Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

" Quỹ đầu tư vốn mạo hiểm - Cơ hội cho những nhà doanh nghiệp trẻ Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và bước vào nền kinh tế tri thức"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.82 KB, 92 trang )

Lời nói Đầu
Toàn thế giới đang bớc vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của khoa
học công nghệ kỹ thuật cao, tốc độ khoa học công nghệ phát triển nh vũ bÃo, nền
kinh tế thế giới đang dần chuyển hớng nhắm tới nền kinh tế tri thức. Trong bối cảnh
đó, Việt Nam đang chuẩn bị những hành trang để hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Với xuất phát điểm của chúng ta là một nớc đang phát triển, lạc hậu trong lĩnh vực
khoa học kỹ thuật, đang trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nớc, quả
thật chúng ta gặp khó khăn rất nhiều trong tiến trình héi nhËp nỊn kinh tÕ thÕ giíi.
§Ĩ cã thĨ thùc hiện chiến lợc đi tắt đón đầu trong thời đại ngày nay, chúng ta chỉ
còn một con đờng vận dụng tri thøc, sư dơng vèn q nhÊt cđa con ngêi vào trong
lĩnh vực kinh doanh sản xuất, sáng tạo khoa học công nghệ kỹ thuật. Nếu không
phát huy sức mạnh của tri thức thì chúng ta sẽ mÃi đi theo đuôi các nớc phát triển là
bÃi rác công nghiệp cho thế giới và nền kinh tế tri thức đối với Việt Nam chỉ là một
giấc mơ không bao giờ thành hiƯn thùc.
Cã thĨ thÊy r»ng viƯc ph¸t triĨn khoa häc công nghệ kỹ thuật là con đờng
ngắn nhất để Việt Nam héi nhËp vµo nỊn kinh tÕ trong khu vùc và trên thế giới, là
cơ hội cho các doanh nghiệp trẻ Việt Nam cọ xát, thử sức trong môi trờng cạnh
tranh kinh tế quốc tế. Nhng đối với các dự án thuộc lĩnh vực khoa học công nghệ thì
thờng đòi hỏi vốn lớn và rủi ro laị cao, các chủ đầu t phải đủ tiềm lực tài chính và
đủ năng lực để có thể tài trợ cho các dự án thuộc loại này. Với hệ thống cơ chế tài
chính nh ở nớc ta hiện nay thì khó lòng có thể thực hiện đợc những dự án có tiềm
lực lớn. Các ngân hàng và các tổ chức tài chính hiện có ở Việt Nam thờng không
đầu t vào những dự án có độ rủi ro lớn, và chức năng của các ngân hàng cũng cha
thể hiện đúng với chức năng của nhà đầu t. Đây thực sự là khó khăn lớn nhất đối với
đội ngũ các doanh nghiệp trẻ, họ có ý tởng, có năng lực sáng tạo, có tiềm tàng phát
triển nhng họ thiếu vốn đầu t, khả năng tài chính không cho phép họ thực hiện
những dự án mạo hiểm, họ cần những tổ chức tài chính bảo trợ vốn, coi rủi ro là đầu
t lớn nhất cho lợi nhuận , lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn. Hơn nữa trong xu
hớng hội nhập kinh tế quốc tế thì các doanh nghiệp trẻ Việt Nam phải có những bớc
đột phá lớn về sản phẩm, thơng hiệu của mình trên thơng trờng quốc tế, muốn vậy
thì cần phải có những dự án mạo hiểm nhng mang lại sự phát triển nhảy vọt, và điều


kiện tiên quyết là khả năng tài chính phải đợc đảm bảo. Do đó thiết nghĩ cần phải
có một mô hình tài chính phù hợp có thể đáp ứng yêu cầu vay vốn của các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ kỹ thuật cao, các doanh
nghiệp trẻ có tiềm năng phát triển mạnh. Quỹ đầu t mạo hiểm là một loại hình tài
trợ tài chính tối u nhất cho doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Vì
mục đích của quỹ đầu t mạo hiểm là đầu t vào những doanh nghiêp mới khởi sự và
những doanh nghiệp đang ở thời kỳ tăng trởng mạnh cần vốn lớn. Quỹ đầu t mạo
hiểm chấp nhận rủi ro lớn để kỳ vọng vào mức lợi nhuận trong tơng lai cao hơn mức
bình quân. Nếu không có quỹ đầu t mạo hiểm thì nhiều dự án có giá trị cao, có tiềm
năng lớn bị xếp xó hoặc cả đời dự án sẽ mÃi ở trên bàn giấy, không thể thực hiện đợc.
Với những bức xúc trong thị trờng tài chính của Việt Nam và sự thích hợp
của quỹ đầu t mạo hiểm ở Việt Nam nên tôi đà tiến hành nghiên cứu đề tài:

" Quỹ đầu t vốn mạo hiểm - Cơ hội cho những nhà doanh nghiệp trẻ Việt Nam
trong quá trình héi nhËp kinh tÕ qc tÕ vµ bíc vµo nỊn kinh tế tri thức"
Thông qua những cơ sở lý luận và tình hình thực tiễn của hoạt động đầu
t vốn mạo hiểm trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, kinh tế tri thức đợc trình
bày trong đề tài, tôi xin đợc nhấn mạnh về ba vấn đề trọng t©m :
1


Một là , Việt Nam cần phải hớng tới nỊn kinh tÕ tri thøc, héi nhËp vµo
nỊn kinh tÕ thế giới.
Hai là , những thách thức và cơ hội mà doanh nghiệp trẻ Việt Nam gặp
phải trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Quỹ đầu t mạo hiểm - định chế tài chính tối u đối với các doanh
nghiệp trẻ, phù hợp cho mục tiêu phát triển kinh tế Việt Nam.
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là có một cái nhìn đúng đắn và
toàn diện hơn về các loại quỹ đầu t, đặc biệt là quỹ đầu t mạo hiểm, đồng thời thấy
đợc tầm quan trọng của các quỹ này trong quá trình ViƯt nam héi nhËp vµo nỊn

kinh tÕ thÕ giíi vµ tiến lên nền kinh tế tri thức trong tơng lai.

Chơng I
Quỹ Đầu t vốn mạo hiểm
Quan điểm lý luận và thùc tiƠn
I-

nỊn kinh tÕ tri thøc - sù ph¸t triĨn tất yếu của thời đại và yêu
cầu của hội nhập kinh tÕ qc tÕ

1. Kh¸i niƯm nỊn kinh tÕ tri thøc
NÒn kinh tÕ tri thøc ( knowledge economy ), nÒn kinh tÕ dùa trªn tri thøc
(knowledge based economy), nỊn kinh tế công nghệ cao (high-echnology
economy)... đang là những thuật ngữ thời thợng hiện nay không chỉ ở những quốc
2


gia phát triển mà còn ở cả những quốc gia đang phát triển. Vậy chúng ta phải hiểu
nh thế nào về những thuật ngữ này và thực chất "Nền kinh tế tri thức là gì?" Hiện
nay trên thế giới có rÊt nhiỊu c¸ch hiĨu kh¸c nhau vỊ nỊn kinh tÕ tri thức nhng hầu
hết đều dựa trên cách định nghĩa cđa OECD ( Office economic cooperation and
development, tỉ chøc hỵp tác kinh tế và phát triển ) đợc đa ra trong báo cáo "Kinh
tế dựa trên tri thức " năm 1996. Theo định nghĩa này thì nền kinh tế tri thøc lµ mét
nỊn kinh tÕ trùc tiÕp dùa vµo viƯc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức. Để mà
hiểu đợc định nghĩa mang tính khái quát cao đợc đa ra ở trên thì chúng ta phải xem
xét nó dới các khía cạnh khác nhau và đối với mỗi một quốc gia thì lại hiểu định
nghĩa trên theo cách riêng tuỳ thuộc vào đờng lối chính sách, cơ chế và xu hớng
phát triển của quốc gia đó. Nhng tựu chung lại chúng ta có thể hiểu định nghĩa này
theo ba c¸ch tiÕp cËn kh¸c nhau, c¸ch tiÕp cËn hĐp , cách tiếp cận rộng và cách tiếp
cận bao trùm.

Những ngời theo cách tiếp cận hẹp này hiểu tri thức với nghĩa hẹp tức là
đồng nghĩa với khoa học và công nghệ hoặc hẹp hơn nữa là đồng nghĩa với cuộc
cách mạng khoa học công nghệ hiện đại bao gồm bốn công nghệ trụ cột là: công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghiệp không gian vũ trụ và công nghệ
vật liệu mới, theo cách tiếp cận này họ nhấn mạnh vào vai trò to lớn và độc nhất
của công nghệ thông tin.
Ngợc lại với cách tiếp cận trên, thì cách tiếp cận rộng lại dựa trên cách hiểu
rộng vỊ tri thøc tøc lµ mäi hiĨu biÕt cđa con ngơì đối với bản thân và thế giới,
OECD đà phân ra bốn loại tri thức quan trọng , đó là biết cái gì, biết tại sao, biết nh
thế nào và biết ai. Kinh tế tri thức không chỉ có nguyên nhân từ sự tiến bộ vợt bậc
của các công nghệ mới mà là kết quả của một tập hợp ba nhóm nguyên nhân trực
tiếp tác động tơng tác và tự tăng cờng lẫn nhau bao gồm tiến bộ khoa học kỹ thuật,
nền kinh tế toàn cầu hoá cạnh tranh quyết liệt và các biến đổi về van hoá chính trị t
tởng cuả chủ nghĩa t bản hiện đại.
Còn đối với cách tiếp cận bao trùm thì kinh tế tri thức thực chất là một loại
môi trờng kinh tế văn hoá xà hội mới, có những đặc tính phù hợp và tạo thuận lợi
nhất cho việc học hỏi, đổi mới và sáng tạo. Trong môi trờng đó, tri thức tất yếu sẽ
trở thành nhân tố sản xuất quan trọng nhất đóng góp vào sự phát triển kinh tế. Do
vậy, cốt lõi cđa viƯc ph¸t triĨn mét nỊn kinh tÕ tri thøc không phải đơn thuần là phát
triển khoa học công nghệ mà là phát triển một nền văn hoá đổi mơí, sáng tạo để tạo
thuận lợi nhất cho việc sản xuất, khai thác và sử dụng mọi loại tri thức, mọi hiểu
biết của nhân loại.

3


Có lẽ là cách tiếp cận bao trùm đà phần nào bao gồm cả hai cách tiếp cận
trên nên nó đợc chấp nhận nhiều nhất và phổ biến nhất. Và theo t«i chóng ta cã thĨ
hiĨu nỊn kinh tÕ tri thức theo cách hiểu ngắn gọn, đơn giản và dễ hiĨu nh sau: NỊn
kinh tÕ tri thøc lµ mét nỊn kinh tế đợc dẫn dắt bởi tri thức, là một nền kinh tế mà

việc sản sinh và khai thác tri thức có vai trò nổi trội trong quá trình tạo ra của cải.

2/ Nền kinh tế tri thức là sự phát triển tất yếu của thời đại , là yêu cÇu
cđa héi nhËp kinh tÕ qc tÕ.
NỊn kinh tÕ thÕ giíi chun tõ nỊn n«ng nghiƯp trun thèng sang nỊn
kinh tế công nghiệp với sự mở màn thời kỳ tiền cách mạng công nghiệp ở nớc Anh
từ năm 1700 đến năm 1820 với sự phát triển của công nghiệp vải sợi, sự phát minh
ra máy hơi nớc của James Watt thời kỳ 1776 - 1781 khởi điểm cho sự phát triển
máy móc công nghiệp. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (`1820 - 1870),
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai (1870-1913), đà có những thành tựu đợc
áp dụng rộng rÃi trên toàn thế giới và đà mang lại kết quả to lớn làm tiền đề cho sự
phát triển của khoa học công nghệ. Và từ năm 1950 trở về đây với sự phát triển kinh
tế đặc biệt ở các nớc công nghiệp phát triển, sự phát triển của trÝ t, cđa khoa häc
c«ng nghƯ, cđa kiÕn thøc tỉ chức quản lý, nền kinh tế do giá trị của tri thức tạo ra
ngày càng tăng. Kinh tế thế giới ®· chun tõ thêi kú n«ng nghiƯp sang tiỊn c«ng
nghiƯp rồi sang công nghiệp và tất yếu bây giờ nó sẽ phát triển lên một hình thức
cao hơn nữa, phải chăng đó chính là nền kinh tế dựa trên khoa học kỹ thuật công
nghệ cao.
Thực ra vai trò của tri thức trong nền kinh tế không chỉ bây giờ mới đợc
nhân loại nói tới mà nó đà đợc đề cập đến từ rất sớm. Từ năm 1650, nhà tiên tri tài
năng của nớc Anh, William Patter, đà viết : " Của cải mang tính tợng trng sẽ thay
thế cho của cải thật" và để chứng minh cho lời nói của ông thì năm 1690, chiếc máy
hơi nớc đầu tiên trên thế giới đà ra đời ngay tại nớc Anh. Tiếp theo, sau ông là
Francis Bacon, nhà t tởng lớn ngời Anh khẳng định: " Tri thức là sức mạnh ".
Winston Churchill tõng nãi vỊ viƯc thiÕt lËp mét qc gia hùng mạnh bằng tri thức.
Ngay tại nớc Mỹ năm 1970, các ông trùm kinh tế còn cho rằng công nghiệp nặng
cần có xí nghiệp và điều đó sẽ mÃi không thể thay đổi. Nhng chỉ ít năm sau chính
họ đà phải thừa nhận: " Tri thức mới là chìa khoá để mở cổng để bá quyền kinh tế ".
Và Alvin Toffler, học giả ngời Mỹ, một trong những nhà tơng lai häc nỉi tiÕng cđa
thÕ giíi ë thÕ kû XX. Năm 1970, ông cho ra mắt bạn đọc cuốn " Có sèc t¬ng lai "

4


(Future shock), Trong cuốn này ông trình bày về quá trình biến đổi của công nghiệp
đối với các tổ chức và con ngơì, dự báo hiệu quả của cuộc cách mạng sinh hoá, của
cải cách giáo dục, khả năng kiềm chế và sự biến đổi sao cho có lợi. Đến năm 1980,
ông lại cho ra đời cuốn " Làn sóng thứ ba " (The third Wave), lần này ông phân tích
các hớng biến đổi mang tính chất khoa học kỹ thuật, ông nhấn mạnh vai trò của
khoa học kỹ thuật, cho rằng máy móc hiện đại sẽ thay thế cho sức lực của con ngời.
Và 10 năm sau, năm 1990, trong cuốn " Thăng trầm quyền lực " (Power shift ) hay
còn gọi là "Tơng lai thế giới " ông khẳng định vai trò then chốt của tri thức là tạo ra
sự biến đổi toàn diện kinh tế thế giới. Theo ông, bạo lực chỉ là dạng phẩm chất thấp,
của cải thuộc bậc trung còn tri thức mới là phẩm chất cao nhất, nó chuyển hoá liên
tục tránh đựoc lÃng phí sức lực và tiền của. Có thể nói những dự báo của ông đà và
đang nhanh chóng trở thành hiện thực, sách của ông trở thành sách bán chạy nhất
"Best sell".
Thế kỷ XX là thế kỷ khoa học công nghệ tiến nhanh cha từng thấy, giá trị
sản xuất vật chất tăng hàng chục lần so với thế kỷ trớc. Năm 1903, việc giải phóng
năng lợng hạt nhân của ông bà Mari Quyri đà tạo bớc nhảy vọt trong việc tìm ra
một năng lợng mới cho loài ngời, xuất hiện điện tử, tàu phá băng nguyên tử ... Cuộc
cách mạng sinh học tạo ra những giống mới dẫn tới bớc phát triển mới trong nông
nghiệp, thụ tinh trong ống nghiệm, năm 1967 ghép đợc tim con ngời . Cuối thế kỷ
XX đà giải mà đợc gien của loài ngời , thực hiện sinh sản vô tính , chế tạo ra các
thần dợc. Cuộc cách mạng về vật liệu mới, nổi bật là vật liệu compozit đang đợc sử
dụng rộng rÃi trong các ngành chế tạo máy, các ngành kỹ thuật cao... Cuộc cách
mạng về công nghệ vũ trụ với nhiều thành tựu to lớn: Phóng vệ tinh nhân tạo năm
1957 , phóng tên lửa thăm dò mặt trăng năm 1959, đa con ngời lên mặt trăng năm
1969 và khám phá sao hoả...
Đặc biệt là cuộc cách mạng thông tin. Năm 1832 máy điện tín ra đời mà cha
đẻ là Samuel Morse .Năm 1836 đờng dây điện báo xuất hiện lần đầu tiên ở Mỹ.

Năm 1960, các xí nghiệp ở Mỹ đều trang bị máy điện toán. Điện thoại ra đời năm
1901, truyền ảnh từ xa ra đời năm 1905, truyền hình từ xa ra đời năm 1914, vô
tuyến truyền hình ra đời năm 1926, đến năm 1951 có vô tuyến truyền hình màu,
máy tính ra đời năm 1949, nay là máy tính nối mạng và sự phát triển cực nhanh của
Internet.Trong vài thập kỷ gần đây, máy vi tính và mạng Internet là công cụ không
thể thiếu đợc trong các công ty, nhà máy. Sự ra đơì của Internet đà gắn liền cả thế
giới với nhau, buôn bán xuyên quốc gia đà trở nên dễ dàng hơn và thuận tiện hơn.
Thơng mại điện tử là một hình thức buôn bán phổ biến ở trên thế giới. Máy rút tiền
tự động, các cửa hàng bán đồ tự động và thanh toán bàng thẻ tín dụng điện tử không
còn xa lạ đối với con ngời . Ngày nay, công nghệ không dây đà phát triển lên tới
5


®Ønh cao thĨ hiƯn ë sù bïng nỉ sư dơng máy điện thoại di động, các đời điện thoại
di động không ngừng đợc nâng cấp và cải tiến. Công nghệ sinh học cũng đang trên
đà phát triển với sự ra ®êi cđa cõu Dolly, theo thèng kª ®· cã ®óa trẻ thứ 1000 đợc
sinh ra trong ống nghiệm, việc cấy ghép gen đà có thể thực hiện đợc. Qua đó có thể
thấy khoa học kỹ thuật công nghệ đà phát triển không ngừng và đạt đựơc nhiều
thành tựu đáng kể. Đó chính là tri thức , là công nghệ tri thức. Hơn nữa, con ngời
với t chất năng động, sáng tạo, luôn luôn muốn tìm tòi, khám phá ra những cái mới
và không bao giờ tự hài lòng với những gì mình đang có. Yêu cầu của con ngời
ngày càng trở nên đa dạng, phong phú, phức tạp, muốn đáp ứng đợc thì càng phải
nâng cao sự tích luỹ tri thức trong sản phẩm, phải tạo ra đợc những sản phẩm có
tính năng đa dạng, chất lợng tốt, giá rẻ và chứa hàm lợng tri thức cao.
Từ giữa thế kỷ XX ®Õn ci thÕ kû XX , cã thĨ nãi đây là thời kỳ phát triển
có tính chất bớc ngoặt của yếu tố tri thức với t cách là một yếu tố của lực lợng sản
xuất và nó đợc bắt đầu ở nớc Mỹ - một quốc gia đứng vị trí thứ nhất trong nền kinh
tế toàn cầu. Trớc đây con ngời khai thác tài nguyên thiên nhiên, lấy đó làm nguồn
lực để phát triển kinh tế nhng tài nguyên cũng chỉ có giới hạn , khai thác mÃi thì
cũng phải cạn kiệt do đó con ngời cần phải phát triển khoa học kỹ thuật để tạo ra

những vật liệu cần thiết cho sản xuất mà không phải lấy từ thiên nhiên. Tới đây thì
khoa học kỹ thuật đà trở thành nhân tố quyết định cho sự phát triển của nền kinh tế.
Nhờ có khoa học kỹ thuật mà vòng đời của sản phẩm đợc rút ngắn, hàm lợng chất
xám và vốn chứa đựng trong tri thức tăng cao.
Xu hớng toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ®ang diƠn ra m¹nh mÏ
cïng víi sù bïng nỉ vỊ khoa häc c«ng nghƯ th«ng tin. Nhê cã c«ng nghƯ thông tin
mà quá trình giao thơng giữa các quốc gia trở nên dễ dàng hơn nhiều, ngành công
nghệ khoa học kü tht cđa nhiỊu qc gia nh Mü, Anh , Pháp, Đức... đang ở đỉnh
cao, do đó muốn đạt tới yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế thì các quốc gia khác phải
bắt kịp tốc độ phát triển các ngành khoa học công nghệ vì giờ đây nó chính là
nguồn gốc của sự giàu có và hùng mạnh của mỗi quốc gia và cũng chỉ có con đờng
đó mới giúp cho các nớc nhỏ , các nớc đang phát triển mới có điều kiện hội nhập
vào nền kinh tế quốc tế. Có thể nói tốc độ phát triển công nghệ thông tin là chìa
khoá cho sự thành công. Trớc đây, giá trị đồng nghĩa với khối lợng, số lợng nhng
giờ đây giá trị có nghĩa là chất lợng, một con chíp bé tẹo có thể cấy ghép vào mạch
máu con ngời lại có giá trị gấp mấy chục lần một chiếc máy vi tính chứa đựng vô số
những vi mạch điện tử. Càng nhỏ càng đắt tiền, đó là khẩu hiệu thời đại công nghệ
kỹ thuật, một chiếc điện thoại di động bé bằng nửa lòng bàn tay lại có giá trị gấp
nhiều lần so với một chiếc di động to bằng cục gạch. Câu hỏi cần đặt ra ở đây là tại
sao những sản phẩm tốn nhiều vật chất hơn lại có giá trị ít hơn nhiều so víi nh÷ng
6


sản phẩm mà sử dụng rất ít t liệu sản xuất, tại sao những sản phẩm đời sau lại sử
dụng ít t liệu sản xuất hơn những sản phẩm đời trớc. Câu trả lời duy nhất cho vấn đề
này là yêu cầu của con ngời ngày càng cao, xu hớng tiêu dùng những sản phẩm
chứa nhiều hàm lợng giá trị tri thức càng đợc a chuộng. Giá trị của sản phẩm đợc
đánh giá dựa theo hàm lợng tri thức chứa đựng trong nó, theo công năng , tiện ích
và u điểm của sản phẩm so với các sản phẩm cùng loại. Chỉ có những thành tựu của
khoa học công nghệ th«ng tin, c«ng nghƯ kü tht cao míi cã thĨ tạo ra đợc những

sản phẩm u việt nh vậy, đây cũng là câu trả lời cho sự phát triển nhảy vọt của Nhật
Bản - một đất nớc không đợc u đÃi về tài nguyên thiên nhiên, nhng nó trở thành cờng quốc đứng thứ ba trên thế giới là dựa vào tri thức dựa vào những thành tựu khoa
học công nghệ . Nhật Bản đà có những chiến lợc phát triển khoa học công nghệ rất
hợp lý và hiệu quả. Cũng giống nh Nhật Bản, Hàn Quốc trong vài thập kỷ gần đây
đà vơn lên thành một trong những nớc có nền công nghệ thông tin phát triển vào
bậc nhất trên thế giới. Vậy, để hội nhập kinh tế quốc tế, hoà mình vào dòng chảy
chung của toàn cầu thì các nớc đang phát triển mà điển hình là Việt Nam chúng ta
càng cần phải phát huy mạnh mẽ hơn nữa khoa học công nghệ thông tin. Khi hội
nhập vào nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới có nghĩa là cùng chung một sân
chơi, mạnh đợc yếu thua, đây là một thách thức to lớn đối với các nớc đang phát
triển vì phải đối mặt với nhiều đối thủ cạnh tranh quốc tế có trình độ khoa học công
nghệ vợt trội nhng đồng thời cũng là cơ hội, tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển
của những nớc này. Do đó muốn trụ vững đợc trên thơng trờng quốc tế thì sản phẩm
của các doanh nghiệp míi tham gia thÞ trêng qc tÕ Ýt ra cịng phải ngang tầm với
các sản phẩm khác trên thị trờng. Mặt khác khi hội nhập kinh tế quốc tế , các nớc
đang phát triển nh Việt Nam có thể xâm nhập vào thị trờng các nớc khác nhng cũng
đồng nghĩa với việc thị trờng trong nớc bị chia sẻ, nếu không giữ vững và củng cố
đợc thị phần trong nớc thì chúng ta đà bị thua ngay trên sân nhà , chơi trên sân nhà
còn thua thì nói gì đến việc chơi trên sân bạn , điều này có nghĩa là khả năng cạnh
tranh của chúng ta quá hạn chế. Để cải thiện tình trạng này không còn cách nào
khác là phải phát triển khoa học công nghệ, sử dụng khoa học công nghệ một cách
hợp lý và có hiệu quả, phải đầu t chất xám trong sản phẩm, sản phẩm đợc sản xuất
ra phải chứa đựng hàm lợng tri thức cao, phải có khả năng cạnh tranh. Vì vậy, với
yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới và toàn cầu hoá thì Việt Nam nói riêng và các nớc
đang phát triển nói chung phải đánh giá đợc tầm quan träng cđa tri thøc trong viƯc
s¶n xt, øng dơng triƯt để các thành tựu khoa học công nghệ sẵn có, không ngừng
nghiên cứu, sáng tạo các công nghệ mới, hiện đại đáp ứng đợc nhu cầu ngày càng
cao của nhân lo¹i

7



Tri thức còn đợc vận dụng vào trong quản lý, tổ chức, tri thức trở thành
nguồn lực căn bản của kinh tế quốc gia . Tri thức quyết định tăng trởng kinh tế và
nhất là trong giai đoạn hiện nay , nguồn tài nguyên thiên nhiên trên thế giới đang
cạn kiệt dần thì vai trò của tri thức càng đợc nhấn mạnh. Trong nền kinh tế tri thức
nguồn tài nguyên trí lực và khoa học kỹ thuật công nghệ trở thành lực lợng sản xuất
trực tiếp , lực lợng có vai trò quan trọng hàng đầu .Vậy, sự xuất hiện nền kinh tế tri
thức là một quá trình , một thực tế tất yếu chứ không phải là ngẫu nhiên . Kinh tế tri
thức là sự phát triển tất yếu của thời đại.

II-

Quá trình hình thành quỹ đầu t mạo hiểm
1/ Quỹ đầu t - quỹ đầu t mạo hiểm

Nền kinh tế muốn tăng trởng nhanh, nhất thiết phải có nhiều vốn đầu t. Vấn
đề đặt ra là làm thế nào để các tổ chức, cá nhân có vốn nhàn rỗi và các nhà doanh
nghiệp có ý tởng kinh doanh, có các dự án kinh doanh nhng thiếu vốn đầu t gặp
nhau đợc, cùng hợp tác với nhau, cùng nhau tìm kiếm các cơ hội kinh doanh có lợi
nhất. Để làm "cầu nối " giữa bên cần vốn với bên có vốn nhàn rỗi, nhiều loại hình
định chế tài chính trung gian đà ra đời. Một trong những định chế tài chính trung
gian có ảnh hởng nhiều đến các hoạt động đầu t trong nền kinh tế, đó là " quỹ đầu t".
Quỹ đầu t là một tổ chức dạng doanh nghiệp đợc hình thành từ vốn góp của
ngời đầu t bằng cách phát hành và bán chứng chỉ quỹ. Là một dạng doanh nghiệp
đặc biệt, quỹ đầu t không dùng vốn của mình để mua máy móc thiết bị, các yếu tố
sản xuất để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, mà dùng vốn để đầu t
trực tiếp và đầu t gián tiếp.
Đầu t trực tiếp là việc các quỹ đầu t dùng vốn của mình để thâm nhập trực
tiếp vào các công ty, các dự án bằng cách góp cổ phần, mua cổ phiếu phát hành lần

đầu với t cách là cổ đông sáng lập nh các sáng lập viên khác.
Đầu t gián tiếp là việc quỹ đầu t tự dùng vốn của mình tham gia vào thị trờng chứng khoán với t cách của một nhà kinh doanh chứng khoán, mua đi bán lại
các chứng khoán, nhằm hởng chênh lệch giá hay cổ tức từ các công ty hoặc lợi tức
trái phiếu. Tuy nhiên quỹ đầu t không phải là thành viên của thị trờng chøng kho¸n
8


tập trung. Các quỹ đầu t có thể dùng vốn của mình cho các chủ doanh nghiệp vay
để đầu t vào các dự án theo những thoả thuận nhất định. Nguồn vốn hình thành quỹ
đầu t rất phong phú và đa dạng. Các tập đoàn t bản, các công ty, dân chúng... có vốn
nhàn rỗi dù nhiều hay ít đều có thể trở thành các chủ sở hữu của quỹ đầu t bằng
việc mua các chứng chỉ quỹ đầu t do quỹ đầu t phát hành.
Hiện nay có rất nhiều loại hình quỹ đầu t nh : quỹ đầu t chứng khoán, quỹ
đầu t hỗn hợp, quỹ hỗ trợ đầu t, quỹ đầu t mạo hiểm... Nhng trong đề tà này tôi chỉ
xin nghiên cứu về quỹ đầu t mạo hiểm. Vậy để hiểu rõ từng khía cạnh của quỹ đầu
t mạo hiểm thì trớc tiên chúng ta phải hiểu quỹ đầu t mạo hiểm là gì và bản chất của
nó.
Để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong xà hội, nhiều nớc đà áp dụng hình
thức huy động vốn đầu t mạo hiểm để cung cấp cho các dự án, chơng trình. Điển
hình trong hoạt động này là ngời Mỹ, họ đà phát triển mạnh hình thức vốn mạo
hiểm (Venture capital), đáp ứng một cách nhanh chóng và hiệu quả cho các dự án
của mình. Hiện nay tại Mỹ đà hình thành một thị trờng vốn mạo hiểm khổng lồ, có
khả năng tài trợ cho nhiều dự án, đặc biệt là những nghiên cứu công nghệ cao. Vậy
vốn mạo hiểm là gì và vai trò của chúng nh thế nào trong hệ thống tài chính của các
quốc gia trên thế giới hiện nay?
Theo một nghiên cứu gần đây của Chơng trình dự án phát triển sông Mê
Kông (năm 1998) thì có hai định nghĩa về vốn mạo hiểm, một theo nghĩa rộng và
một theo nghĩa hẹp." Theo nghĩa rộng thì vốn mạo hiểm là nguồn tài chính cung
cấp cho các công ty t nhân dới hình thức vốn cổ phần hoặc các khoản đầu t gần
giống nh vốn cổ phần có thời hạn trung bình (3 - 5 năm)". Số cổ phần giành đợc

trong các công ty nhận đợc vốn đầu t loại này có thể chiếm tỷ phần ít ỏi hoặc chiếm
đa số áp đảo. Nh chúng ta đà biết, đầu t là hoạt động bỏ vốn ra tập trung vào một
mục đích nào đó nhằm mu cầu một khoản thu về lớn hơn trong tơng lai, nhng khác
với đầu t thông thờng, mục tiêu của đầu t mạo hiểm là kiếm đợc khoản thu nhập
vốn cao hơn mức trung bình. Khoản thu này trở thành hiện thực sau khi khoản đầu
t đó đợc bán cho một nhà kinh doanh chứng khoán hoặc bán cho công chúng (bán
cho công chúng là hiện tợng phổ biến xảy ra ở các nớc châu á. Bên cạnh việc cung
cấp vốn, các chuyên gia quản lý vốn mạo hiểm còn t vấn ở tầm chiến lợc, cho các
công ty nhận vốn đầu t khi họ bớc sang giai đoạn tăng trởng kế tiếp và thậm chí
chuẩn bị sẵn sàng để công ty đợc chuyển giao cho các cổ đông khác.
Định nghĩa hẹp, xác định vốn mạo hiểm là các khoản đầu t vốn cổ phần t
nhân trung hạn vào các công ty nhận vốn cha trởng thành. Nói cách khác, công ty
9


nhận vốn đầu t đang trong giai đoạn đầu (manh nha) của quá trình phát triển sản
phẩm, phát triển năng lực sản xuất hoặc bắt đầu mở rộng cung cấp hàng hoá, dịch
vụ. Trong giai đoạn đầu phát triển, các công ty hiện nay ngày càng phát triển
nhanh, có xu hớng rút ngắn lịch sử phát triển và có quy mô nhỏ hơn so với đa số các
khoản đầu t đợc nêu trong định nghĩa rộng, rủi ro cũng có xu hớng cao hơn. Vì thế ,
các chuyên gia quản lý vốn mạo hiểm sẽ tìm kiếm các khoản thu nhập vốn tiềm
năng cao hơn. Sự khác biệt giữa hai định nghĩa trên ở một góc độ nào đó là mức độ
trởng thành của các công ty nhận vốn đầu t.
Chúng ta cũng có thể hiểu quỹ đầu t mạo hiểm duới góc độ khác và theo tôi
cách định nghĩa này dễ hiểu và thể hiện rõ chức năng của quỹ đầu t mạo hiểm hơn
cả. Quỹ đầu t mạo hiểm là hình thức huy động vốn để đầu t tiền và kỹ năng vào các
công ty mới khởi sự có tiềm năng phát triển cao hoặc các công ty đang ở giai đoạn
tăng trởng cao. (Thông thờng các công ty này là những công ty cha đợc niêm yết và
cổ phiếu cha đợc mua bán trên các sàn giao dịch chứng khoán). Theo định nghĩa
này thì ngoài việc đầu t tiền, công ty quản lý quỹ còn đầu t kỹ năng quản lý vào các

công ty thuộc danh mục để đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động các công ty này.

2/ Lịch sử ra đời của quỹ đầu t mạo hiểm
Quỹ vốn mạo hiểm đầu tiên đợc thành lập năm 1946 ở Mỹ tại thành phố
Boston, có tên gọi là công ty Nghiên cứu và Phát triển Mỹ (ARD Coporation) đà đợc hình thành dới hình thức một quỹ hỗ tơng dạng đóng (closed end). Sự ra đời của
quỹ này gắn liền với sự phát triển của thung lũng Silicon. Quỹ này đợc hình thành
để kiếm các dự án đầu t có nhiều tiềm năng đem lại thu nhập cao. Công ty Digital
Equipment Inc đà mang lại hơn 50% lợi nhuận của quỹ này. Nhiều quỹ vốn mạo
hiểm đà ra đời tiếp sau đó. Cũng vào khoảng thời gian này, các tổ chức của chính
phủ bảo trợ cho các doanh nghiệp nhỏ đợc thành lập nh SBA và SBIC nhng quy mô
vốn đầu t cho từng doanh nghiệp vẫn còn nhỏ.
Tuy nhiên, đà có những thay đổi quan trọng trong lÃnh vực này vào những
năm 1970 khi có một đạo luật về giảm thuế đánh trên lợi nhuận do tăng vốn (capital
gain tax) đợc ban hành. Một yếu tố thứ hai đà tác động đến sự phát triển các quỹ
vốn mạo hiểm khi vào năm 1979 sau khi Bộ Lao động Hoa kỳ điều chỉnh lại các
quy định liên quan đến việc đầu t của các quỹ hu trí, đà thúc đẩy những khoản vốn
từ quỹ hu trí đầu t cho các doang nghiệp mới cần vốn mạo hiểm để đòi lại các
khoản lơị nhuận cao trong danh mục đầu t đa dạng hoá.
10


Cũng vào thời kỳ này và những năm đầu thập niên 1980 và 1990 đà có sự
tăng vọt về các khoản vốn đầu t mạo hiểm song hành với các cuộc phát hành lần
đầu ra công chúng, cùng với các diễn biến tăng giá cổ phiếu ngoạn mục trên thị trờng cổ phiếu. Trong khoảng thời gian này, dù có tốc độ tăng trởng rất nhanh, khối
lợng vốn mạo hiểm chỉ đạt 10 đến 15 tỷ USD trong những năm 1980. Sau đó vào
những năm 1990, những thiên thần đầu t (thiên thần đầu t là thuật ngữ chỉ các nhà
đầu t vốn mạo hiểm cho những dự án ngay từ khi thai nghén hoặc mới hình thành,
đặc biệt là các dự án đi liền với các phát minh, sáng chế còn quá mới mẻ với các
nhà tài chính chuyên nghiệp vì cha đủ thông tin cần thiết về các phát minh... những
khoản đầu t này rất khó thẩm định về hiệu quả kinh tế và khó gọi vốn trong những

thời kỳ mới hình thành) đà bỏ ra khoảng 30 tỷ USD cho các dự án vốn mạo hiểm.
Theo một nghiên cứu của Wetzel hàng năm có khoàng 50 tỷ USD đợc các quỹ vốn
mạo hiểm đầu t cho các dự án trên toàn cầu. Tại vơng quốc Anh các quỹ vốn mạo
hiểm với vốn trên 5 tỷ USD đà tập hợp thành Hiệp hội các quỹ vốn mạo hiểm Anh
Quốc (British venture capital association).
Riêng chính phủ Hoa Kỳ đà đầu t khoảng 63 tỷ USD cho các dự án mạo
hiểm, nhng tập trung chủ yếu vào các trờng đại học. Đối với các ngành công nghiệp
nhỏ, vốn mạo hiểm đà đóng vai trò tác động quan trọng. Trong khoảng 10 năm kết
thúc vào năm 1988, trên 305 cuộc phát hành lần đầu ra công chúng (IPO), là của
công ty có vốn mạo hiểm, điều này có nghĩa là các công ty đó đợc các quỹ vốn mạo
hiểm cấp vốn trong thời kỳ đầu và vẫn tiếp tục đầu t vào các doanh nghiệp phát
hành này trong các giai đoạn phát triển tiếp theo. Quỹ đầu t mạo hiểm đà đợc hình
thành phát triển mạnh mẽ, đang trở thành một nghành công nghiệp tại Mỹ, Anh và
Đức...Còn tại Châu á, quỹ đầu t mạo hiểm cũng đà xuất hiện lần đầu tiên ở
Singapore. Năm 1985 với sự hoạt động rất tÝch cùc cđa ban ph¸t triĨn kinh tÕ
nh»m thøc đẩy sự vận động của hoạt động tài chính hỗ trợ cho nguồn vốn đầu t rủi
ro. Tại Hàn Quốc, Thái Lan và Đài Loan, hình thức đầu t này cũng đà xuất hiện từ
rất sớm. Năm 1690, tại Hàn quốc, các nhà đầu t đà liên kết với nhau và thành lập ra
13 câu lạc bộ các nhà đầu t, họ chọn lựa những doanh nghiệp đợc đánh giá là có
tiềm năng phát triển nhất trong số các doanh nghiệp mới đợc thành lập để đầu t vốn
liếng và kinh nghiệm hoạt động của mình. Năm 1996, Fuji Bank của Nhật đà thiết
lập ra bộ phận đợc gọi là "Phòng tín dụng cho các doanh nghiệp mới ", chức năng
của ban này là hỗ trợ thực hiện gia tăng đầu t cho các hÃng kinh doanh mới thành
lập, tìm kiếm những hÃng có tiềm năng phát triển cao và giúp đỡ họ trong việc mở
rộng sản xuất kinh doanh.

11


Lịch sử phát triển của quỹ đầu t mạo hiểm khá là lâu dài và hoạt động với

phạm vi tơng đối rộng, từ Mỹ, Anh... và ở cả Châu á nh Nhật, Singapore, Hàn
Quốc... Hoạt động của các quỹ này đà mang lại những hiệu quả to lớn cho nền kinh
tế của các nớc phát triển và kinh tế thế giới. Do đó, quỹ đầu t mạo hiểm không phải
là xa lạ đối với nhân loại mà mặt khác nó còn là hình thức đầu t rất hiệu quả.

3/ Tổ chức, quy trình hình thành và quy trình đầu t quỹ vốn mạo
hiểm

3.1> Tổ chức của các công ty vốn mạo hiểm
Sự thành công của các quỹ vốn mạo hiểm lệ thuộc vào khả năng giải đáp
tính phức tạp của các dự án mới. Các nhà quản trị vốn mạo hiểm, bên cạnh khả
năng phát hiện ra những dự án tiềm năng có mức tăng trởng cao, phải có năng lực tổ
chức quản trị các đầu t này một cách hiệu quả. Thông thờng việc theo dõi các dự án
nh vậy rất tốn kém trong chi phí quản trị tổng hợp các danh mục đầu t của quỹ vốn
mạo hiểm. Ngoài ra, nhà quản trị phải có năng lực đàm phán hợp đồng để phát triển
mở rộng, tái bố trí nhân sự phù hợp cho từng giai đoạn phát triển nhằm đạt đợc mục
đích cuối cùng của nhiệm vụ là đạt mức tăng trởng cao trong toàn quý. Khác với
quỹ đóng thông thờng, loại quỹ vốn mạo hiểm hạn chế thời gian và bắt buộc thành
viên tổng quát phải liên tục tìm kiếm các đầu t tốt để gia tăng giá trị và hoàn thành
chỉ tiêu đề ra. Khác với quỹ đóng, dòng vốn chạy vào quỹ vốn mạo hiểm là thuộc
nhu cầu thị trờng, cho phép quỹ phát triển mở rộng khi có thời cơ đầu t tuỳ theo đề
nghị của thành viên tổng quát.
Do những yêu cầu đối với thành viên của quỹ vốn đầu t mạo hiểm nh trên
nên các nhà quản trị đà chọn lọc ra mô hình thành viên hợp danh trách nhiệm hữu
hạn cho cac quỹ vốn mạo hiểm. Hình thức sở hữu này giảm thiểu các vấn đề nảy
sinh trong quá trình đầu t vào dự án mới bởi vì với hình thức này, các nhà đầu t có
thể tham gia nhiều quỹ với những mục tiêu đa dạng. Trong khi đó, thành viên tổng
quát đợc thoải mái quyết định đầu t vào các dự án sẽ mang lại giá trị cao cho q.
Sau cïng c¬ cÊu cđa q cho phÐp sư dơng hiệu quả tính thanh khoản mà chỉ có các
nhà đầu t định chế lớn mới có. Nó cho phép nhà quản lý quỹ yên tâm vì không có

những biến động dòng vốn vào và dòng vốn chảy ra. Các nhà quản lý quỹ có thể
cam kết tham gia vào các dự án tốt và ngợc lại đôi khi phải ngồi chờ vì không có dự

12


án tốt để đầu t. Dạng thức ban đầu này vẫn còn những hạn chế khiến cho các nhà tài
chính lựa chọn một mô hình hoàn thiện hơn cho các quỹ vốn mạo hiểm nh sau:
Theo mô hình Venture Capital Limited Partnership, Hợp danh trách nhiệm
hữu hạn vốn mạo hiểm chỉ có hai loại thành viên là: Thành viên tổng quát và thành
viên trách nhiệm hữu hạn.
Thành viên tổng quát ( General Partnes)
Các thành viên tổng quát là ngời lập ra quỹ vốn mạo hiểm bằng cách gọi vốn từ
thành viên hợp danh trách nhiệm hữu hạn. Các thành viên tổng quát có trách nhiệm
tổ chức đầu t vốn gọi đợc. Sau khi có nguồn vốn, các thành viên tổng quát tìm kiếm
sàng lọc các cơ hội đầu t, và khi gặp đợc cơ hội tốt, các cổ đông này đàm phán tổ
chức đầu t.
Việc tham gia đầu t vốn vào một dự án cũng có nghĩa là các thành viên tổng
quát phải tốn thì giờ và công sức để theo dõi, giám sát và t vấn cho các dự án đầu t
mới. Quan điểm về cách tổ chức đầu t và tham gia giám sát có khác nhau tùy từng
nhóm quỹ vốn mạo hiểm.
Sau cùng thành viên tổng quát phải tổ chức thu hoạch thành quả đầu t bằng cách
tổ chức phát hành ra công chóng hay tỉ chøc b¸n dù ¸n, doanh nghiƯp cho một
công ty đầu t, đồng thời điều động nhân lực quản trị qua các dự án đầu t mới vì các
dự án cũ đà đợc phát hành ra công chúng và thông thờng có lực lợng quản lý mới.
Các thành viên tổng quát phải báo cáo thờng xuyên việc đầu t sử dụng vốn, đặc
biệt là mức lợi nhuận. Họ nhận đợc trị giá 2% đến 3% trị giá quỹ vốn đà thực góp
để sử dụng vào chi phí điều hành quỹ. Ngoài ra, theo thông lệ các nhà quản lý quỹ
(cổ đông tổng quát) đợc hởng từ 20% đến 30% lợi nhuận tăng trởng trên số vốn đÃ
đợc đầu t.

Phần lớn các thành viên tổng quát thờng tụ tập dới dạng hợp danh TNHH hay
một công ty TNHH để có thể liên tục điều hành, đàm phán, ký kết và thực hiện các
nhiệm vụ đầu t cho dù có thể có một thành viên muốn ra đi khái quü vèn.

13


Sơ đồ 1:Cơ cấu và qui trình hình thành của tổ chức quỹ vốn mạo hiểm
Thành viên tổng quát
Tổ chức nguồn vốn
Chọn lọc đầu t
Đàm phán đầu t
Giám sát t vấn
Thu hoạch đầu t
Thành lập công
ty quản trị
TNHH

Đóng góp công
sức và quản lý
quỹ vốn

Phí quản lý 23% mỗi năm

Chia 20-30%
lợi nhuận (do
tăng vốn)

Quỹ vốn mạo hiểm


Đóng góp vào
quỹ vốn

Chia 70%-80% lợi
nhuận (do tăng
vốn)

Cung cấp vốn công
sức (quản trị)

Thu nhập tài
chính









Thành viên trách nhiệm hữu hạn
Quỹ hu trí
Công ty bảo hiểm nhân thọ
Tài trợ của các tổ chức phi chính phủ
Các doanh nghiệp
Các gia đình tỷ phú
Các công ty đầu t
Các thiên thần đầu t


Các công ty quản trị
danh mục đầu t

Thành viên trách nhiệm hữu hạn (Limited Partners)
Thành viên trách nhiệm hữu hạn của các quỹ vốn mạo hiểm thờng là:
14


- Quỹ hu trí
- Công ty bảo hiểm
- Nguồn vốn tài trợ
- Doanh nghiệp lớn
- Cá nhân
- Nguồn vốn nớc ngoài
Tỉ lệ góp vốn quỹ đầu t mạo hiểm
Nớc ngoài

6%

Cá nhân

12%

Quỹ hu trí

46%

Bảo hiểm

12%


Doanh nghiệp

5%

Tài trợ

19%

Lý do chính của sự tham gia của các loại thành viên này là:
Sự đầu t lâu dài và ổn định. Phần lớn các nhà đầu t loại trên đây có thể tham gia
ổn định trong một dự án gọi vốn dài hạn.
Sự phân bổ lợi nhuận tỉ lệ theo vốn góp. Các định chế đầu t không phải thúc
bách lắm trong việc đòi hỏi lợi nhuận phân chia vào đúng ngày.
Các nhà đầu t vào quỹ vốn mạo hiểm thờng đòi hỏi có thời gian để cân nhắc tính
toán, trớc khi phát hành lần đầu ra công chúng và họ có thể đợc vào hay ra quỹ
theo thời điểm tự tính toán.
Một quan tâm lớn đối với các thành viên tổng quát là tìm đợc cổ đông có thể
tham gia lâu dài vào quỹ. Các định chế nói trên thờng có khả năng đáp ứng yêu cầu
đó
Quan tâm lớn thứ hai là khả năng góp vốn đúng thời điểm gọi vốn (capital
call).
Việc góp vốn đúng thời điểm cho phép các nhà quản trị chớp đợc thời cơ
đầu t vào các dự án tốt. Ngợc lại, đôi khi sự góp vốn trễ có thể hủy hoại uy tín và
quá trình đầu t của một nhóm thành viên quỹ vốn mạo hiểm.
15


3.2> Qui trình hình thành một quỹ vốn đầu t mạo hiểm.
Có thể nói xây dựng đợc một quỹ vốn mạo hiểm là một quá trình tốn kém

nhiều mặt. Các thành viên tổng quát thờng phải mất nhiều thì giờ, công sức và chi
phí để tiếp thị, thuyết phục các nhà đầu t tiềm năng tham gia vào quỹ, cũng nh xây
dựng niềm tin vào lợi nhuận của những đầu t và quyền đợc quản lý quỹ.
Quá trình hình thành một quỹ vốn đầu t mạo hiểm thờng trải qua các giai
đoạn nh sau:
Các thành viên tổng quát cảm nhận và phát hiện các cơ hội đầu t có tiềm năng
phát triển tốt đẹp, có mức tăng trởng nhanh và triển vọng lợi nhuận cao. Thông
thờng thì các thành viên tổng quát phải bỏ ra nhiều công sức, thời gian, chi phí,
để xây dựng hồ sơ dự án, chuẩn bị nền tảng cho triển khai dự án và phát hiện các
nguồn vốn tơng lai khả thi.
Các thành viên tự thẩm định dự án để lựa chọn sản phẩm, thị trờng, các chiến lợc
phát triển cũng nh lựa chọn hình thức tổ chức doanh nghiệp phù hợp và cách tổ
chức tiếp nhận các nguồn tài chính để đi đến quyết định thực hiện.
Xây dựng mô hình tổ chức và tính pháp lý của quỹ vốn, ví dụ công ty đầu t hay
quỹ hỗ tơng hay quỹ đầu t dạng đóng mở...
Sau bớc này các thành viên xem xét và ra quyết định về mức vốn, số lần gọi vốn
(tranches), mô hình chi tiết thể thức đầu t, cơ cấu thành phần quỹ vốn, HĐ quản trị,
HĐ điều hành. Vì phần lớn các thành viên là những định chế tài chính đầu t nên họ
trở thành những ngời tham gia xem xÐt thËn träng (nh qui tr×nh Due diligenee) các
chi tiết thành lập để góp phần bảo đảm cho thành công của quỹ.
Các thành viên ra quyết định về các chiến lợc thực hiện và chiến lợc chiếm lĩnh
thị trờng.
Lập LCKTKT hay dự án khả thi sau cïng cđa tõng dù ¸n trong q.
 Tỉ chøc huy động vốn, ấn định ngày đóng quỹ... Hợp đồng với các đối tác cung
cấp vốn.
Triển khai công việc đầu t theo kế hoạch và chiến lợc đề ra.
Hội đồng điều hành và các thành viên tổng quát theo dõi việc triển khai, quản lý
kinh doanh, giám sát các dự án, góp ý t vấn và kiểm tra định kỳ. Thu nhận các
báo cáo hoạt động và báo cáo kiểm toán.
Tiếp tục công việc điều hành cho đến khi thu hoạch.

Tất cả các chi tiết trên đều đợc đa vào hợp đồng thành lập quỹ vốn mạo hiểm.
16


3.3> Qui trình đầu t vốn mạo hiểm.
3.3.1

Giai đoạn hình thành

Thông thờng, một quỹ hình thành phải mất một số thời gian nhiều tháng.
Trong thời gian này, các thành viên tổng quát nghiên cứu và tìm kiếm dự án đầu t
và tìm các nguồn cấp vốn cho quỹ. Cũng trong giai đoạn này, thành viên tổng quát
lo tiến hành các thủ tục cam kết đầu t và cam kết đóng vốn, tiến hành các thủ tục
chuẩn bị về pháp lý cho quỹ đầu t.

Qui trình đầu t một quỹ vốn mạo hiểm
Phát triển khái niệm quỹ

Củng cố các cam kết
đầu t

Xúc tác cho thỏa thuận
vận hành

Đóng quỹ gọi vốn lần đầu
Chọn lọc
dự án đầu
t

Thẩm định và

tiến hành các
thẩm tra D.D






Thu hoạch đầu t
IPO
Thủ đắc
EBO
Thanh lý

Thơng thuyết
các thơng vụ và
các giai đoạn

Tiếp tục các
lần gọi vốn

Đầu t nguồn
vốn vào dự án

Giám sát và tạo giá trị
Hỗ trợ của HĐQT/BGĐ
Đánh giá HĐ và kiểm tra
Tuyển cán bộ quản lý
Hỗ trợ quan hệ với bên ngoài
Hỗ trợ dàn xếp bổ xung tài chính

chínhchínhchính

17

Quá trình phân phối
Tiền mặt
Cổ phiếu
Các hình thức khác


3.3.2 Giai đoạn gọi vốn

Thời kỳ đóng quỹ, gọi vốn, đặc biệt là ngày đóng quỹ có thể đợc coi là ngày
sinh nhật đầu tiên của quỹ vốn mạo hiểm. Việc đóng đầy đủ vốn theo đăng ký có
thể kéo dài hai, ba năm, vì vậy có thể xây dựng một thời biểu nhiều ngày đóng quỹ
(fund closing date). Vào ngày đóng quỹ đầu tiên, một số các nhà đầu t có mặt và đợc những quyền lợi ngang nhau căn cứ tỉ lệ góp vốn. Quyền lợi đó tiếp tục đợc duy
trì trong quá trình đóng vốn trừ khi từng thành viên quyết định thay đổi vị trí và bán
đi cổ phần của mình. Một lịch trình nhiều lần đóng quỹ cho phép nhà đầu t thấy đợc
số tiền đóng vốn đợc đầu t nh thế nào vào các danh mục đầu t và giá trị thị trờng
của của từng danh mục ở từng thời kỳ.
3.3.3 Giai đoạn đầu t

Thời kỳ đầu t vào các danh mục và dự án, các thành viên tổng quát chọn lọc,
thẩm định dự án, thơng thuyết mua cổ phần hay tham gia vốn vào các dự án. Qui
trình này xảy ra liên tục trong hai đến ba năm. Để đầu t hết vốn, các nhà quản lý
quỹ phải làm việc với hiệu năng rất cao cũng nh với chất lợng kỹ thuật đầu t cao để
đảm bảo lợi nhuận nh cam kết ban đầu. Trong quá trình này tiếp tục có những đợt
gọi vốn thêm (tranches) để đáp ứng nhu cầu đầu t.
3.3.4 Giai đoạn tăng cao giá trị.


Sau khi đà thực hiện đầu t vào các danh mục, các thành viên tổng quát tiếp tục
xây dựng bộ máy quản trị quỹ và đặt thêm quan hệ với các tổ chức tài chính, kinh
doanh để thao tác tăng thêm giá trị vốn quỹ. Phần lớn quỹ vốn mạo hiểm muốn thu
hoạch lợi nhuận sau năm năm đầu t. Vì vậy thời gian hoạt động tích cực của một
quỹ là bốn hay năm năm.
Do các dự án đợc quỹ đầu t mạo hiểm tài trợ thờng là các dự án có độ rủi ro
cao nên các nhà đầu t vốn mạo hiểm hiếm khi đầu t vào các công ty trẻ toàn bộ lợng
18


vốn đợc dự kiến, họ sẽ cung cấp vốn theo nhiều giai đoạn. Trong từng giai đoạn họ
cân nhắc lợng vốn đầu t sao cho vừa đủ để cuối giai đoạn đầu t, doanh nghiệp đủ
sức phát triển đến điểm tăng trởng tiêp theo trong chuỗi tăng trởng dự kiến của
doanh nghiệp.
Sau mỗi giai đoạn, nhà đầu t vốn mạo hiểm sẽ tính toán tỉ lệ hoàn vốn đầu t,
mức sinh lời, triển vọng kinh doanh .Nếu khả năng tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp không khả thi nhà đầu t sẽ từ chối bổ sung quỹ.
Là các nhà đầu t dài hạn, phần lớn các nhà đầu t vốn mạo hiểm không dự kiến
lÃi phát sinh trong vòng 3-7 năm đầu tiên của quá trình tài trợ. Vốn đầu t ban đầu
chỉ là sự bắt đầu mối quan hệ dài hạn giữa nhà đầu t vốn mạo hiểm và doanh nghiệp
mới. Sau giai đoạn đầu nếu doanh nghiệp tiếp tục phát triển, nhà đầu t sẽ bổ sung
vốn cho từng giai đoạn tiếp theo của quá trình kinh doanh nh: thử nghiệm thị trờng,
sản xuất thí điểm, marketing thị trờng, nghiên cứu và điều chỉnh các sai sót kỹ thuật
của sản phẩm làm tiền đề cho sản xuất qui mô và xuất khẩu chiếm lĩnh thị trờng.
Rõ ràng, việc cân nhắc thời điểm và lợng vốn cung cấp cho từng giai đoạn đòi hỏi
các nhà đầu t vốn mạo hiểm phải có trình độ và nhạy bén.
3.3.5 Giai đoạn thoát t.

Sau đó, là cơ hội thoát khỏi dự án đầu t ( exit) bằng cách phát hành lần đầu ra
công chúng (IPO) hay bán lại toàn bộ cho một tổ chức hoặc cá nhân muốn mua

toàn bộ dự án. Việc thu hoạch của nhà đầu t cá thể thể hiện bằng tiền mặt hoặc là
các cổ phiếu khả mÃi trên thị trờng vốn.
Thời gian thu hoạch thờng kéo dài 2, 3 năm. Thời gian từ khi chuẩn bị,
góp vốn, đầu t và thu hoạch của mỗi quỹ có thể khác nhau vì thời gian của các dự
án trong danh mục đầu t có thể biến thiên khác nhau. Tuy nhiên mục tiêu đầu t và
thu hoạch vẫn gói gọn trong 7 đến 10 năm là tối đa.

Cơ cấu ngành đầu t của quỹ vốn
mạo hiểm
Tiêu dùng

7%

19


III-

Dịch vụ kinh doanh

5%

Bán dẫn

1%

Máy tính

3%


Viễn thông liên lạc

22%

Công nghệ sinh học

2%

Điện tử

4%

Dụng cụ y tế

5%

Công nghệ thông tin

24%

Dợc phẩm

2%

Công nghiệp

5%

Chăm sóc sức khoẻ


11%

Môi trờng

1%

Phân phối bán lẻ

3%

Tính tất yếu của quỹ đầu t mạo hiểm trong nền kinh tế tri
thức
1. Vai trò của quỹ vốn mạo hiểm

Đà gần 50 năm nay các nhà đầu t mạo hiểm đà góp phần vào sự phát triển
của các ngành công nghiệp kỹ thuật cao của Mỹ. Rất nhiều công ty thành đạt nhất
của Mỹ đà lớn mạnh bằng sự trợ giúp của các quỹ đầu t mạo hiểm nh: Intel, Apple,
Microsoft, Fedex, Sun Microsystem, Netscape... Vai trò của quỹ đầu t mạo hiểm đợc thể hiện nh thế nào.

20



×