng (như điện thoại
và Internet), đồng thời chú trọng hơn vào cải thiện hiệu quả của đầu tư nhà nước. Sẽ
có cải tổ ngân hàng và một thò trường vốn tốt hơn, để cho đầu tư có hiệu quả hơn. Với
cùng một mức đầu tư, tốc độ tăng trưởng có thể đạt 6%-7%, mặc dù dòng FDI cũng có
thể tăng mạnh hơn. Trong tình huống này, các mục tiêu được đặc biệt coi trọng là mức
tăng trưởng (đến năm 2010 tăng gấp đôi GDP) và giảm nghèo. Tuy nhiên cần phải có
cải cách nhanh hơn và khéo léo hơn so với thời kỳ 1996-2000.
Phần tăng trưởng việc làm được phân tích khá kỹ. Khu vực doanh nghiệp nhà nước có
thể sẽ giảm dần số việc làm. Khu vực FDI hoàn toàn có thể tiếp nhận hàng năm trên
100,000 lao động (nhanh hơn so với mức tăng 60,000 hàng năm trong thập kỷ qua) và
Fulbright Economics Teaching Program Economics Executive Education Program Choices and Opportunities
2001-2002

David Dapice

3
cùng một mức như vậy đối với thành phần tư nhân chính thức trong nước, mặc dù điều

này có nghóa là sản lượng phải tăng 20% hàng năm. Nông nghiệp có khả năng tiếp
nhận thêm 200,000 lao động hàng năm, mặc dù thu nhập và sản lượng trên đầu người
chỉ bằng một phần ba hay phần tư các khu vực khác. Điều này nghóa là phi nông
nghiệp ở nông thôn và các khu vực không chính thức sẽ phải tiếp nhận trên một triệu
lao động mỗi năm, chỉ để giải quyết số lao động tăng thêm! Đây là một con số lớn, do
đó phải phân tích các hạn chế hiện tại. Ở đây đề cập đến ba hạn chế: quy trình thực tế
của các ngân hàng nhà nước đang hạn chế tín dụng cho khách hàng tư nhân; các hạn
chế về sử dụng đất ở cấp đòa phương; kiểm soát xuất khẩu cũng như chi phí vận
chuyển và tiếp thò cao làm ảnh hưởng xấu đến công việc kinh doanh và làm tổn thất
doanh số. Ngay cả với những cải cánh nêu trên, kết quả chỉ là tạo thêm việc làm mà
hoàn toàn không tăng năng suất, mặc dù thu nhập của những việc làm mới này vẫn cao
hơn nhiều so với lao động ở lại làm nông nghiệp.
Bài viết phân tích ngắn gọn về mức tiết kiệm thực tế ở Việt Nam. Thực ra thâm hụt
thương mại không rõ cao đến mức nào (con số theo IMF cao gấp đôi con số chính
thức). Dòng vốn Việt Kiều chuyển về khá lớn, một phần có thể là đầu tư hơn là quà
tặng. Trong khi mức tiết kiệm công bố là 25% GDP, con số thực tế có thể trong khoảng
15%-20%. Cần lưu ý điểm này vì nếu môi trường đầu tư xấu đi, dòng vốn chảy về sẽ
giảm.
Cũng có một "hộp" về thoả thuận thương mại Việt - Mỹ. Nước Mỹ nhập khẩu nhiều
hơn Việt Nam 100 lần, và giảm thuế nhập khẩu hàng công nghiệp chế biến sẽ tăng rất
mạnh xuất khẩu của Việt Nam cũng như dòng FDI vào Việt Nam. Tác giả tranh luận
là thỏa thuận thương mại cho khả năng thành công, nhưng không bảo đảm thành công.
Cần phải có các bước khác để hiện thực hóa đầy đủ các lợi ích của bản thoả thuận, để
tăng số lượng và chất lượng của FDI. Mặc dù năm ngoái Việt Nam đạt tổng số 4 tỉ đô
la xuất khẩu hàng chế biến, Philippines gần đây chỉ riêng mức tăng thêm hàng năm đã
là 4 tỉ đô la hàng chế biến xuất khẩu, chủ yếu nhờ vào ngành điện tử. Xét các nhượng
bộ về điện thoại và ngân hàng, có thể thấy thời gian thực hiện theo như thỏa thuận là
quá chậm so với công nghệ và nhu cầu của Việt Nam, và một chính sách thật khéo léo
sẽ là chuyển động nhanh hơn so với thoả thuận, nếu không muốn xảy ra tình thế các
công ty Việt Nam khi nói chuyện với khách hàng hay nhà cung ứng phải chòu phí cao

hơn 10 lần so với các công ty ở các nước khác. Một số lượng thật lớn các nhà đầu tư
nước ngoài vào nhanh chừng nào, nền kinh tế tạo thêm việc làm sớm chừng đó.
Một "hộp" khác bàn về tác động của cơ sở hạ tầng đối với các vùng nghèo. Câu hỏi là
"trợ giúp các vùng nghèo theo hình thức nào?" Các dự án lớn như một khu chế biến
dầu, một cảng hay cầu (ít sử dụng đến), hay một công trình thủy điện không giúp đỡ
được gì nhiều cho các đòa phương có dự án. Cách tiếp cận tốt hơn có thể là phi tập
trung hóa quyết đònh đầu tư, kèm theo một số hướng dẫn và giám sát. Một quyết đònh
sáng suốt gần đây là lùi tiến độ một số đoạn trên đường cao tốc Bắc-Nam. Nếu các
Fulbright Economics Teaching Program Economics Executive Education Program Choices and Opportunities
2001-2002

David Dapice

4
đường dẫn Đông-Tây được xây dựng để nối liền các vùng xa với các thò trường và cảng
biển, các vùng này sẽ dần dần tăng trưởng và làm cho việc hoàn tất đường cao tốc
Bắc-Nam có hiệu quả tốt hơn.
Tình huống 3: Một quyết đònh nhảy vọt
Trong khi mọi người thường muốn tăng trưởng nhanh, thường có một số chi phí kèm
theo. Phần này thảo luận các chính sách để tăng trưởng nhanh hơn, đồng thời đề cập
các sức ép và rủi ro kèm theo. Một rủi ro là "mất kiểm soát", theo nghóa một khi các
thay đổi mạnh mẽ được đưa ra, sẽ khó mà xoay ngược lại. Một rủi ro khác, theo Đặng
Tiểu Bình nói, "khi mở cửa sổ thì ruồi bay vào." Như vậy một phần của mở cửa thông
tin là nhận được các thông điệp không mong muốn. Tuy nhiên, khi những rủi ro này
được cảm nhận rất rõ ràng, thì giá phải trả cho sự chuyển biến chậm chạp lại có thể
chưa rõ. Càng ngày công việc kinh doanh càng cần Internet như một công cụ căn bản.
Đó là lý do tại sao Trung Quốc trong khi một mặt cố gắng áp dụng bức tường lửa
(firewall), mặt khác vẫn quyết đònh thúc đẩy Internet. Tính theo đầu người, Trung
Quốc sử dụng Internet nhiều gấp 10 lần Việt Nam. Có phải Trung Quốc ngây thơ? Hay
họ cân nhắc chi phí và lợi ích rõ ràng hơn?

Công nghệ mới đã tăng cường và phổ biến rộng sức mạnh của thông tin. Các công ty
Việt Nam sẽ có khả năng phát triển nhanh hơn. Trong tình huống 3, doanh nghiệp nhà
nước cũng sẽ tăng trưởng nhanh hơn so với hai tình huống trước, nhưng sẽ có tỉ trọng
thấp hơn trong sản lượng công nghiệp, vì trước đây khu vực tư nhân ít có điều kiện
hơn. Để cho doanh nghiệp nhà nước tăng trưởng nhanh hơn nhưng tỉ trọng lại giảm đi,
đây là một quyết đònh chính trò.
Các chính sách trong tình huống 3 sẽ nhằm thúc đẩy tăng trưởng. Khu vực tư nhân sẽ
không bò coi là một điều cần phải có dù không muốn, mà sẽ là một cột trụ cho sức
mạnh của đất nước. Những điều luật tốt không chỉ được thông qua mà còn được áp
dụng. Sẽ xuất hiện một hệ thống ngân hàng thực sự thương mại và một thò trường vốn.
Việt Nam sẽ hướng tới trở nên một trong những quốc gia có kết nối thông tin tốt hơn
(có xét đến mức thu nhập) thay vì thuộc vào số các nước ít liên lạc nhất. Thuế thu nhập
cá nhân sẽ giảm còn 25-30% để tối đa hóa thu nhập thuế thay vì đè nặng lên những
người tay nghề cao.
Khoản gia tăng ngân sách nhờ thu nhập thuế sẽ được dùng để trợ giúp các vùng nghèo
hơn hay những người bò mất việc. Lượng FDI cao sẽ tiếp tục dồn về các vùng tăng
trưởng mạnh, vì vậy phải tạo ra khuyến khích để các nhà đầu tư sang các vùng khác -
như thay đổi cách quy vùng đất, tài trợ xây nhà ở, cung cấp dường sá và tiện ích v.v
Trong tình huống này tỉ lệ tăng trưởng sẽ là 10% hàng năm, với tỉ lệ đầu tư bằng 35%-
40% GDP. Đây là đi theo kinh nghiệm tương tự của Trung Quốc, Hàn Quốc, và Đài
Fulbright Economics Teaching Program Economics Executive Education Program Choices and Opportunities
2001-2002

David Dapice

5
Loan vào thời kỳ thu nhập thấp. Tiết kiệm sẽ tăng thêm từ FDI, thêm tái đầu tư từ lợi
nhuận, chuyển đổi vàng và đô la vào ngân hàng, một lượng vốn chảy vào cao hơn, kể
cả từ Việt Kiều. Hàng triệu việc làm được tạo ra với mức thu nhập 50-100 đô la mỗi
tháng, thay vì mức thu nhập theo thời vụ 10-20 đô la của công việc nông thôn hiện

đang dành cho 25 triệu lao động. Bước nhảy như vậy cần có một số may mắn và năng
lực, và không phải không có nguy hiểm. Nhưng những hứa hẹn là giảm nghèo, phát
triển năng lực kỹ thuật, và đưa đất nước trở nên giàu mạnh một cách nhanh hơn.
Bài viết có một "hộp" về những môn chơi với tổng số điểm là dương, âm, hay bằng 0.
Môn chơi ở đây nói đến mối quan hệ qua lại giữa các công ty, quốc gia, nhóm người,
hay các cá nhân. Môn chơi tổng số điểm bằng 0 có thể ví dụ như bóng đá, khi một đội
thắng thì đội kia phải thua. Môn chơi tổng số điểm âm ví dụ như một cuộc hôn nhân
xấu hay một tình huống coi thường luật lệ giao thông. Tất cả các bên đều bò thiệt hại.
Môn chơi tổng số điểm dương ví dụ như một cuộc hôn nhân tốt hay thương mại tự
nguyện. Cả hai bên đều có lợi. Người nông dân xem cuộc đời như một cuộc chơi tổng
số điểm bằng 0, bởi vì chỉ có một lượng cố đònh. Nhưng khi công nghệ cho phép những
nước có thu nhập đầu người hàng năm 30,000 đô la, không quá khó để có được mức
3,000 đô la (bằng Thái Lan). Nếu một dân tộc đứng ở mức 300 đô la, dân tộc này đang
mất cơ hội thònh vượng và đang lãng phí tiềm năng. Trong trường hợp này, hệ thống
trở thành một môn chơi có tổng số âm. Trong trường hợp ngược lại, mọi người cố gắng
giúp nhau (hoặc ít nhất là không cản trở nhau), với mong đợi là tất cả cùng tiến lên.
Kết quả là tất cả cùng tiến lên nhanh hơn. Xét đến cùng thì một xã hội phải chọn một
môn chơi cho mình.
Kết luận
Bài viết này trình bày ba tình huống khác nhau dựa trên ba quan điểm khác nhau. Bối
cảnh của bài là nền kinh tế thế giới đang hội nhập nhanh hơn và toàn diện hơn so với
trước đây, và công nghệ thay đổi nhanh chóng cho phép các dân tộc tự chọn cho mình
mức thu nhập mong muốn. Một số chọn tăng trưởng nhanh . Một số khác không chọn
hoặc không thể chọn như vậy. (Có một ví dụ về đào tạo 10,000 lập trình viên phần
mềm Internet với chi phí 10 triệu đô la mỗi năm. Trong vòng một thập kỷ họ có thể
thu nhập 2 tỉ đô la mỗi năm và nộp thuế 500 triệu đô la mỗi năm. Riêng thu nhập này
đã đóng góp 1% cho tăng trưởng quốc gia. Điều này dễ xảy ra nhất trong tình huống
nào?)
Nếu chúng ta so sánh ba tình huống, số 1 sẽ cho Việt Nam đạt thu nhập bình quân đầu
người 540 đô la vào năm 2010. Số 2 cho đạt 650 đô la, và số 3 cho mức gần 1,000 đô

la. Tỉ lệ nghèo sẽ giảm rất mạnh ở tình huống 3, gần như mất hẳn nếu dùng chuẩn
theo lương thực, nếu như đầu tư xã hội được hướng một cách khôn khéo vào các khu
vực nghèo và các nhóm nghèo. Như chúng ta đã thấy trong thập kỷ 1990, tỉ lệ nghèo
đã giảm mạnh trong giai đoạn tăng trưởng nhanh kết hợp với mở rộng dòch vụ xã hội.
Fulbright Economics Teaching Program Economics Executive Education Program Choices and Opportunities
2001-2002

David Dapice

6
Nhưng nếu quốc gia giàu hơn, mạnh hơn, có năng lực kỹ thuật cao hơn, và tỉ lệ nghèo
thấp hơn, tại sao lại không chọn số 3? Có thể một nguyên nhân do một số người không
tin là có thể đạt tăng trưởng 10%, nhưng tăng trưởng đã đạt 9% cho đến năm 1997, nay
có thoả thuận thương mại và những cơ hội tăng trưởng nhanh chóng về điện tử, chắc
chắn mục tiêu này là hợp lý. Có phải doanh nghiệp nhà nước có vai trò quá nhỏ?
Nhưng vai trò này đã giảm một cách tương đối trong suốt thập kỷ qua, và chiều hướng
dường như vẫn tiếp tục. Doanh nghiệp nhà nước chắc chắn sẽ tăng trưởng nhanh hơn
trong tình huống 3, trở nên lớn hơn và mạnh hơn. Ngay cả khi khu vực này cần thời
gian để trở nên có khả năng cạnh tranh cao hơn, thu nhập thuế cao hơn sẽ cho phép
thực hiện trợ giá.
Nguyên nhân thứ ba của sự thận trọng là các nhóm khác sẽ nổi lên và khó quản lý.
Việt Nam có thể bò quyến rũ bởi một văn hoá tiêu thụ, hào nhoáng nhưng giả tạo. Để
đến thái quá thì ngay cả sự ổn đònh cũng có thể bò đe doạ. Có những câu hỏi ngoài
phạm vi của một nhà kinh tế, nhưng không phải là câu hỏi không đúng. Tuy nhiên, các
vấn đề này cần phải được cân nhắc so với các lợi ích của tăng trưởng việc làm nhanh
hơn, giáo dục tốt hơn, và năng lực quốc gia mạnh hơn Một nguồn lo ngại nữa là tham
nhũng, và chắc chắn mức lương công chức cao hơn sẽ giúp chống tham nhũng hiệu quả
hơn, so với các biện pháp chống tham nhũng đơn thuần. Các vấn đề này cần được cân
nhắc một cách thực tiễn.
Cuối cùng là một "hộp" về khả năng sử dụng một phần mềm biên dòch, chuyển các

văn bản từ tiếng Anh sang tiếng Việt và ngược lại. Chất lượng của những phần mềm
tương tự như vậy hiện nay được cải thiện đến mức có thể dùng để dòch nháp trong
những lónh vực hẹp như y tế hay kinh doanh. Tài trợ dự án này bằng vốn ODA và sau
đó phân phối miễn phí sẽ tăng rất nhanh tốc độ thông tin liên lạc, hơn là chờ đến lúc
hàng chục triệu người thành thạo ngoại ngữ. Đây có thể là một cách để đẩy nhanh tiến
trình kết nối với hệ thống thông tin toàn cầu.


Fulbright Economics Teaching Program Economics Executive Education Program Choices and Opportunities
2001-2002

David Dapice

1
Lời giới thiệu
Việt Nam đã đạt thành tích tăng trưởng kinh tế rất cao trong giai đoạn 1990-
1997, sau đó đã có phần chậm lại. Đất nước vẫn còn là một trong những nước nghèo
trên thế giới cũng như trong khu vực, và có khả năng được xếp vào trong danh sách
“các nước nghèo nợ nhiều” (HIPC - Highly Indebted Poor Country) được đề xuất cho
các nước có thu nhập thấp nhất đồng thời có khả năng trả nợ yếu nhất.
1
Việt Nam đã
và đang nhận được rất nhiều tư vấn về đònh hướng chính sách cho thập kỷ tới. Tuy có
một số điểm khác biệt, nhìn chung tất cả các tư vấn đều thống nhất với nhau. Các nhà
tài trợ đề xuất là cần đặc biệt phát triển khu vực tư nhân bằng cách tạo lập một sân
chơi công bằng, tiếp tục tiến tới hạ thấp các hàng rào mậu dòch, thúc đẩy hệ thống
ngân hàng và thò trường vốn theo hướng thương mại hơn, và tăng tốc hội nhập kinh tế
với thế giới cùng với những nỗ lực đặc biệt để cải thiện khoa học công nghệ. Có thể
giảm nghèo đói không chỉ bằng cách tăng trưởng nhanh sản xuất thâm dụng lao động,
mà còn bằng cách đònh hướng các đầu tư vào con người, vào đầu tư vật chất cho các

khu vực nghèo, và vào cải thiện các đònh chế. Giả đònh ngầm ở đây là sẽ có mức lạm
phát và thâm hụt ngân sách thấp, một tỉ giá ngoại hối hợp lý, cũng như sẽ tiếp tục cải
thiện quy chế và hệ thống pháp lý.
Đối với nhiều người Việt Nam, có vẻ đó là những đề xuất về lâu dài, nhưng
khó tương thích với hiện thực Việt Nam. Trước tiên, đang có đòi hỏi tạo dựng một nền
kinh tế thò trường theo đònh hướng xã hội chủ nghóa, tuy vẫn còn đang thảo luận về
đònh hình chính xác. Thứ hai, có đòi hỏi của nhiều người, tuy không phải tất cả, phải
tiếp tục vai trò chủ đạo của khu vực nhà nước. Thứ ba, có một mối lo về các vùng lạc
hậu, về thu nhập bất cân bằng, về các hiện tượng xã hội không mong muốn. Thứ tư,
một số người lập luận là quốc gia cần duy trì khả năng bảo vệ nền kinh tế khỏi các
chấn động quốc tế có thể xảy ra hay nguy cơ vốn chảy thoát đi như trong cuộc khủng
hoảng châu Á vừa qua. Lo ngại về an ninh đôi khi thể hiện ra ở các đòi hỏi phải tự lập
tự chủ về một số mặt cụ thể như gạo, đường, xi măng, và có thể cả phân bón. Tự cung
có thể đạt được nhưng bù lại thường là giá sản phẩm cao, lợi nhuận đầu tư thấp, thậm
chí lỗ. Những ngành công nghiệp này tiêu thụ mất tiền vốn q hiếm và không tạo
được nhiều việc làm.
Nếu có thể thêm một khía cạnh ngoại giao vào bài viết kinh tế này, có sự nghi
ngờ về một số ý đồ của Mỹ, mặc dù nhận thức được vai trò quan trọng của khoa học
công nghệ và thò trường Mỹ. Nhiều năm thương lượng hiệp đònh thương mại và một
năm kéo dài sau khi kết luận là một thể hiện của hai xu hướng không thống nhất này.

1

Mức thu nhập và nợ của Việt Nam đạt tiêu chuẩn để xếp vào
nhóm HIPC nếu nợ Liên Xô cũ được tính theo mệnh giá. Tuy
nhiên do khoản nợ này có thể sẽ được thương lượng lại chỉ
còn 10% hay 20% mệnh giá, và nếu giảm như vậy Việt Nam sẽ
không được xếp vào nhóm HIPC.
Fulbright Economics Teaching Program Economics Executive Education Program Choices and Opportunities
2001-2002


David Dapice

2
Một số nhận đònh là trong thương lượng Mỹ ép Việt Nam phải nhượng bộ trên lónh vực
ngân hàng và viễn thông. Có thể thấy đây không phải thái độ thù đòch, do thời hạn áp
dụng rộng rãi hơn so với hiệp đònh tương tự Trung Quốc-Mỹ. Dù vậy một số người vẫn
lo ngại là các nhượng bộ này sẽ làm yếu hệ thống hiện nay hơn là đơn giản chỉ mở cửa
thò trường.
Một hiện thực ngoại giao và kinh tế khác là về Trung Quốc. Cải thiện quan hệ
và giải quyết các vấn đề biên giới sẽ cho phép mở cửa tự do mạnh hơn rất nhiều về
thương mại, đầu tư, và du lòch với Trung Quốc. Tuy nhiên, nền kinh tế quá hùng mạnh
của Trung Quốc gây ra một vấn đề tiềm tàng, do Việt Nam có xu hướng sản xuất các
mặt hàng rất tương tự với các ngành công nghiệp cấp thấp của Trung Quốc (xe máy, xi
măng, quạt, nông cụ, xe đạp ) Trung Quốc có hơn Việt Nam đến một thập kỷ cải tổ
kinh tế, một mức cao hơn rất nhiều về FDI và chuyển giao công nghệ, đồng thời mức
tiết kiệm và đầu tư cũng cao hơn nhiều. Khó mà kiểm soát được thương mại giữa hai
nước do có nhiều đường bộ và đường biển. Liệu Việt Nam có thể công nghiệp hóa nếu
sản phẩm không cạnh tranh nổi với Trung Quốc? Cũng còn một mối lo tương tự nhưng
ở mức độ nhẹ hơn là về phía ASEAN, với khu vực tự do mậu dòch đang nổi lên.
Một vấn đề khác nổi lên là cuộc thảo luận về vai trò thích hợp của khoa học
công nghệ trong nền kinh tế, và tiềm năng đóng góp của khoa học công nghệ vào tăng
trưởng tổng thể. Vai trò của Internet cũng được bao gồm trong đề tài này. Có một ấn
tượng là các nhà khoa học Việt Nam có chất lượng cao, nhưng thiếu kết nối với các
phát triển đang được thương mại hóa của khoa học công nghệ. Các vấn đề đang tranh
luận gồm có tầm quan trọng của đào tạo nước ngoài so với đầu tư mạnh hơn cho các
học viện truyền thống, sự nguy hiểm của mở rộng Internet so với cơ hội đạt được, và
con đường tốt nhất để thu hút FDI công nghệ cao. Một số khác lo ngại là nhấn mạnh
quá đáng vào công nghệ cao sẽ làm giảm các đầu tư cần thiết vào giáo dục cấp thấp và
hạ tầng nông thôn.

Ẩn đằng sau tất cả các chủ đề trên là một vấn đề căn bản mọi người đều nhận
thấy. Việt Nam là một nước nghèo, chủ yếu là nông thôn với diện tích đất hạn chế.
Nông nghiệp về tổng thể không thể tăng trưởng hàng năm quá 3%-4% trong thập kỷ
tới. Mọi nỗ lực “đuổi kòp” sẽ đòi hỏi phải chuyển con người và nguồn lực từ nông
nghiệp sang công nghiệp và dòch vụ. Nếu phải giảm nghèo đói (và xóa hẳn theo một
số cách đònh nghóa), bằng cách nào đó các vấn đề trên phải được phối hợp và giải
quyết, cùng với nhiều yếu tố khác. Nghèo nàn dai dẳng sẽ bò coi là thất bại, đặc biệt là
càng ngày càng có nhiều người biết được mức sống của dân châu Á ở các nước láng
giềng. Điều này sẽ góp phần tạo căng thẳng và kết quả là làm yếu quốc gia.


Fulbright Economics Teaching Program Economics Executive Education Program Choices and Opportunities
2001-2002

David Dapice

3
So sánh tốc độ tăng trưởng
Các nhà kinh tế và một số nhà chính trò thường có xu hướng so sánh tốc độ tăng trưởng
GDP thực của các quốc gia. Điều này có thể hiểu được, nhưng có lẽ đó không phải là thước đo
duy nhất và thậm chí không phải là thước đo thích hợp nhất để đo lường tiến bộ. Nhiều người
xem xét tốc độ cải thiện đời sống của chính họ. Cách này đo lường thu nhập thực bình quân
đầu người, được điều chỉnh theo chỉ tiêu phân bổ thu nhập. Nếu hầu hết mức tăng tập trung
vào một phần năm dân số có thu nhập cao, 80% còn lại có thể không có ấn tượng cao với tăng
trưởng do không thỏa mãn. Hơn nữa, người ta có thể không so sánh mình với nhóm giàu có hay
với khu vực, mà so sánh với những người có cùng học vấn hay cùng ngành nghề ở các nước
láng giềng. Nếu áp dụng cách sau cùng, sẽ khó hơn để Việt Nam thỏa mãn được người dân của
mình. Hãy xét Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan, và Hàn Quốc. Nếu giả đònh hàng năm mỗi
nước đều tăng trưởng 5% thu nhập theo đầu người, hàng năm thu nhập đầu người ở Việt Nam
sẽ tăng 18 đô la; Trung Quốc khoảng 45 đô la, Thái Lan 150 đô la, trong khi Hàn Quốc sẽ tăng

thêm 500 đô la! Mức tăng thu nhập đầu người 5% ở Singapore sẽ là tăng thêm mỗi năm 1500
đô la mỗi người. Những khác biệt to lớn này nhấn mạnh nhu cầu phải có tăng trưởng nhanh
trên nền rộng. Đương nhiên, những cải thiện chung trên toàn bộ xã hội như điện, điện thoại,
giao thông vận tải, cấ p nước, y tế, hay giáo dục cũng sẽ tạo ra cảm nhận về sự tiến bộ, đồng
thời đóng góp vào triển vọng tăng trưởng tiếp theo.

Bố cục bài viết và một tự thú của tác giả
Thay vì tóm tắt hay lặp lại những tư vấn đã được đưa ra, bài viết này sẽ đề xuất
ba tương lai kinh tế khác nhau mà Việût Nam có khả năng chọn lựa. Các chính sách và
tốc độ tăng trưởng trong mỗi tình huống sẽ được thảo luận. Giả đònh đưa ra là chỉ có
lãnh đạo mới thể quyết đònh về các vấn đề cấp thiết liên quan đến các yếu tố chính trò.
Nhất thiết phải làm rõ các ảnh hưởng kinh tế của các khả năng lựa chọn, để dù cho
giải pháp nào được chọn thì cũng cần dựa theo thực tiễn. Chọn giải pháp tăng trưởng
nhanh hay tăng trưởng chậm đều có những tác động kinh tế và chính trò. Ở đây chỉ
nhấn mạnh khía cạnh kinh tế. Cả ba tình huống đều là khả thi. Tình huống tăng trưởng
chậm nhất đưa GDP bình quân đầu người từ 400 đô la hiện nay lên 540 đô la sau mười
năm; tình huống nhanh nhất đưa GDP bình quân đầu người lên 1000 đô la. Điều quan
trọng cần thấy là các quốc gia suy cho cùng đều chọn mức thu nhập của mình thông
qua các chính sách của mình. Các lựa chọn này khó khăn và phức tạp, nhưng phải chọn
và mỗi giải pháp đều có các tác động của mình.
Ngay từ đầu, tác giả muốn làm rõ sự thiên vò của mình. Tác giả tin là hiện có
một cuộc cách mạng đang diễn ra trên thế giới, dần dần sẽ có tầm quan trọng tương
đương với tiến bộ của máy in hay điện trước đây. Cuộc cách mạng được đánh dấu bởi
sự sụt giảm nhanh chóng giá thành thông tin viễn thông, sự phổ biến nhanh chóng của
các máy tính nhanh chưa từng thấy, và kết quả là sự chuyển biến của khoa học, giáo
Fulbright Economics Teaching Program Economics Executive Education Program Choices and Opportunities
2001-2002

David Dapice


4
dục, và thương mại. Cũng có sự phân cách rõ ràng giữa những quốc gia nắm bắt được
tầm quan trọng của cuộc cách mạng kỹï thuật số và những quốc gia không nắm bắt
được hay chối bỏ cơ hội
2
. Thành quả của nền kinh tế Mỹ gần đây làm ngay cả nhiều
người lạc quan phải ngạc nhiên. Trong hai năm qua, riêng phần gia tăng của tổng sản
lượng quốc gia đã là 1000 tỉ đô la (tương đương toàn bộ GDP của Trung Quốc), thất
nghiệp đạt mức thấp chưa từng có trong thời bình tính từ thập kỷ 1950, và lạm phát ổn
đònh. Các kết quả tương tự cũng được ghi nhận ở những nước như Hà Lan, Phần Lan,
Thụy Điển, và Anh. Những nước này, cùng với nhiều nước châu Á như Hàn Quốc và
Đài Loan, đã tìm được cách tách biệt quá trình ra quyết đònh chính trò vốn không tránh
khỏi chậm chạp ra khỏi tốc độ ra quyết đònh ngày càng nhanh chóng trong kinh doanh.
Thế giới ngày nay cần nhanh hơn là cần lớn, đó là tại sao vốn đầu tư cho doanh nghiệp
mới (venture capital) đang tăng lên và đang tìm cách đầu tư cho các ý tưởng mới.
3

Công nghệ mới làm cho toàn bộ các ngành công nghiệp, như các ngành độc
quyền viễn thông hay điện tử, hết sức nhanh chóng phải đối mặt với thách thức
4
. Có
thể không nhất thiết phải đáp ứng lại cuộc cách mạng này, giống như không nhất thiết
phải sử dụng điện năng. Tuy nhiên, phương thức các doanh nghiệp quan hệ với nhau
sẽ thay đổi trong vòng ba hay năm năm tới. Các mạng lưới cung ứng sẽ sử dụng
Internet như phương thức chủ yếu để thông báo và chấp nhận đấu giá, chuyển giao
chứng từ, và thông tin. Một ước tính mới đây cho thấy riêng ở châu Á, doanh số thương
mại điện tử giữa các doanh nghiệp với nhau là 50 tỉ đô la trong năm nay và sẽ là 1600
tỉ đô la trong năm 2004. Các quốc gia không gia nhập được mạng lưới này sẽ bò cắt
mất một phần khổng lồ trong thương mại toàn cầu.
Nếu Việût Nam không tìm được cách tách biệt tiến trình vốn không tránh khỏi

chậm chập của quyết đònh chính trò, quan liêu, hành chính ra khỏi tiến trình ra quyết
đònh kinh doanh, đất nước sẽ chọn con đường gia nhập các quốc gia không được hưởng
các lợi thế của nền kinh tế thế giới đang chuyển mình. Đây là một thực trạng được dẫn
dắt bởi công nghệ toàn cầu, và tất cả các công ty thành công đều đáp ứng lại những lực
đẩy này, dù là ở Trung Quốc, châu Âu, Hàn Quốc, hay Mỹ. Tất cả các nhà kinh doanh

2
Tất nhiên vai trò của khoa học công nghệ còn lớn hơn máy tính. Tuy nhiên nhiều khám phá khoa học
được tăng tốc nhờ những công nghệ chủ chốt này. Một số ví dụ như: Việc giải mã gen con người, sự phổ
biến toàn cầu các nghiên cứu trên Internet, và việc mô hình hóa mọi thứ từ thử nghiệm nguyên tử đến
khí hậu toàn cầu đến cấu trúc protein. Có thể xem công nghệ máy tính và Internet tương đương với điện
năng trong việc hỗ trợ hàng loạt các hoạt động đa dạng.
3
Vốn đầu tư doanh nghiệp mới (venture capital) tìm đến với các doanh nghiệp rất trẻ, và thường đóng
góp tư vấn cùng với vốn. Loại hình này đã hoạt động tích cực ở Mỹ trong nhiều năm, nhưng hiện đang
phát triển sang châu Âu và châu Á.
4
Sự sụp đổ của cơ cấu giá cước đường dài đã đặt sức ép lên nhiều công ty điện thoại theo kiểu cũ. Các
công ty mới dùng cáp quang có giá rất rẻ để nối cuộc thoại quốc tế với giá không đến 10 cent một phút,
hay gần như miễn phí qua Internet. Ngay cả trong điện lực, sự nổi lên của tua-bin khí cỡ nhỏ và sắp tới
bình phát điện hóa dùng khí đốt (fuel cell) có thể tạo ra một thế hệ phát điện qui mô nhỏ phi tập trung,
và có thể là rẻ nhất đối với nhiều người tiêu thụ
Fulbright Economics Teaching Program Economics Executive Education Program Choices and Opportunities
2001-2002

David Dapice

5
đều biết điều này. Ông Bùi Quang Độ ở Hiệp hội Công nghiệp Điện tử Việût Nam mới
đây phát biểu là Hiệp hội ông muốn vận động chính phủ đẩy nhanh tốc độ phê duyệt.

Ông nói, "Ví dụ như dự án sản xuất TV màu của Hanel phải mất ba năm để có được
phê chuẩn cuối cùng. Trong thế giới tốc độ cao của kinh doanh, một doanh nghiệp làm
sao hy vọng thành công được nếu tốn nhiều thời gian như vậy cho một quyết đònh?"
(Báo Việût Nam News, ngày 17/8/2000, trang 11). Trả lời cho câu hỏi này là sự sụt
giảm của FDI ký kết, từ gần 9 tỉ đô la trong năm 1996 chỉ còn có thể không đến 1 tỉ
trong năm nay.
5
Nếu không thay đổi các chính sách, các doanh nghiệp trong nước sẽ
không thể cạnh tranh có hiệu quả với các doanh nghiệp có chính phủ nhanh nhạy hơn
và đáp ứng tốt hơn.
Có thể tranh luận là hiện tượng công nghệ này chỉ đúng cho một vài nghìn lập
trình viên phần mềm hay một phần nhỏ bé của công nghiệp Việût Nam, nhưng không
thực sự áp dụng cho tuyệt đại đa số trong quốc gia. Lập luận này hoàn toàn sai. Sự
thay đổi công nghệ như vậy không thể được coi là cuộc cách mạng nếu không có ảnh
hưởng nhanh chóng và sâu rộng. Ở Campuchia, dân làng đang tiếp cận Internet để bán
hàng mỹ nghệ. Ngay cả Pakistan cũng đang đầu tư để có thể tiếp cận Internet rộng rãi.
Trung Quốc đang ủng hộ sự gia tăng nhanh chóng của Internet, số lượng người sử dụng
đã tăng nhanh từ con số khởi đầu 2 triệu trong năm 1999 lên tới 20 triệu trong năm
2000. Các công ty và khách hàng chủ chốt trong công nghiệp ô tô, máy bay, điện tử,
thép, xi măng, thực phẩm, và dệt may đang chuyển sang mua bán trên Internet. Các tổ
chức gồm chủ yếu các nước thế giới thứ ba như UNCTAD đang thúc giục các nước
thành viên tích cực hơn trong việc hiểu biết và phát huy các công nghệ mới. Theo lập
luận của họ, những công nghệ mới là cơ hội nếu biết áp dụng, và là nguy hiểm nếu bỏ
qua không áp dụng.
Điểm cuối cùng của tranh luận về ảnh hưởng của công nghệ có thể được minh
họa bằng một số giá thành và giá cước điện thoại. Hiện nay chỉ tốn 5 cent (700 đồng)
mỗi GIỜ để thuê một đường thoại trên cáp quang xuyên đại dương.
6
Giá thành thực sự
của điện thoại quốc tế chính là giá thuê trên, cộng thêm phí kết nối đòa phương (giống

như điện thoại nội hạt). Nếu đàm thoại qua Internet, giá thành gần như bằng 0. Ngay
cả giá đàm thoại qua điện thoại thông thường cũng chỉ còn rất thấp. Ở Hồng Kông, các
thẻ điện thoại có thể cung cấp dòch vụ đàm thoại quốc tế đi Mỹ chỉ với giá 5 cent một
phút. Nhiều người dự báo trong vòng vài năm nữa sẽ không còn tồn tại giá gọi điện

5
FDI ký kết năm 1996 là 8.6 tỉ đô la, hay 33% GDP, mặc dù một số ước tính điều chỉnh sau đó hạ con
số xuống 7.7 tỉ đô la (Theo IMF và Ngân hàng Nhà nước.) Trong 7 tháng đầu năm 2000, con số đăng ký
FDI là 0.48 tỉ đô la. Tính bình quân cho cả năm khoảng 0.9 tỉ đô la, tương đương 3% GDP. Dòng vốn
thực tế (phía nước ngoài thực đưa vào) là dưới một phần ba vốn đăng ký.
6
Thông tin lấy từ Telegeography 2000, một cuốn niên giám công nghiệp. Những giá này thực ra sau
mỗi 9 tháng lại giảm một nửa, do tiến bộ trong nhân sóng ánh sáng, cải thiện bộ chuyển (switch) và sợi
cáp. Một cáp quang với 432 đường truyền (strands) có thể dễ dàng tải toàn bộ các cuộc đàm thoại trên
thế giới.
Fulbright Economics Teaching Program Economics Executive Education Program Choices and Opportunities
2001-2002

David Dapice

6
thoại đường dài, đơn giản chỉ còn là một phí cố đònh hàng tháng để cho phép người
dùng gọi đi bất cứ đâu, không giới hạn thời gian gọi. Hình dung hai công ty ở châu Á,
một công ty có thể tiếp cận không giới hạn với khách hàng, công nghệ, và nhà cung
ứng - trong khi công ty kia phải trả tiền mấy đô la mỗi phút. Công ty nào sẽ thành công
hơn? Đâu là giá phải trả cho việc duy trì độc quyền và tính giá điện thoại thuộc loại
cao nhất trên thế giới?
7
Kết quả cũng tương tự như việc tính giá điện 1 đô la mỗi kWh,
trong khi giá thành chỉ là 5 cent. Sẽ rất ít người có điện, và nếu dùng cũng chỉ dùng rất

ít. Ngay cả khi có thể thực hiện điều này, liệu chính phủ có muốn nhiều người bò tối
như vậy?
Ba tình huống và sự khác biệt với nhau
Có ba tình huống được thảo luận trong bài viết. Mỗi tình huống dự kiến một tập
hợp các chính sách có thể và một tập hợp các kết quả kèm theo. Những tình huống này
khác với các mô hình chuẩn về đầu vào - đầu ra với giả đònh các hệ số là cố đònh, cũng
khác với các mô hình hàm sản xuất với giả đònh hiệu suất đầu tư giảm dần.
8
Những
tình huống này gắn với các quan điểm của thế giới, cũng như các quan điểm của các
phía trong nội bộ Việût Nam ủng hộ những chính sách khác nhau. Đương nhiên bài
phân tích này không hy vọng xem xét hết những yếu tố phức tạp. Có những vấn đề có
thể có ảnh hưởng to lớn như tăng trưởng kinh tế thế giới, giá dầu lửa, tình hình các nền
kinh tế lớn ở châu Á v.v Thay vì cố gắng xem xét các vấn đề đó, bài thảo luận sẽ tập
trung vào các chính sách của Việût Nam và ý nghóa của mỗi chính sách.
Tình huống 1: Tiếp tục như hiện tại (có phần kém đi)
Nhiều người Việt Nam tin là kết quả của thập kỷ 1990 tự thể hiện được tính hết
sức tích cực. Tăng trưởng tốc độ cao trong hầu hết các năm. Cuộc khủng hoảng châu Á
chỉ có tác động nhỏ và ngắn hạn, và dường như có triển vọng tốt để khôi phục tăng
trưởng nhanh. Tỉ lệ nghèo đói giảm nhanh chóng, nông nghiệp tăng trưởng mạnh mẽ,
xuất khẩu nhảy vọt từ 2 tỉ đô la năm 1991 lên 12 tỉ đô la năm 2000. Tốc độ cải tổ chưa
nhanh, nhưng đã tránh được các sai lầm và căng thẳng. Đang có quan điểm cho là
chính phủ nên tiếp tục nhấn mạnh vai trò chủ đạo của khu vực quốc doanh, bảo đảm
các ngân hàng quốc doanh tiếp tục thống lónh hệ thống tiền tệ và điều phối phần lớn
tín dụng vào các doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hóa nên được tiến hành, nhưng chủ

7
Trong một bảng xếp hạng toàn cầu cho 60 nước về mức độ sẵn sàng cho thương mại điện tử, Việt Nam
xếp hạng 54, đứng sau Ai cập và chỉ đứng trước Pakistan. Nghiên cứu này do tổ chức Economist
Intelligence Unit, một thành viên của tổ chức phát hành tạp chí Nhà Kinh tế (The Economist). Trung

Quốc xếp hạng 51 và Ấn độ hạng 50.
8
Trong mô hình nhập lượng - xuất lượng (Input-Output model), tăng trưởng tỉ lệ thuận với mức tăng của
nhập lượng. Trong mô hình hàm sản xuất, tỉ lệ sản lượng trên đơn vò đầu tư giảm dần mỗi khi đầu tư
tăng thêm. Các tình huống ở đây giả đònh các chính sách khác nhau tạo ra các hiệu suất khác nhau cho
cả lao động và vốn.
Fulbright Economics Teaching Program Economics Executive Education Program Choices and Opportunities
2001-2002

David Dapice

7
yếu đối với các doanh nghiệp nhà nước qui mô nhỏ. Những người chung quan điểm
này cũng có xu hướng nghi ngờ lợi ích của Internet, đồng ý với các chính sách hạn chế
chất lượng của Internet và nâng cao chi phí thực tế của việc sử dụng Internet.
9

mong muốn kéo dài vai trò độc quyền trong thông tin viễn thông, trong khi không quan
tâm về giá cước điện thoại quốc tế quá cao. Cũng có xu hướng lo lắng về rủi ro của
nền kinh tế thế giới và muốn tự chủ về nhiều mặt hàng chủ yếu. Nhóm này lập luận
mức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hiện nay là tốt đối với một nước nghèo, nên
không coi đó như vấn đề quan trọng.
Quan điểm này thỏa mãn với các chính sách hiện tại và không muốn thay đổi
nhiều. Nhưng liệu có khả năng lặp lại bước nhảy vọt về nông nghiệp kể từ đổi mới đến
nay? Hệ thống thương mại và đầu tư thế giới đang nhanh chóng chuyển sang dựa vào
thông tin, nếu đúng như vậy thì với các chính sách hiện tại Việt Nam sẽ có vò trí như
thế nào? Nhiều khoản đầu tư công cộng dường như chỉ đạt hiệu quả thấp, tiếp tục
những dạng đầu tư như vậy sẽ không tăng nhiều các cơ sở hạ tầng có ích, nhưng lại
tăng nợ nước ngoài, và có thể dần dần làm cho các nhà tài trợ không còn muốn cho vay
số lượng lớn. Nếu các doanh nghiệp nhà nước qui mô lớn vẫn tiếp tục tình trạng hiện

tại,
10
hệ thống ngân hàng có thể sẽ phải đối mặt với khủng hoảng tái diễn, và nhu cầu
chu cấp từ ngân sách sẽ làm giảm nguồn vốn cho các khu vực khác. Nếu tốc độ tăng
FDI của Việt Nam dừng ở mức dưới 1 tỉ đô la mỗi năm, trong khi Trung Quốc hiện
đang nhận 40 tỉ đô la mỗi năm và tốc độ này tiếp tục tăng lên, công nghiệp của Việt
Nam sẽ cạnh tranh được với Trung Quốc? Ngay cả hiện nay, xe máy Trung Quốc đang
bán với giá bằng một phần ba xe Honda Việt Nam và đang tăng thò phần. (Xem hộp
kèm theo). Chủ trương tự cung đang bò làm hỏng bởi nhiều nhà máy yếu kém, ví dụ
như để bán đường với giá gần ngang giá thế giới thì phải chấp nhận nhiều nhà máy
thua lỗ. Tóm lại, sự phê bình chính sách của tình huống 1 dựa trên một lập luận là
không thể lặp lại quá khứ trong thập kỷ tới bằng một tập hợp chính sách không đổi
hoặc gần như không đổi. Thế giới đã đổi thay và rất nhiều thành công dễ dàng đã
không còn nữa. Thực ra nhiều nhà quan sát nhậy bén đã lo lắng về sự tăng nhanh các
khoản nợ mà khả năng thanh toán không rõ ràng, đồng thời thâm hụt vẫn gia tăng.



9
Internet cực kỳ chậm làm tốn kém thời gian chờ đợi của người dùng cũng như tốn giá cước. Tùy thời
gian trong ngày, tốc độ truyền có thể chỉ là vài trăm bit mỗi giây! Với tốc độ này thực tế không thể sử
dụng Internet.
10
Bố trí một Hội đồng Quản trò cho doanh nghiệp nhà nước có thể không thay đổi được nhiều, nếu các
sức ép tương tự tiếp tục phối kết nhiều mục tiêu, mà tính hiệu quả chỉ là một trong các mục tiêu.
Fulbright Economics Teaching Program Economics Executive Education Program Choices and Opportunities
2001-2002

David Dapice


8
Tại sao xe máy của Việt Nam đắt như thế - Có thể rẻ hơn không?
Xe máy ở Việt Nam rất đắt. Một chuyên viên của Ban Vật giá Chính phủ vào tháng
10/1999 đã nhận xét rằng trong khi nông dân Thái Lan chỉ phải bán ba tấn lúa để mua một xe
máy Honda, một nông dân Việt Nam phải bán chín tấn. Đến tháng 8/2000, con số này đã là 20
tấn! Tại sao vẫn chính một xe Honda Dream II bán giá khoảng 1000 đô la ở Thái Lan lại có
giá 2400 đô la (gần đây giảm xuống 2200 đô la) ở Việt Nam? Và tại sao các xe máy Trung
Quốc có thể bán với giá chỉ 700 đô la, mặc dù chất lượng có phần kém hơn? Câu trả lời là các
nhà sản xuất đòa phương được bảo hộ bằng hàng rào thương mại. Các nhà sản xuất xe máy
biện luận là cần phải có các hàng rào thương mại này để vượt qua các chi phí ban đầu. Nhưng
một mức giá cao hơn 100% so với giá của nước láng giềng có phải là hợp lý cho chi phí ban
đầu? Quan trọng hơn, liệu các nhà sản xuất có thể điều chỉnh đủ nhanh để cạnh tranh? Mặc dù
sản lượng xe máy tăng từ 62,000 năm 1995 lên 365,000 năm 1999, sự xâm nhập của xe máy
Trung Quốc đang đe dọa thống lónh thò trường. Số xe này được báo cáo chiếm ba phần tư trong
số 575,000 bộ linh kiện nhập trong tám tháng đầu năm 2000. Trong năm 1999, chỉ riêng phần
chênh lệch của giá xe máy trong nước đã làm người tiêu dùng phải chòu thêm 500 triệu đô la,
lấy giả đònh Honda là sản phẩm tiêu biểu. Không đáng ngạc nhiên khi thấy người tiêu dùng
nhanh chóng chuyển sang loại xe có giá hợp lý hơn. Nhưng tương lai sẽ ra sao? Nếu Honda và
các công ty khác không thể cắt giảm giá thành xuống mức giá cạnh tranh, sự bùng nổ của lắp
ráp xe máy sẽ chứng tỏ chỉ là một bong bóng không bền vững. Nếu họ có thể hạ giá thành trên
cơ sở giảm giá đầu vào (dù là cấu kiện nội đòa hay nhập khẩu) và không phải trả thuế quá cao,
họ sẽ có thể thực sự bám trụ và trở thành một ngành công nghiệp khả thi. Họ nói là sẽ tăng tỉ
lệ cấu kiện nội đòa. Bao nhiêu ngành công nghiệp tăng trưởng nhanh có tình thế như ngành xe
máy? Bao nhiêu sẽ điều chỉnh được và bao nhiêu sẽ thất bại? Và có cần thiết phải để người
tiêu dùng trả giá cao như vậy cho những nhà sản xuất như vậy?

Với những tình thế bấp bênh như trong ví dụ về xe máy, nên dự kiến tốc độ
tăng trưởng trong tình huống 1 như thế nào? Đầu tư có xu hướng đạt 25%-30% GDP,
nhưng là đầu tư không có hiệu quả. Nghóa là cần đầu tư 6 đô la để có được 1 đô la tăng
trưởng, và tốc độ tăng trưởng trung bình sẽ chỉ là 4%-5% mỗi năm. Tăng trưởng GDP

bình quân đầu người có lẽ chỉ đạt 3% mỗi năm. Như vậy Việût Nam sẽ có GDP bình
quân đầu người tăng từ gần 400 đô la hiện nay lên khoảng 540 đô la trong thập kỷ tới,
bình quân mỗi năm chỉ tăng được 14 đô la.
Thuế thu nhập cá nhân là quá cao (lên tới 75% đối với phần thu nhập vượt quá
800 đô la mỗi tháng). Mức thuế này làm cho những người có khả năng thu nhập cao sẽ
khá giả hơn rất nhiều nếu ra làm việc ở nước ngoài. Mặt khác các công ty tư nhân ở
Việt Nam cũng sẽ thấy đối với các công việc phải trả lương cao thì thuê người nước
ngoài rẻ hơn. Quá tốn kém để thu hút tay nghề của doanh nghiệp nhà nước hay bất cứ
một công nhân có tay nghề nào của Việt Nam. Trong khi đó do doanh nghiệp nhà nước
trả lương thấp nên việc mất tay nghề giỏi là một mối đe doạ thường trực. Để bù lại
Fulbright Economics Teaching Program Economics Executive Education Program Choices and Opportunities
2001-2002

David Dapice

9
lương thấp, doanh nghiệp nhà nước chỉ có lợi thế là việc làm được bảo đảm cao hơn,
hoặc thậm chí nhiều khoản thu nhập khác. Tuy nhiên, với thuế thu nhập thuộc hàng
cao nhất trên thế giới, Việt Nam đang đánh thuế mạnh vào khả năng chuyển dòch linh
động của lao động trong nước, và do vậy ngăn chặn sự nổi lên của một thò trường lao
động thực sự. Tất nhiên ảnh hưởng của hiện tượng này là năng suất lao động không
tăng lên được. Một thuế suất cao như vậy làm cho thu nhập thuế thấp đi so với khi có
thuế suất hợp lý hơn, một thuế suất không thúc đẩy mọi người hoặc trốn thuế hoặc xuất
ngoại.
Kết quả tăng trưởng này là đáng thất vọng đối với nhiều người hiểu được tiềm
năng của Việût Nam, và cũng quá thấp so với chỉ tiêu của chính phủ dự kiến đến 2010
tăng gấp đôi GDP thực. Nhưng một số người Việt Nam cho là tốc độ tăng trưởng GDP
đầu người 3% là một kết quả tốt hơn hầu hết các nước khác, và có thể chấp nhận được
nếu giữ được quốc gia an ninh và ổn đònh. Liệu điều đó có đúng không? Nông nghiệp
khó có thể tăng hơn nữa, và trình độ giáo dục cao hơn đòi hỏi phải có công việc phi

nông nghiệp cả ở nông thôn và thành thò để có thể tiếp nhận con số 1.4 triệu lao động
tăng lên mỗi năm. Các doanh nghiệp nhà nước không tăng thêm được việc làm mà chỉ
có thể giảm bớt. Nếu doanh nghiệp nhà nước và các đầu tư công cộng hiệu quả thấp
tiêu thụ mất hầu hết lượng tiết kiệm, sẽ chẳng còn lại nhiều cho khối phi quốc doanh
trong nước. FDI cũng sẽ không nâng đỡ được nhiều, mặc dù các cơ hội đã mở ra bởi
hiệp đònh thương mại với Mỹ và sự gia nhập WTO/AFTA. Trong vài năm qua, công
nghiệp quốc doanh chỉ tăng trưởng 10% mỗi năm với số việc làm thay đổi rất ít, trong
khi khối tư nhân phải chòu sức ép cạnh tranh rất mạnh của Trung Quốc. Theo giáo sư
Dwight Perkin, nếu không có tăng trưởng công nghiệp ở đô thò thì dường như khó có
tăng trưởng công nghiệp "nông thôn". Trong trường hợp của Trung Quốc, các công ty
hương trấn phát lên nhờ có đơn đặt hàng từ các nhà máy ở những đô thò lân cận, những
công ty thành công nhất là nhờ vào các đô thò ven biển phát triển nhanh chóng. Sự mở
rộng như vậy sẽ không thực hiện được ở tình huống này.
Như vậy thì các lao động trẻ sẽ đi đâu? Các hộ nông dân vốn đã có qui mô nhỏ
bé và diện tích đất canh tác chỉ thay đổi được rất ít. Các lao động trẻ sẽ khó mà đến
với các hộ nông nghiệp càng ngày càng nhỏ hẹp, đặc biệt là khi họ đã có trình độ giáo
dục. Khả năng cao nhất là họ sẽ tập trung vào các đô thò, tìm kiếm việc làm ở khu vực
tư nhân không chính thức, chủ yếu là dòch vụ. Loại công việc như vậy thường có thu
nhập thấp và không bảo đảm. Do tiếp tục cách đònh giá độc quyền của tiện ích công
cộng, và do mức FDI thấp, ngay cả nhiều ngành dòch vụ cũng khó tăng năng suất và
tăng thu nhập công nhân. Lý do là sẽ ít có đào tạo (kể cả đào tạo trên Internet) và
cũng ít đầu tư trên những lónh vực này. Với triển vọng mờ nhạt và kỳ vọng giảm thấp,
những công nhân trẻ sẽ không phải là một nguồn cho sự ổn đònh. Nhiều người với tay
nghề dễ kiếm việc có lẽ sẽ tìm cách đi khỏi Việt Nam. Trong khi họ có thể gửi tiền về
và đồng thời thu được các kỹ năng có giá trò cho bản thân, họ không thể giúp những
Fulbright Economics Teaching Program Economics Executive Education Program Choices and Opportunities
2001-2002

David Dapice


10
người khác trong nước học tập để xây dựng một lực lượng quan trọng các lao động có
tay nghề. Nhóm những người giỏi ở lại có thể làm việc trong các cơ sở khoa học truyền
thống, nhưng các cơ sở này có liên kết yếu kém với các cơ hội thò trường và có xu
hướng thiếu vốn do phải cạnh tranh vào một nguồn ngân sách chính phủ thường xuyên
bò thiếu thốn.
Đònh nghóa vai trò chủ đạo như thế nào?
Nhiều lãnh đạo Việt Nam tranh luận mạnh mẽ cho vai trò chủ đạo của khu vực nhà
nước. Nhưng hiện nay vai trò này như thế nào? Mọi người đều biết hiện nay số lao động trong
các doanh nghiệp nhà nước chỉ là không đến 2 triệu trong số 40 triệu lực lượng lao động cả
nước. Lao động trong doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm đi do cổ phần hóa tiếp tục và
các doanh nghiệp lớn hoàn thành việc cắt giảm biên chế. Như vậy là khu vực nhà nước không
thể có vai trò chủ đạo trực tiếp trong việc giải quyết vấn đề thất nghiệp, một trong những vấn
đề khẩn thiết nhất và quan trọng nhất.
Khu vực nhà nước có vai trò nhỏ bé trong số lao động nông nghiệp (không đầy 5% sản
lượng). Các nông trường quốc doanh có thể hỗ trợ khuyến nông hay chế biến nông sản cho
nông nghiệp tư nhân ở lân cận. Nhưng xét về sản lượng và việc làm, vai trò của doanh nghiệp
nhà nước trong nông nghiệp cả hiện nay và sau này sẽ rất nhỏ. Hầu hết mọi người cho là khu
vực nhà nước có vai trò quan trọng trong công nghiệp. Nhưng qua nhiều năm khu vực tăng
trưởng nhanh nhất là khu vực có vốn FDI. Ngay cả trong liên doanh với nước ngoài, đối tác
trong nước là doanh nghiệp nhà nước hiếm khi thực sự kiểm soát được công ty liên doanh.
Phần nhiều các doanh nghiệp FDI mới đây là 100% vốn nước ngoài. Với tốc độ tăng trưởng
hiện nay, trong vòng một hai năm tới khu vực FDI sẽ có sản lượng cao hơn khu vực doanh
nghiệp nhà nước. Tỉ trọng của doanh nghiệp nhà nước trong sản lượng công nghiệp đã giảm
trong suốt thập kỷ 1990, từ hai phần ba còn hai phần năm.
Dòch vụ là khu vực còn lại mà khu vực nhà nước có thể giữ vai trò chủ đạo. Đương
nhiên hệ thống quản lý nhà nước (quản lý hành chính, quốc phòng ) là các hoạt động của nhà
nước. Về các dòch vụ khác, nhà nước góp một nửa sản lượng với phần lớn ngoại thương, tài
chính, một số khách sạn và xây dựng. Vai trò của nhà nước trong khoa học và công nghệ là rất
quan trọng, nhưng thường được xếp vào quản lý hành chính. Xét về lao động, trong năm 1996

khối tư nhân chiếm 2/3 trong xây dựng, 88% thương mại và giao thông vận tải, và ba phần tư
trong các dòch vụ khác nếu không kể giáo dục. Những tỉ lệ này hiện nay chắc chắn đã cao hơn
và có thể tiếp tục tăng do cổ phần hóa, cắt giảm qui mô doanh nghiệp nhà nước, và cởi mở qui
chế kinh doanh. Ở đây cũng vậy, khu vực nhà nước thường không được coi là có vai trò chủ
đạo.
Nếu vai trò của doanh nghiệp nhà nước là nhỏ bé và đang giảm, vai trò chủ đạo sẽ như
thế nào? Đó có thể là nhà nước nắm giữ một số ngành công nghiệp, chủ yếu là “nặng”, như
đường, xi măng, thép. Đó có thể là sự hiện diện của nhà nước trong lónh vực ngân hàng, xây
dựng, hàng không, đường sắt. Đó có thể là nhà nước nắm giữ các tiện ích như điện và điện
thoại. Riêng trong lónh vực ngân hàng và viễn thông, nếu thực hiện cạnh tranh theo như thỏa
thuận trong các hiệp đònh thương mại, doanh nghiệp nhà nước khó mà giữ được thò phần nếu
Fulbright Economics Teaching Program Economics Executive Education Program Choices and Opportunities
2001-2002

David Dapice

11
không nhờ vào các qui chế phức tạp và dễ bò đặt vấn đề. Những qui chế đó có thể gây ra bất
đồng thương mại.
Một cách hiểu khác là khu vực nhà nước sẽ thực hiện các lónh vực mang tính đột phá.
Nhưng trong số 25 công ty phần mềm hiện nay ở trung tâm công nghệ phần mềm thành phố
Hồ Chí Minh, 4 công ty là đầu tư nước ngoài, 21 công ty là tư nhân, và không có doanh nghiệp
nhà nước nào. (Ấn độ đứng đầu thế giới về phần mềm với doanh số xuất khẩu 35 tỉ đô la phần
mềm hàng năm, nhưng không có công ty phần mềm nào là doanh nghiệp nhà nước. Xuất khẩu
hàng điện tử đang tăng nhanh chóng ở Philippines và Malaysia cũng chính do các doanh
nghiệp tư nhân hoặc đầu tư nước ngoài.) Nếu so với các công ty nước ngoài như Intel hay các
công ty mới mở có các nhà khoa học Việt Nam trẻ và tài năng, thật khó hình dung các doanh
nghiệp nhà nước có thể được trang bò để đáp ứng cơ hội thò trường tốt hơn. Hầu hết các doanh
nghiệp nhà nước khó theo kòp tốc độ nhanh của kinh doanh do họ phải tiến một cách thận
trọng và phải xin phép. Lương thấp cũng làm giảm tính hấp dẫn của doanh nghiệp nhà nước

đối với những người trình độ cao và có thể tìm được việc làm ở các nước khác.
Như vậy vai trò chủ đạo trong thời kỳ quá độ thực sự là gì? Đây là một khái niệm quan
trọng và có giá trò nếu nói đến một khu vực doanh nghiệp nhà nước có hiệu quả, hoạt động
trên lónh vực tiện ích công cộng và dòch vụ, thực hiện các dòch vụ có chất lượng được tính giá
trên cơ sở cạnh tranh. Chính phủ cần tạo được môi trường trong đó các công ty có khả năng trụ
vững sẽ được học tập, sẽ nhận được đầu tư, và trở nên giàu mạnh. Trong việc thúc đẩy tăng
trưởng, rất có thể vai trò gián tiếp của nhà nước sẽ là quan trọng nhất, nhưng không loại trừ
một vài vai trò trực tiếp. Điều kiện ở đây là phải tạo được sức ép cạnh tranh để doanh nghiệp
nhà nước bò buộc phải trở nên hiệu quả như các doanh nghiệp khác cùng ngành. Có thể tạo
được các doanh nghiệp nhà nước hiệu quả, nhưng hiếm và đòi hỏi bàn tay vững vàng và có
đònh hướng của chính phủ. Thường xuyên hơn, các doanh nghiệp nhà nước trở thành một nhóm
vận động có hiệu quả để ngăn chặn việc cho phép cạnh tranh, luôn vận động được có thêm
thời gian để xây dựng khả năng cạnh tranh, và đòi hỏi trợ giá hay giá độc quyền cao. (Điều
này cũng đúng đối với các doanh nghiệp FDI được bảo hộ.) Trong trường hợp đó, thâm hụt của
doanh nghiệp nhà nước và giá độc quyền cao làm cho dân tộc nghèo đi. Xét về rất lâu dài, có
thể duy trì mục đích sử dụng khu vực nhà nước để điều hành nền kinh tế, nhưng trong một hay
hai thập kỷ tới cách điều hành gián tiếp dường như sẽ có hiệu quả hơn.

Tóm lại, các chính sách trong tình huống 1 là:
1. Tiến hành chậm các công việc như: cởi mở qui chế, tự do thương mại hơn, và cải
cách doanh nghiệp nhà nước.
2. Tiếp tục độc quyền và kiểm soát nhà nước về ngân hàng và tiện ích công.
3. Ngần ngại không cho phép tăng mức sử dụng Internet lên ngang với khu vực.
4. Cản trở khu vực tư nhân năng động, đặc biệt khi khu vực này có ảnh hưởng không
tốt đến các doanh nghiệp nhà nước.
5. Hiệu quả kinh tế của nhiều đầu tư công cộng tiếp tục yếu kém.
Fulbright Economics Teaching Program Economics Executive Education Program Choices and Opportunities
2001-2002

David Dapice


12
6. Tiếp tục không thu hút được FDI với số lượng và chất lượng cao, do kết hợp của sự
không minh bạch, các chính sách không ổn đònh, và tham nhũng.
Kết quả của tổ hợp chính sách này dường như sẽ là:
1. Tốc độ tăng trưởng rất chậm cả về sản lượng và việc làm, cả ở nông thôn và thành
thò.
2. Tụt hậu ngày càng xa so với các quốc gia khác, cả về mức thu nhập cũng như về
năng lực kỹ thuật.
3. Thu nhập tăng chậm, tương tự như Ấn độ trước khi cải tổ.
4. FDI thấp cả về số lượng và chất lượng.
5. Nợ nước ngoài tăng và mất dần các nhà tài trợ.
6. Di dân vào đô thò nhưng không có việc làm nên gây ra tệ nạn xã hội.

Cũng nên nhắc lại là nếu doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được vay mà không
có cải tổ căn bản về cơ cấu khuyến khích trong doanh nghiệp, có thể ngay cả hệ thống
ngân hàng được cấp thêm vốn cũng lại cần phải được bảo trợ nặng nề bằng ngân sách.
Điều này có thể tạo ra những sức ép tiền tệ và ngân sách khổng lồ, có thể dẫn đến
hoặc lạm phát trở lại, hoặc phải thắt chặt ngân sách, ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh
tế và các dòch vụ của chính phủ. Trong tình huống này, công cuộc giảm nghèo đói sẽ
không có nhiều tiến bộ.
Tình huống 2: Tiếp tục như hiện tại (có phần khá hơn)
Trong tình huống 2, vẫn còn đó nhiều sức ép chỉ đạo tình huống 1, nhưng sẽ có
sự cân bằng hơn đối với các nhóm thực tế và kỹ trò. Kết quả sẽ là một tổ hợp chính
sách được thỏa thuận trong đó không bên nào thắng thế hẳn. Trong tình huống này sẽ
có sự nhận thức cao hơn về sự đổi thay nhanh chóng của thế giới, nhận thức cao hơn về
giá phải trả cho sự tụt hậu quá xa so với các nước ASEAN láng giềng. Các cơ hội mở
ra do AFTA, hiệp đònh thương mại Việt - Mỹ, tổ chức thương mại thế giới WTO, sẽ trở
nên tốt hơn mặc dù vẫn chưa được nắm bắt đầy đủ. Sẽ có mong muốn cao hơn để
chuyên môn hóa Việt Nam vào những ngành có hiệu quả, thay vì cố gắng sản xuất dàn

trải nhiều mặt hàng giá thành cao để theo đuổi tự cung tụ chủ. Quan điểm đối với
Internet sẽ là bớt hạn chế, nếu chưa phải là hoàn toàn ủng hộ. Cước điện thoại sẽ
giảm xuống ngang với mức cao của các nước khác trong ASEAN, giá cước gọi quốc tế
ở các nước này hiện nay khoảng 50 cent một phút và còn đang giảm. Nhiều dự án đầu
tư công tuy hấp dẫn về chính trò nhưng yếu kém về hiệu quả kinh tế sẽ được hoãn lại
hay cắt giảm qui mô, do vậy giảm đầu tư công nhưng thực tế mang lại tác động cao
hơn. Sẽ có chuyển biến dần nhưng quan trọng về cạnh tranh trong ngân hàng, về mức
tựû do cần có trong thò trường vốn, để các doanh nghiệp mới dù không có các mối quen
biết vẫn có thể vay vốn hay phát hành cổ phiếu. Nói cách khác, tình huống này giả
đònh là hiểm họa tụt hậu làm cho lãnh đạo cân bằng được các luận điểm giữa nhữỵng
Fulbright Economics Teaching Program Economics Executive Education Program Choices and Opportunities
2001-2002

David Dapice

13
người muốn đẩy nhanh tiến độ và những người muốn đi từ từ. Đây là một tình huống
trong đó các mục tiêu tăng trưởng và giảm nghèo được đặc biệt coi trọng.
Trong tình huống này, tỉ lệ đầu tư không tăng lên rất nhiều. Có thể đầu tư vẫn ở
mức 25%-30% GDP, mặc dù có thể cao hơn nếu thành công trong việc thu hút FDI.
Tuy nhiên hiệu quả của đầu tư sẽ dược cải thiện. Để đạt thêm 1 đô la tăng trưởng bền
vững có thể chỉ cần 4 đô la đầu tư thay vì 5 hay 6 đô la. Tốc độ tăng trưởng sẽ đạt gần
7% mỗi năm và đạt được mục tiêu tăng gấp đôi GDP thực trong 10 năm. Trong thời kỳ
đó, thu nhập bình quân đầu người sẽ tăng từ khoảng 400 đô la hiện nay lên gần 700 đô
la, với mức tăng 25-30 đô la mỗi năm. Như vậy lượng tăng thêm của GDP bình quân
đầìu người sẽ cao gấp đôi so với tình huống 1.
Tăng trưởng việc làm ở tình huống 2: Nhu cầu phải có khu vực tư nhân
Hiệu quả giải quyết việc làm trong tình huống này như thế nào? Rất có thể FDI
sẽ đạt mức cao hơn và khu vực tư nhân phát triển nhanh hơn. Nhưng sẽ tạo được bao
nhiêu việc làm? Căn cứ theo báo cáo Khảo sát Mức sống từ năm 1992/1993 đến năm

1997/1998, việc làm trong khu vực FDI tăng từ 20,000 lên 335,000 ở những năm đầu
tư nước ngoài đạt mức cao. (Trong đó gồm cả liên doanh và công ty 100% vốn nước
ngoài.) Tính ra là 63 nghìn mỗi năm, chỉ tương đương 5% phần tăng thêm hàng năm
của lực lượng lao động. Vốn chảy vào trong giai đoạn 1994 - 1997 bình quân 2 tỉ đô la
mỗi năm, trong khi mức hiện tại có lẽ chỉ bằng một nửa.
11
Ngay cả nếu FDI thiên về
các dự án hướng xuất khẩu và thâm dụng lao động, ngay cả nếu FDI lấy lại mức tăng
trưởng 2 tỉ đô la trong giai đoạn đỉnh cao của thập kỷ 1990,
12
tăng trưởng việc làm trực
tiếp của khu vực này cũng khó có thể vượt quá 100 nghìn mỗi năm. Thực ra con số này
đã thể hiện một sự nhảy vọt rất mạnh từ mức hiện nay, do phần phân tích về hiệp đònh
thương mại Việt - Mỹ đưa ra một số lý do để lạc quan. Cũng đúng là một việc làm
trong khu vực xuất khẩu thường tạo thêm hai đến ba việc làm khác trong giao thông
vận tải, dòch vụ, nhà ở v.v (mô hình này ở các nước ASEAN có thể cũng đúng ở Việt
Nam.) Như vậy khu vực FDI có thể được cải thiện rất nhiều từ tình hình hiện tại, nhưng
vẫn chỉ có vai trò tương đối nhỏ trong tạo việc làm, ít nhất là xét về trực tiếp tạo việc
làm.
Khu vực tư nhân chính thức cũng sẽ tăng trưởng, bao gồm cả hợp tác xã, công
ty tư nhân có đăng ký, và khối “hỗn hợp”. Theo hai bản kết quả Khảo sát Mức sống
nói trên, khu vực này chỉ tạo thêm 50,000 việc làm mỗi năm. Luật Doanh nghiệp gần
đây có thể tạo môi trường thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp này phát triển, mặc dù

11
IMF ước tính dòng FDI trong năm 1998 là 800 triệu đô la, trong khi con số chính thức là 1.84 tỉ đô la.
12
Dòng vốn FDI 2 tỉ đô la mỗi năm trong giai đoạn 2001-2005 được giả đònh theo một số dự báo của
Việt Nam. Giả đònh đây chỉ là con số tăng gộp (gross), mặc dù nhiều dự án FDI đang phải thanh toán nợ
và cổ tức trong số 10-15 tỉ đô la đầu tư trước đây. Như vậy dòng vốn tònh sẽ thấp hơn nhiều so với dòng

vốn gộp. Ước tính gần đây của IMF cho là dòng FDI tònh chỉ bằng khoảng một nửa dòng vốn gộp.
Fulbright Economics Teaching Program Economics Executive Education Program Choices and Opportunities
2001-2002

David Dapice

14
họ vẫn còn phải đối mặt nhiều trở ngại. Sự nhảy vọt về số công ty tư nhân đăng ký mới
từ tháng Giêng năm 2000 đến nay có thể không phải hoàn toàn là phản ánh các hoạt
động mới. Có thể nhiều cơ sở đã tồn tại trước đây và nay mới đăng ký thành lập theo
luật mới. Cần có những khảo sát để xác đònh mức độ tăng trưởng thực sự của khu vực
này. Ở đây có thể nêu ra một số trở ngại cho khu vực tư nhân, mặc dù bài viết này
không tìm hiểu cặn kẽ vấn đề này. Một vấn đề đương nhiên là sự ngần ngại của các
ngân hàng thương mại nhà nước cho doanh nghiệp tư nhân vay mỗi khi có rủi ro bò tổn
thất (mặc dù các qui chế mới của Ngân hàng Nhà nước đã cho phép.) Vẫn còn mối lo
bò chuyển sang tộüi hình sự, và các vụ bê bối gần đây làm cho cán bộ ngân hàng trở nên
càng sợ rủi ro. Như vậy có ít nhất một phần tiền gửi bằng đô la đã tìm đường ra ngân
hàng nước ngoài để thu lãi, trong khi doanh nghiệp trong nước không vay được. Ngân
hàng nhà nước sẽ khó khăn trong việc cân bằng hai nhu cầu: một là quán triệt quan
điểm chấp nhận các rủi ro được tính toán kỹ lưỡng, hai là ngăn chặn các hành vi lừa
đảo. Nếu đẩy nhanh tiến trình nới lỏng kiểm soát ngân hàng, những ngân hàng có năng
lực ra quyết đònh như vậy sẽ phát triển được.
Vấn đề thứ hai, dễ khắc phục hơn, đó là đất đai. Đặc biệt chính quyền đòa
phương không được quyền duyệt một dự án trong đó chuyển hơn một hecta đất từ mục
đích nông nghiệp sang công nghiệp hay dòch vụ, nếu không có phê chuẩn của Thủ
tướng! Như vậy các thành phố phát triển thành công sẽ bò chật chội và ô nhiễm, mặc
dù thành phố có thể mở rộng thêm nếu có những quy chế linh hoạt hơn. Điều lý tưởng
nhất là tất cả các thành phố cần có quy hoạch sử dụng đất. Tuy nhiên vận dụng việc
này phải cần nhiều năm. Một trong những thay đổi ngắn hạn có thể là cho chính quyền
cấp tỉnh được phép chuyển mục đích sử dụng đất khoảng 5 hecta mỗi dự án, hoặc cho

phép đòa phương được xét chuyển mục đích sử dụng trong phạm vi bán kính 1-2 km từ
trung tâm thò xã. Rủi ro ở đây là đất nông nghiệp có thể bò mất đi một cách không khôn
ngoan. Nhưng chừng nào người chủ thuận bán, doanh nghiệp tư nhân thuận mua trên
cơ sở giá thò trường và tạo công ăn việc làm, việc nới lỏng quy chế sẽ có lợi nhiều hơn
là hại.
Vấn đề thứ ba cản trở sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân là thò trường và
cơ cấu giá. Nhiều trường hợp các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của nhà nước không
trả giá căn cứ theo chất lượng, ví dụ thu mua gạo và cà phê. Nếu các doanh nghiệp tư
nhân không được phép xuất khẩu, họ sẽ không đầu tư vào chế biến hay các hình thức
khác để tăng chất lượng. Ngay cả nông dân cũng không làm điều này, vì công ty thu
mua luôn trả giá đồng loạt theo mức thấp nhất. Nếu xuất khẩu được tiến hành khéo léo
hơn, giá cả sẽ thể hiện sự khác nhau về chất lượng, và cả người trồng lẫn người chế
biến sẽ nỗ lực đầu tư hơn. Một ví dụ là tự do hóa xuất khẩu gạo gần đây đã kéo theo sự
phát triển của các máy sấy gạo ở tỉnh Sóc Trăng. Sẽ rất khó tăng nhanh sản lượng
nông nghiệp một cách có lãi nếu không học thuộc lòng bài học này. Một ví dụ khác,
cắt giảm cước phí điện thoại xuống bằng mức khu vực sẽ có tác dụng kích thích tăng
Fulbright Economics Teaching Program Economics Executive Education Program Choices and Opportunities
2001-2002

David Dapice

15
trưởng việc làm trong khối tư nhân. Điện thoại quốc tế nên được nhìn nhận đúng đắn là
một công cụ sản xuất thiết yếu, thay vì xem như một loại hàng xa xỉ để có thể nâng giá
độc quyền lên 1,000%. Điều này sẽ khích lệ thò trường các hàng hóa có giá trò gia tăng
cao như trái cây, hoa, rau v.v để thay thế cho lúa có lợi nhuận thấp. Ba trở ngại nêu
trên không phải là ba trở ngại duy nhất, nhưng thuộc loại quan trọng nhất. Một khi tín
dụng và đất đai trở nên dễ dàng, các quy chế thương mại bớt ngặt nghèo, và chi phí
thông tin liên lạc giảm thấp, khu vực tư nhân có thể tự tìm hiểu về thò trường nước
ngoài, công nghệ xử lý, và khắc phục được các hạn chế khác.

13

Khó có thể biết sẽ làm được gì với những hạn chế trên. Có lẽ việc làm trong
khu vực tư nhân chính thức sẽ tăng gấp đôi trong vòng 5 năm tới, nghóa là mức tăng
100,000 việc làm mới mỗi năm. Tổng lao động của khối này sẽ tăng từ nửa triệu lên
một triệu. Tuy nhiên đây mới là xét một phía. Tăng trưởng năng suất có thể khá cao và
mức tăng việc làm 15% mỗi năm nghóa là tăng sản lượng 20% - 30% mỗi năm. Đây là
điều có thể, nhưng dường như sẽ không xảy ra. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải tăng
trưởng nhanh tương đương với vùng duyên hải Trung Quốc. Một số tỉnh của Việt Nam
có thể thực hiện được, nhưng hầu hết sẽ tiến chậm hơn, đặc biệt khi tăng trưởng toàn
bộ là 7% chứ không phải 10% như Trung Quốc.
Nếu phân tích này là đúng, và nếu doanh nghiệp nhà nước không tăng thêm
được việc làm, thì khu vực FDI và tư nhân chính thức mới giải quyết được 15% trong
số 1.4 triệu việc làm cần phải tăng thêm mỗi năm để có thể tiếp nhận những lao động
mới. Nếu sản lượng nông nghiệp tăng trưởng 3% mỗi năm (về giá trò có thể hơn), thì
còn lại nông thôn và các hoạt động phi nông nghiệp không chính thức phải đảm nhận
phần chủ yếu trong tạo công ăn việc làm.
14
Trong khi có một số dự báo là lao động
thuần nông sẽ tăng thêm 750,000 mỗi năm, thực tế là trong giai đoạn 1993-1998 chỉ
tăng thêm được 400,000 mỗi năm, mặc dù trong giai đoạn này nông nghiệp tăng
trưởng đặc biệt mạnh mẽ. Thực ra đã có những dấu hiệu tăng chậm lại trong lao động
nông nghiệp. Nếu tăng trưởng việc làm trong nông nghiệp chỉ còn 200,000 mỗi năm,
khu vực phi nông nghiệp không chính thức cần tạo thêm gần 1 triệu việc làm mỗi năm
chỉ để tiếp nhận phần tăng thêm của lực lượng lao động!

13
Ở đây không hàm ý việc bỏ phí các nỗ lực, ví dụ như nỗ lực cải thiện tri thức kỹ thuật. Các nỗ lực hay
dự án như vậy có thể không có hiệu quả nhiều nếu các rào cản khác không được hạ thấp. Tuy nhiên,
một khảo sát các doanh nghiệp nhỏ năm 1997 ở Việt Nam không thấy bí quyết kỹ thuật là một vấn đề

lớn.
14
Hai cuộc Khảo sát Mức sống phát hiện tỉ lệ người dựa chủ yếu nông nghiệp (theo tự khai) giảm từ
71.7% xuống 69% trong vòng 5 năm, hàm ý mức tăng hàng năm 400 nghìn việc làm trong nông nghiệp
trong thời kỳ nông nghiệp tăng trưởng nhanh. Một nghiên cứu của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
dự kiến đến năm 2010 tỉ lệ nông dân còn 50%, một con số phù hợp với tăng trưởng hàng năm 200 nghìn
lao động nông nghiệp trong giai đoạn 2001-2005.
Fulbright Economics Teaching Program Economics Executive Education Program Choices and Opportunities
2001-2002

David Dapice

16
Có hợp lý khi kỳ vọng 1 triệu việc làm mới mỗi năm từ khu vực tư nhân không
chính thức hoạt động trong các ngành phi nông nghiệp? Ở một mức độ, câu trả lời là có
thể, do người nghèo sẽ tìm cách nào đó để sống, dù là nghèo. Ở mức độ khác, câu trả
lời có thể là tiêu cực nếu coi tạo việc làm có kết quả phải là tận dụng được trình độ tay
nghề hiện tại và phát triển thêm nữa. Năm 1998, khoảng 30% tổng số lao động nông
thôn và thành thò là hoặc phi nông nghiệp hoặc không chuyên nghiệp. Trong số 12
triệu này, chỉ có một phần nhỏ (khoảng 2 triệu) làm việc cho khu vực chính thức.
Tăng thêm 5 triệu việc làm trong 5 năm sẽ tạo nên tăng trưởng 50% cho cả giai đoạn
hay 8.4% hàng năm về việc làm trong khu vực sản xuất và dòch vụ không chính thức.
Nếu tăng trưởng sản lượng trong các khu vực này có cùng tốc độ như vậy, nghóa là sẽ
không có tăng về năng suất, do lao động đổ dồn vào khu vực này quá nhanh. Điều này
cũng chấp nhận được, vì giá trò sản lượng của một lao động trong nông nghiệp chỉ bằng
hoặc không đến một phần năm so với bình quân trong công nghiệp, thương mại, hay
giao thông vận tải. Ngay cả trong các doanh nghiệp nhà nước, công nhân nông trường
có thu nhập chỉ bằng một nửa công nhân trong công nghiệp hay giao thông, hay bằng
một phần ba của lao động trong thương mại. Nếu lao động chuyển từ khu vực năng
suất thấp sang khu vực năng suất cao hơn, thu nhập bình quân tăng lên. Bước chuyển

như vậy làm tăng thu nhập bình quân lao động nông nghiệp, giữ chậm lại sự tăng
trưởng thu nhập trong các khu vực phi nông nghiệp, và làm cho cân bằng tốt hơn. Một
nền kinh tế hiệu quả không có sự khác biệt quá lớn về năng suất giữa các khu vực.
Phần phân tích dài như trên đi đến kết luận là tăng trưởng 7% một năm chỉ đủ
để tình trạng việc làm không trở nên xấu đi, nhưng không đủ để làm giảm tình trạng
thất nghiệp ở thành thò và thiếu việc làm ở nông thôn. Kết luận tích cực này dựa vào
các giả đònh như thực hiện được các cải tổ khó khăn về ngân hàng, thương mại, sử dụng
đất, tiếp thò, và độc quyền; đầu tư công sẽ được cân nhắc cẩn thận; và chính sách viễn
thông và Internet sẽ trở nên gần giống các nước ASEAN. Tình hình này cũng cho
phép tốc độ tăng trưởng FDI ký kết đạt gấp đôi mức hiện nay, và một thúc đẩy mạnh
cho khu vực tư nhân phát triển. Tất cả là trong tầm tay, nhưng đòi hỏi chính phủ có các
chính sách và các chương trình hành động nhanh hơn, tập trung hơn so với thời kỳ
1996-1999. Dù không có những bước này, tăng trưởng năm 2000 cũng sẽ không chậm
lại, nhờ giá dầu tăng cao hơn; năm 2001 cũng không chậm lại do kỳ vọng một số nới
lỏng trong hiệp đònh thương mại Việt-Mỹ. Tuy nhiên tình thế sẽ giống như ở tình
huống 1 nếu cải tổ không được thúc đẩy. Thực ra, với cạnh tranh ngày càng tăng từ
hàng nhập và tăng trưởng việc làm chậm chạp, sẽ có thể có khó khăn kinh tế nghiêm
trọng trong vòng 5 năm tới nếu không có cải tổ nhanh hơn và toàn diện hơn.
Phân tích đầu tư của người Việût Nam ở nước ngoài và tiết kiệm nội đòa
Khó đo lường được những điều không đăng ký. Suốt nhiều năm, Việt kiều đã
gửi về cho gia đình hàng năm hàng trăm triệu đô la. Thường đó là đóng góp cho tiêu
dùng gia đình. Tuy nhiên, ít nhất một số nhà quan sát cho là có sự gia tăng tỉ lệ đầu tư
Fulbright Economics Teaching Program Economics Executive Education Program Choices and Opportunities
2001-2002

David Dapice

17
không đăng ký trong tổng số gửi về. Các ước tính về tổng số tiền "quà tặng" của Việt
kiều khá khác nhau, gần đây trong khoảng 1-2 tỉ đô la mỗi năm. Do chúng ta không

biết chắc, hãy giả đònh một nửa trong số này là đầu tư. Điều đó nghóa là khoảng 0.5 tỉ
đến 1 tỉ đô la đầu tư mỗi năm, gần tương đương với đầu tư có đăng ký! (Hay lấy 1/3
của con số 2 tỉ đô la cũng cho kết quả 600 triệu đô la.) Khó có thể so sánh một lượng
đầu tư hàng năm như vậy, nhưng nếu suất đầu tư để tạo ra mỗi việc làm là 5,000 đô la,
thì có khoảng 100,000 - 200,000 việc làm được tạo ra mỗi năm từ nguồn này. Con số
này gấp đôi hay gấp ba tăng trưởng việc làm trong khu vực FDI, do bản chất đầu tư ít
thâm dụng vốn hơn (do không rõ nên đây chỉ là giả đònh.) Tất nhiên cần phải nghiên
cứu thêm để hiểu được qui mô và tầm quan trọng của dạng đầu tư này.
Thông tin không chắc chắn về khoản đầu tư như trên dẫn đến câu hỏi về mức
tiết kiệm nội đòa. Trong năm 1999, báo cáo cho thấy nhập khẩu gần tương đương xuất
khẩu. Một lượng nhỏ thâm hụt thương mại cộng thêm thu nhập từ dòch vụ và đầu tư tạo
thành thâm hụt 1 tỉ đô la, nhưng dòng chảy mạnh của "quà tặng" tư nhân cho phép ghi
nhận một lượng thặng dư tài khoản vãng lai. Như vậy tiết kiệm nội đòa được coi là cao
hơn mức 26% GDP của đầu tư nội đòa. Nhưng tiền Việt kiều gửi về có phải chỉ là quà
biếu? Nếu không thì phải coi đó là dòng vốn nhập vào, và tiết kiệm nội đòa sẽ bò thấp
đi 2% đến 4% GDP.
Một điểm tách biệt khác là xuất nhập khẩu. Theo ước tính của báo cáo Hướng
Thương mại (Direction of Trade - DOT),
15
xuất khẩu được ghi nhận của Việût Nam
tương đương con số chính thức, nhưng nhập khẩu ở mức cao hơn nhiều. Trong giai
đoạn 1995-1997, thâm hụt thương mại cao gấp đôi con số chính thức, nghóa là DOT
ước tính nhập khẩu của Việût Nam cao hơn con số chính thức đến 2 tỉ đô la. Con số này
tương đương 7%-8% GDP, và nếu trừ con số này ra khỏi tiết kiệm nội đòa thì tiết kiệm
nội đòa chỉ còn 17% GDP. Như vậy mức tiết kiệm nội đòa của Việût Nam thực sự là
không rõ. Điều này không quan trọng lắm nếu dòng vốn từ nước ngoài vẫn tiếp tục
chảy vào, nhưng sẽ có vấn đề nếu dòng này chậm lại. Nếu thấy có ít đi các cơ hội đầu
tư có lãi, ngay cả dòng vốn của người Việût Nam ở nước ngoài cũng sẽ giảm, và đương
nhiên cả tín dụng thương mại cũng có thể giảm. Phân tích này nhấn mạnh nhu cầu phải
mở cửa nền kinh tế cho các đầu tư hiệu quả, tạo điều kiện cho đầu tư thu được lợi

nhuận hợp lý.


15
DOT là một báo cáo hàng năm do IMF phát hành, sử dụng số liệu xuất nhập khẩu của các nước khác
nhau để phối kiểm số liệu thương mại chính thức của bất cứ một nước đơn lẻ nào. Ví dụ như xuất khẩu
của Thái Lan sang Việt Nam (cộng thêm cước vận chuyển) phải bằng với số nhập khẩu của Việt Nam từ
Thái Lan. Nếu kiểm tất cả các nước thì con số xuất khẩu của Việt Nam tương đương số chính thức,
nhưng con số nhập khẩu của Việt Nam thấp hơn so với trong DOT.
Fulbright Economics Teaching Program Economics Executive Education Program Choices and Opportunities
2001-2002

David Dapice

18
Thỏa thuận thương mại Việt-Mỹ tốt ở những điểm nào?
Mỹ là một thò trường khổng lồ, hàng năm nhập khẩu hơn Việût Nam 100 lần. Thuế nhập
khẩu hầu hết các mặt hàng thường rất thấp đối với các nước có quan hệ thương mại bình
thường, và hầu hết các nước có quan hệ này. Tuy nhiên Việût Nam vẫn chưa có, do vậy hàng
chế biến của Việût Nam xuất khẩu sang Mỹ phải chòu thuế rất cao (40% hay cao hơn nữa) so
với mức thuế dưới 4% cho các nước khác. Không ngạc nhiên khi thấy Việût Nam hầu như
không xuất được hàng chế biến sang Mỹ. Nếu thỏa thuận thương mại (BTA) ký mới đây được
Quốc hội hai nước thông qua, rất có thể sẽ thấy hàng chế biến của Việût Nam xuất sang Mỹ
tăng vọt. Một nghiên cứu mới đây của Ngân hàng Thế giới ước tính mức tăng ban đầu sẽ
khoảng 800 triệu đô la,
16
nhưng sẽ dễ dàng tăng một cách đáng kể trong các kỳ tiếp theo.
Bài viết này đề cập hai điểm khác trong thỏa thuận thương mại. Thứ nhất là các yếu tố
góp phần vào tác động tổng thể lên thương mại và đầu tư. Thứ hai là tầm quan trọng của các
nhượng bộ của Việût Nam trong viễn thông, ngân hàng, và các dòch vụ khác. Với vấn đề thứ

nhất, BTA tốt nhất được hiểu là điều kiện cần nhưng không phải điều kiện đủ để tăng xuất
khẩu và tăng đầu tư. BTA
cho phép
Việût Nam thu hút thêm FDI, nhưng không
bảo đảm
điều
này. Các cải thiện về thông tin minh bạch, luật lệ, giá tính cho cơ sở hạ tầng v.v cũng sẽ ảnh
hưởng đến các nhà đầu tư nước ngoài. Sẽ không ngạc nhiên khi thấy FDI tăng trong năm 2001
sau khi BTA được phê chuẩn, nhưng bước nhảy vọt sẽ không bền vững được nếu các kinh
nghiệm không tốt lại tái diễn. Về nhiều phương diện, Việût Nam hiện được coi là một trong
những nơi đầu tư khó khăn trong châu Á. Mức đăng ký FDI thấp các năm 1999-2000 là một
kiểm chứng. Trong khi dòng FDI ở Trung Quốc, Hàn Quốc, và Thái Lan ổn đònh hay tăng lên
nhanh chóng kể từ 1996, ở Việût Nam lại giảm 80%-90%. Nếu Việût Nam có thể cải thiện uy tín
của mình, đất nước có thể thu hút đầu tư với số lượng và chất lượng cao hơn rất nhiều. Điều
này cũng hỗ trợ mạnh mẽ cho xuất khẩu và tạo việc làm. Một ghi nhận quan trọng là trong khi
toàn bộ
hàng chế biến xuất khẩu của Việût Nam trong năm 1999 là 4 tỉ đô la, chỉ riêng mức
tăng thêm hàng năm của chế biến xuất khẩu của Philippines cũng đã là 4 tỉ đô la! So sánh này
cho thấy điều gì có thể xảy ra một khi một ngành năng động như điện tử quyết đònh tập trung
vào một quốc gia. Điều thiết yếu là trong một tập hợp chính sách, các chính sách hỗ trợ lẫn
nhau. Tác dụng là cấp số nhân, không phải cấp số cộng.
Câu chuyện trên đưa chúng ta đến vấn đề thứ hai. Việc nhượng bộ trên nhiều ngành
trong khuôn khổ BTA có ảnh hưởng đến Việût Nam như thế nào, đặc biệt là thông tin viễn
thông và ngân hàng? Câu hỏi có thể mang nghóa "Việût Nam bò thiệt hại gì?" Một cách nghó là
"Nếu Mỹ đòi hỏi điều gì, điều đó chắc là có hại cho Việût Nam. Vấn đề chỉ là có hại đến mức
nào." Câu hỏi thích hợp hơn có thể là "Việût Nam nên cải tổ ngành viễn thông và ngân hàng
nhanh như thế nào?" Nghóa là nếu như không phải quan tâm đến Mỹ, tốc độ cải tổ như thế nào
là tốt nhất cho Việût Nam? Rõ ràng là cổ phần hóa đã diễn ra rất chậm do doanh nghiệp nhà
nước và các cấp đòa phương không sẵn lòng. Chừng nào các ngân hàng quốc doanh còn thật sự
độc quyền và còn phải cho vay phần lớn vào các doanh nghiệp yếu kém hoặc thậm chí đang

chết, triển vọng tạo được 1.4 triệu việc làm mỗi năm (phần lớn do khu vực tư nhân) vẫn còn

16
Theo bài "Tác động của việc Mỹ mở cho Việt Nam chế độ tối huệ quốc" của tác giả Fukase và
Martin, tháng 11/1999 (World Bank Policy Research Working Paper)

×