Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Báo cáo " Quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh" potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.46 KB, 6 trang )



nghiên cứu - trao đổi
72

Tạp chí luật học số tháng 3/2003






í mật kinh doanh là một trong những đối
tợng của quyền sở hữu trí tuệ có tuổi đời
bảo hộ pháp lí trẻ nhất ở Việt Nam, với sự ghi
nhận chính thức tại Nghị định số 54/2000/NĐ-CP
ngày 3/10/2000 của Chính phủ về bảo hộ quyền
sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh,
chỉ dẫn địa lí, tên thơng mại và bảo hộ quyền
chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan
đến sở hữu công nghiệp (sau đây gọi tắt là Nghị
định số 54/CP). Điều này nói chung không chỉ
nằm trong tiến trình Việt Nam đảm bảo khung
pháp lí về sở hữu trí tuệ để thực thi Hiệp định
thơng mại Việt - Mĩ, để thiết lập và thực hiện
các quan hệ kinh tế - thơng mại song phơng
hoặc đa phơng khác với các nớc mà còn là sự
chuẩn bị điều kiện tiên quyết để chúng ta có thể
đợc kết nạp vào Tổ chức thơng mại thế giới
WTO.
Trong điều kiện nói trên, việc nghiên cứu,


tìm hiểu những vấn đề liên quan đến sự bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh
doanh là rất cần thiết. Đây cũng là mục đích
chính của tác giả khi thực hiện bài viết này.
Đặc tính vô hình của các đối tợng sở hữu
trí tuệ đ làm cho mọi khía cạnh liên quan đến
chúng trở nên hết sức trừu tợng và phức tạp.
Với bí mật kinh doanh thì sự trừu tợng và
phức tạp này càng đợc nhân lên gấp nhiều lần.
Bởi vì, sự bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với
các đối tợng khác nh tác phẩm văn học, nghệ
thuật, khoa học; sáng chế; kiểu dáng công
nghiệp; nhn hiệu thơng mại; giống cây trồng
mới nói chung đều thể hiện sự bộc lộ công
khai của chủ sở hữu các đối tợng đó trớc x
hội và công chúng thì với bí mật kinh doanh -
đúng nh tên gọi của chúng - đ thể hiện sự lựa
chọn của chủ thể về việc họ đ quyết định
không bộc lộ, không phô bày, không yêu cầu
cơ quan có thẩm quyền cấp bằng độc quyền đối
với thông tin sáng tạo của mình. Với đặc tính
đó, bí mật kinh doanh đ thực sự và hầu nh
tuyệt đối là của riêng chủ thể, tạo lợi thế riêng
cho họ trớc tất cả các đối thủ cạnh tranh khác
trên thơng trờng. Nó đ trở thành công cụ
hữu hiệu của quá trình cạnh tranh lành mạnh,
trợ giúp đắc lực cho hoạt động kinh doanh của
chủ thể, thúc đẩy và đa dạng hoá các quan hệ
kinh doanh, thơng mại trong sự phát triển
chung của nền kinh tế quốc dân.

Theo nghĩa phổ thông, bí mật kinh doanh
có thể đợc hiểu là những thông tin gắn liền với
công việc và hoạt động kinh doanh của cá nhân
hay tổ chức, mang lại lợi ích cho họ và đợc họ
giữ kín không cho ngời khác biết. Tính chất
này của bí mật kinh doanh trùng với nhiều loại
thông tin khác cũng đợc chủ thể mong muốn
giữ bí mật, không muốn bộc lộ công khai trớc
ngời khác. Vì vậy, nhiều nớc đ xếp bí mật
thơng mại (trade secrets) vào trong lnh địa
bảo hộ khá rộng lớn của thông tin bí mật
(confidential information) song lại áp dụng một
cách có hiệu quả luật sở hữu trí tuệ để bảo vệ
chúng. Một bí mật thơng mại, bất kể đó là
cách thức chế tạo hay thành phần của một sản
phẩm, danh sách các bạn hàng hiện tại hoặc
B

* Giảng viên Khoa t pháp
Trờng đại học luật Hà Nội
** Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội
ThS. Kiều Thị Thanh *
ThS. Bùi Thị Thanh Hằng * *


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số tháng 3/2003
73

tơng lai, có thể vì lí do này hoặc lí do khác

không thể đợc xem nh là lĩnh vực bảo hộ
chính của sở hữu trí tuệ, nhng với giá trị
thơng mại đáng kể của bí mật thơng mại đối
với một công ti và tơng ứng nh vậy là đối với
đối thủ cạnh tranh của công ti đó, thì bí mật
thơng mại đ thể hiện một sự đầu t thích
đáng không chỉ bằng những nỗ lực trí tuệ và kĩ
năng sáng tạo, mà còn bởi sự đầu t về thời
gian và tiền bạc, vì vậy bí mật thơng mại hoàn
toàn có khả năng đợc bảo hộ nh một loại tài
sản trí tuệ.
(1)

Sự bảo hộ bí mật kinh doanh theo pháp luật
về quyền sở hữu trí tuệ đ dẫn đến hệ quả tất
yếu là khi nó bị xâm phạm bởi hành vi của
ngời khác, chủ sở hữu hoàn toàn có quyền
viện dẫn quy định pháp luật về quyền sở hữu trí
tuệ nói chung, quyền sở hữu công nghiệp đối
với bí mật kinh doanh nói riêng để yêu cầu toà
án bảo vệ quyền lợi chính đáng cho mình. Thực
tiễn ở Việt Nam hiện nay, phù hợp với bớc đi
ban đầu của chúng ta khi thừa nhận quyền sở
hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh,
cũng nh phù hợp với đặc thù rất riêng của bí
mật kinh doanh, quy định pháp luật về đối
tợng này chỉ chiếm vị trí pháp lí rất khiêm tốn.
Tại Nghị định số 54/CP, chỉ có 5 điều luật thực
sự quy định về bí mật kinh doanh (cụ thể là từ
Điều 6 đến Điều 9 quy định về các dấu hiệu của

bí mật kinh doanh, quyền của chủ thể bí mật
kinh doanh, nội dung và thời hạn bảo hộ bí mật
kinh doanh, sự chuyển giao quyền sở hữu đối
với bí mật kinh doanh và Điều 18 xác định các
hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
đối với bí mật kinh doanh).
Đối với việc cần phải hiểu nh thế nào là bí
mật kinh doanh, Điều 6 Nghị định số 54/CP đ
đa ra giới hạn pháp lí nh sau:
1. Bí mật kinh doanh đợc bảo hộ là
thành quả đầu t dới dạng thông tin có đủ các
điều kiện sau đây:
a. Không phải là hiểu biết thông thờng;
b. Có khả năng áp dụng trong kinh doanh và
khi đợc sử dụng sẽ tạo cho ngời nắm giữ
thông tin đó có lợi thế hơn so với ngời không
nắm giữ hoặc không sử dụng thông tin đó;
c. Đợc chủ sở hữu bảo mật bằng các biện
pháp cần thiết để thông tin đó không bị tiết lộ
và không dễ dàng tiếp cận đợc.
2. Các thông tin bí mật khác không liên
quan đến kinh doanh nh bí mật về nhân thân,
về quản lí nhà nớc, về an ninh, quốc phòng
không đợc bảo hộ dới danh nghĩa là bí mật
kinh doanh.
Với quy định trên, pháp luật mới chỉ dừng
lại ở việc đa ra một số điều kiện để xác định
một thành quả đầu t dới dạng thông tin có
đợc coi là bí mật kinh doanh hay không mà
không minh hoạ, không đa ra bất kì trờng

hợp cụ thể mang tính chuẩn mực nào của những
gì có thể đợc gọi là bí mật kinh doanh. Đây là
điều chúng ta cần bổ sung, không chỉ nhằm làm
cho văn bản pháp luật có nội dung đầy đủ hơn
mà cơ bản còn tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình áp dụng luật của các thẩm phán và cơ
quan có thẩm quyền khác trớc một đối tợng
sở hữu trí tuệ đầy tính trừu tợng và phức tạp
nh bí mật kinh doanh. Thực tiễn ở nhiều nớc,
pháp luật thờng quy định khá rõ về vấn đề
này. Chẳng hạn, theo Restatement (Third) of
Unfair Competation 1995 (tác giả xin đợc tạm
dịch là Quy định về cạnh tranh không lành
mạnh năm 1995) của Mĩ thì Một bí mật
thơng mại có thể bao gồm bất kì một công
thức, một mô hình, một quy trình, một chơng
trình thao tác, một phơng sách, một cách thức,
một phơng pháp kĩ thuật hoặc một su tập
thông tin nào mà chúng đ đợc giữ bí mật và
đợc sử dụng trong cơ sở kinh doanh của chủ
sở hữu, trên cơ sở đó đ mang lại cho chủ sở
hữu một lợi thế hơn các đối thủ cạnh tranh của
họ là những ngời không biết hoặc không sử


nghiên cứu - trao đổi
74

Tạp chí luật học số tháng 3/2003


dụng bí mật thơng mại đó.
(2)

Cần phải thừa nhận một thực tế là với tính
chất và đặc thù của bí mật kinh doanh thì rõ
ràng việc đa ra khái niệm pháp lí chuẩn xác về
nó là việc hầu nh không thể làm đợc. Pháp luật
của Mĩ cũng xác nhận điều này (nguyên văn
trong văn bản là An exact definition of a trade
secret is not possible). Tuy nhiên, họ đ đa ra 6
yếu tố để căn cứ vào đó ngời ta có thể xem xét
thông tin của một ngời có đợc xác định là bí
mật thơng mại hay không. Các yếu tố này là:
(3)

1. Phạm vi những ngời biết đợc thông tin
đó bên ngoài cơ sở kinh doanh của ngời nắm
giữ thông tin;
2. Phạm vi những ngời làm công và những
ngời khác trong cơ sở kinh doanh của ngời
nắm giữ thông tin biết đợc về thông tin đó;
3. Toàn bộ các biện pháp, cách thức mà
ngời nắm giữ thông tin đ thực hiện để giữ gìn
bí mật thông tin đó;
4. Giá trị của thông tin đó đối với ngời
nắm giữ thông tin và đối với đối thủ cạnh tranh
của ngời đó;
5. Tổng lợng cố gắng, nỗ lực hoặc tiền bạc
của ngời giữ thông tin trong quá trình tạo ra và
phát triển thông tin đó;

6. Tính chất dễ dàng hoặc khó khăn để
thông tin có thể có đợc một cách đúng đắn,
hợp lí đối với ngời khác (tức là ngoài ngời
nắm giữ thông tin đó).
Trở lại quy định của pháp luật Việt Nam,
theo đó, để đợc công nhận là bí mật kinh doanh,
chủ thể kinh doanh phải đảm bảo thoả mn 3 điều
kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Nghị định
số 54/CP nh đ đợc trích dẫn. Ba điều kiện
này cần đợc hiểu nh thế nào?
Xuất phát từ mục đích cơ bản và chung
nhất của việc bảo hộ quyền sở hữu đối với bí
mật kinh doanh là gắn với lợi ích thơng mại
của chủ thể kinh doanh khi họ nắm giữ những
thông tin bí mật nhất định, tạo lợi thế riêng cho
họ trong quá trình kinh doanh, trong sự cạnh
tranh lành mạnh với các chủ thể kinh doanh
khác thì điều kiện đầu tiên để thành quả đầu t
dới dạng thông tin đợc coi là bí mật kinh doanh
phải không phải là hiểu biết thông thờng. Theo
đó, chúng không thể là những kiến thức, tri thức
mà nhiều ngời khác đ biết hoặc có đợc một
cách dễ dàng. Chúng cũng không thể là thông
tin đ đợc biết đến một cách rộng ri hoặc dễ
dàng phát hiện, nắm giữ mà không có sự đầu t
về tài chính hoặc trí tuệ. Bởi vì, khi đó tính chất
bí mật của thông tin cũng không còn hoặc
không đợc đảm bảo. Hơn nữa, thông tin có
đợc không do đầu t cũng thờng ít có giá trị,
khó mang lại lợi thế cho ngời chiếm giữ và sử

dụng chúng.
Hơn thế nữa, bí mật kinh doanh không thể
chỉ thoả mn điều kiện không phải là hiểu biết
thông thờng, chúng còn phải có khả năng sử
dụng trong kinh doanh để tạo cho ngời nắm
giữ thông tin lợi thế hơn so với ngời không
nắm giữ hoặc không sử dụng thông tin đó. Điều
này xuất phát từ đặc điểm của bí mật kinh
doanh thờng là thông tin đợc tạo ra trên cơ sở
có sự đầu t nhất định của chủ sở hữu, với
mong muốn việc nắm giữ và sử dụng chúng sẽ
mang lại lợi ích và hiệu quả kinh tế nhất định
cho họ, giúp họ dễ dàng hơn trong quá trình
cạnh tranh với các đối thủ khác.
Trên cơ sở chủ sở hữu đ nắm giữ và sử
dụng thông tin bí mật đáp ứng yêu cầu không
phải là hiểu biết thông thờng, có khả năng sử
dụng trong kinh doanh tạo lợi thế riêng cho họ
trong quá trình cạnh tranh với các chủ thể khác,
luật đồng thời quy định điều kiện thứ ba để xác
định thông tin của chủ thể có phải là bí mật
kinh doanh hay không. Đó là việc chủ sở hữu
thông tin đ áp dụng các biện pháp cần thiết để
bảo mật thông tin của mình nh thế nào. Rõ
ràng, cho dù việc sử dụng thông tin sáng tạo
riêng nào đó thực sự mang lại lợi ích rất lớn cho
chủ sở hữu nhng họ lại đ trả lời phỏng vấn
trớc báo chí, đ cung cấp hoặc bán thông tin



nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số tháng 3/2003
75

cho nhiều ngời khác, đ tạo điều kiện để nhiều
ngời khác có thể dễ dàng biết về thông tin thì
họ khó có thể chứng minh trên thực tế ngời
nào đó đ xâm phạm bí mật kinh doanh của
mình để yêu cầu bồi thờng. Bởi vì, khi đó
thông tin không còn đợc coi là bí mật nữa.
Tuy nhiên, do lợi thế của việc nắm giữ thông
tin bí mật này, thông thờng chủ sở hữu cũng
đ tự bảo vệ thông tin của mình bằng nhiều
cách thức có thể, đảm bảo thông tin không bị rò
rỉ, không dễ dàng tiếp cận đợc nh không tiết
lộ thông tin cho ngời khác biết, gửi tài liệu
chứa đựng thông tin ở ngân hàng Đây cũng là
điều kiện nói lên tính chất mật của bí mật kinh
doanh. Kết hợp với hai điều kiện ban đầu chúng
đ làm cho thành quả đầu t dới dạng thông
tin của chủ thể trở thành bí mật kinh doanh và
đợc bảo hộ theo quy định của pháp luật Việt
Nam về bí mật kinh doanh.
Tuy nhiên, cũng cần lu ý rằng sự giữ kín
bí mật kinh doanh bằng những biện pháp, cách
thức cần thiết không bao hàm nghĩa chủ sở hữu
không đợc tiết lộ thông tin của mình cho bất
kì ai. Họ vẫn có thể, theo ý chí của mình, tiết lộ
hoặc cho phép ngời khác sử dụng thông tin
kèm theo hoặc không kèm theo những điều

kiện nhất định. Vấn đề là họ cần nhận thức
đợc rằng việc làm đó sẽ đồng hành với việc
làm cho tính chất và phạm vi bí mật của thông
tin của họ đ bị thu hẹp, thậm chí có thể làm
mất đi tính chất mật của thông tin. Bởi vì, xét
đến cùng thì đó cũng là biện pháp bảo mật mà
chủ sở hữu thông tin đ áp dụng cho chính bản
thân mình.
Các điều kiện trên của bí mật kinh doanh sẽ
trở nên dễ hiểu hơn, dễ đợc chấp nhận hơn nếu
chúng ta biết rằng ở một số nớc, để tìm hiểu
về bí mật thơng mại, ngời ta đ sẵn sàng đặt
ngang bằng sự bảo hộ sáng chế (inventions)
theo cơ chế cấp văn bằng độc quyền (patents)
với sự bảo hộ bí mật thơng mại (trade secrets).
Thực tế là ở đất nớc họ có nhiều bí mật thơng
mại trong lĩnh vực kĩ thuật hoàn toàn có khả
năng đợc bảo hộ là sáng chế nhng chủ thể đ
lựa chọn cách thức giữ bí mật sáng tạo của
mình và viện dẫn luật bí mật thơng mại để bảo
vệ chúng khi chúng bị ngời khác xâm phạm
mà không cần viện dẫn luật sáng chế (đợc coi
là một trong số ít lĩnh vực sở hữu trí tuệ quan
trọng nhất), không yêu cầu đăng kí bảo hộ độc
quyền sáng chế, cũng không lo sợ bí mật của
mình có thể bị đánh cắp, bị ngời khác tiếp cận
và nắm giữ bất hợp pháp. Điều đặc biệt này chỉ
có thể đợc lí giải khi ngời ta thấy đợc điểm
khác biệt quan trọng nhất giữa sự bảo hộ sáng
chế và sự bảo hộ bí mật thơng mại. Theo đó,

mục tiêu chung của luật sáng chế là nhằm
khuyến khích sáng tạo và bộc lộ các sáng tạo
bằng việc dành cho ngời đợc cấp bằng sáng
chế sự độc quyền sở hữu và sử dụng sáng chế
trớc tất cả những ngời khác trong thời hạn
nhất định (khi thời hạn này kết thúc, sáng chế
trở thành tài sản chung của x hội). Đổi lại việc
đợc bảo hộ độc quyền trong thời hạn tơng
đối lâu dài (hầu hết luật các nớc đều quy định
thời hạn này là 20 năm) thì chủ sở hữu phải
công khai sáng tạo của mình, phải tiết lộ thông
tin về sáng chế của mình trong những trờng
hợp đợc luật chỉ dẫn mặc dù ngời sở hữu có
các độc quyền đối với sáng chế của họ, tuy
nhiên họ lại không đợc quyền giữ kín thông tin
về các sáng chế đó. Luật pháp của hầu hết các
nớc đều yêu cầu ngời nộp đơn xin cấp bằng
độc quyền sáng chế phải công bố những thông
tin về sản phẩm hoặc quá trình đợc cấp bằng
cũng nh phải tạo điều kiện cho những ngời
có khả năng kĩ thuật hiểu và sử dụng thông tin
này để nghiên cứu thêm hoặc ứng dụng công
nghệ sau khi sáng chế hết thời hạn độc quyền.
Bất kì ngời nào quan tâm cũng có thể thu thập
đợc những thông tin nh vậy từ văn phòng cấp
patent, sau khi đ trả các chi phí cần thiết.
(4)




nghiên cứu - trao đổi
76

Tạp chí luật học số tháng 3/2003

Ngợc lại với đặc điểm trên của bảo hộ
sáng chế, bí mật thơng mại đợc bảo hộ lại
nằm trong chính sự bí mật với các cách thức giữ
kín, bảo mật của chủ thể, làm cho chúng không
bị bộc lộ công khai trớc ngời khác. Vì thế,
tuy mục tiêu của sự bảo hộ bí mật thơng mại
tơng đồng với mục tiêu bảo hộ sáng chế ở chỗ
chúng có tính chất khuyến khích hoạt động
sáng tạo nhng chúng vợt ra ngoài và mở rộng
hơn so với bảo hộ sáng chế ở điểm chúng đảm
bảo cho thông tin sáng tạo của chủ thể không
trở thành tri thức công cộng chung, cho tới
chừng nào thông tin đó còn đảm bảo các yêu
cầu luật định để xác định đó là bí mật thơng
mại. Sự khác biệt này thực ra do bản chất của
sự bảo hộ sáng chế và bí mật thơng mại (phù
hợp với đặc thù của từng đối tợng) quyết định.
Cụ thể, nếu nh sự bảo hộ độc quyền sáng
chế mang tính chất hành chính, chủ yếu dựa
vào quyền lực nhà nớc và có tính đối lu hai
chiều: không chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi của
chủ sở hữu mà còn gắn với mục tiêu phát triển
công nghệ chung của toàn x hội Nhà nớc
bảo đảm cho chủ sở hữu độc quyền sở hữu và
công khai sử dụng sáng chế trong một thời hạn

nhất định để đổi lấy việc chủ sở hữu không
đợc quyền giữ bí mật thông tin về sáng chế và
những ngời khác vẫn có thể tiếp cận, nghiên
cứu sáng chế, từ đó tiếp tục cải tiến, phát triển
và đổi mới công nghệ trong lĩnh vực tơng ứng
thì sự bảo hộ bí mật thơng mại chủ yếu mang
tính chất dân sự, với những biện pháp bảo mật
do chính chủ sở hữu tự mình tiến hành, sao cho
bí mật thơng mại không thể bị tiết lộ dẫn đến
giảm lợi thế kinh doanh của họ trớc các đối
thủ cạnh tranh khác. Khi thực tế xuất hiện hành
vi tiếp cận, nắm giữ thông tin về bí mật thơng
mại một cách không lành mạnh hoặc bất hợp
pháp, chủ sở hữu có quyền viện dẫn Luật bí mật
thơng mại để yêu cầu bồi thờng.
Từ luận điểm trên có thể dễ dàng thấy điểm
quan trọng nhất trong sự bảo hộ bí mật thơng
mại, không đơn giản chỉ nhằm khuyến khích
sáng tạo, giữ gìn bí mật sáng tạo mà cơ bản hơn
là nhằm duy trì, gìn giữ những tiêu chuẩn nhất
định về những giá trị đạo đức trong kinh doanh,
trong hoạt động thơng mại. Nội dung này chính
là cơ sở hình thành của quan điểm lí thuyết và
thực tiễn về sự bộc lộ hoặc sử dụng bất hợp pháp
bí mật thơng mại (misappropreations of trade
secrets - tác giả xin đợc tạm dịch là sự biển
thủ bí mật thơng mại) luôn đợc các toà án ở
Mĩ và một số nớc khác áp dụng. Theo đó,
ngời ta sẽ buộc một ngời phải chịu trách
nhiệm về sự biển thủ này khi bí mật thơng mại

đợc tiết lộ hoặc sử dụng theo một trong ba
trờng hợp sau đây:
(5)

- Ngời đó đ nắm giữ bí mật thơng mại
bởi những cách thức không chính đáng nh lấy
cắp, lừa gạt, mạo nhận, đấu trộm điện thoại để
nghe lén, xâm nhập bất hợp pháp để có đợc bí
mật đó
- Ngời đó đ nắm giữ bí mật thơng mại
từ một ngời thứ ba mà ngời thứ ba đó biết
hoặc phải biết bí mật này có đợc là bằng cách
thức không phù hợp. Chẳng hạn, một tình báo
công nghiệp tự do đ bằng những cách thức bất
hợp pháp để có đợc bí mật thơng mại của
một công ti và sau đó đ bán bí mật này cho đối
thủ cạnh tranh của công ti đó.
- Ngời đó đ nắm giữ bí mật thơng mại
trên cơ sở vi phạm một nghĩa vụ bảo mật liên
quan đến bí mật đó. Ví dụ, ngời làm công của
một chủ sở hữu bí mật thơng mại là ngời bị
ràng buộc không đợc phép bộc lộ và sử dụng
bí mật đó trong suốt quá trình làm công và cả
sau này (khi không còn làm công) nhng đ vi
phạm nghĩa vụ đó.
Các trờng hợp trên cùng với quy định của
Luật bí mật thơng mại, Luật chống cạnh tranh
không lành mạnh đ đợc vận dụng tơng đối
thành công trong nhiều vụ kiện yêu cầu bồi
thờng do xâm phạm bí mật thơng mại ở Mĩ.

Năm 1987, toà án Mĩ đ thụ lí vụ kiện khá nổi


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số tháng 3/2003
77

tiếng giữa Tony Mason và Jack Daniel
Distillery trong lĩnh vực này.
(6)
Xin đợc tóm
tắt vụ kiện nh sau:
Tony Mason là chủ nhà hàng đ sáng tạo ra
công thức pha chế một thứ đồ uống hỗn hợp
đợc đặt tên là Lynchburg Lemonade với thành
phần bao gồm rợu whiskey mà ông ta đ mua
của Jack Daniel Distillery - loại dịch chất
mang tên Triple Sec - hỗn hợp nớc có vị ngọt,
chua và 7-Up (loại nớc giải khát có ga mang
nhn hiệu Seven up vẫn đợc sản xuất và bán ở
Việt Nam). Loại nớc giải khát hỗn hợp này
(có tác dụng bảo vệ thanh quản rất tốt) đợc
Mason bán tại các quầy hàng của mình và đ
trở nên rất đợc a chuộng. Sau đó một thời
gian, Winston Randle - đại diện kinh doanh của
Jack Daniel, do nhiều lần đến uống Lynchburg
Lemonade tại nhà hàng của Mason, đ tìm hiểu
đợc công thức pha chế ra nó và đ thông tin
cho ông chủ của mình. Khoảng một năm sau,
Jack Daniel đ phát triển cuộc vận động trên

quy mô quốc gia về loại đồ uống này.
Mason đ kiện Jack Daniel và Randle về sự
biển thủ bí mật thơng mại bởi ông ta không
nhận đợc bất kì khoản tiền đền bù nào đối với
việc sử dụng Lynchburg Lemonade từ phía các bị
đơn. Các thẩm phán ở hai cấp toà án sơ thẩm và
phúc thẩm của Mĩ (do các bị đơn chống án) đ
vận dụng các đạo luật về chống cạnh tranh
không lành mạnh (Law of Unfair Competition),
về bí mật thơng mại (Uniform Trade Secrets
Act) cùng với các quan điểm về sự biển thủ bí
mật thơng mại để xử vụ kiện này. Họ đ thấy
thực tế là Tony Mason đ có những nỗ lực
trong việc sử dụng thời gian và tiền bạc để tạo
ra công thức pha chế Lynchburg Lemonade.
Ông ta đ tạo nên mặt hàng riêng cho mình là
một thứ đồ uống hỗn hợp, không chỉ có tác
dụng giải khát mà còn có tác dụng chữa bệnh
đợc khách hàng rất a chuộng. Mason cũng đ
có quá trình rất cố gắng để làm cho loại đồ
uống này trở nên rất đặc biệt, chỉ đợc bán
riêng ở các quầy hàng thuộc nhà hàng của ông
ta (cho tới thời điểm vụ kiện xảy ra, không
khách hàng nào có thể yêu cầu một li
Lynchburg Lemonade ở bất kì nhà hàng nào
khác ngoài cơ sở kinh doanh của Mason).
Mason cũng đ chứng minh đợc loại đồ uống
này đ mang lại lợi nhuận rất lớn, nó chiếm tới
1/3 trên tổng số doanh thu của việc bán các loại
rợu bia ở nhà hàng của ông ta và nh vậy, nó

cũng trở nên có giá trị đối với các đối thủ cạnh
tranh khác trong cùng lĩnh vực kinh doanh.
Đồng thời, Mason cũng đ đợc kiểm chứng để
xác nhận rằng ông ta chỉ nói với một số ngời
làm công ở nhà hàng của ông ta về công thức
pha chế Lynchburg Lemonade và đ đặc biệt
hớng dẫn họ về việc không đợc để lộ công
thức này cho bất kì ngời nào khác. Ngoài ra,
để đảm bảo cho việc khách hàng không thể biết
đợc công thức đó, ở nhà hàng của Mason,
Lynchburg Lemonade luôn đợc tiến hành pha
trộn từ phía sau, sau đó mới mang ra theo yêu
cầu của khách hàng. Mason đ rất thành công
trong việc giữ bí mật công thức pha chế này cho
đến khi nó bị Randle phát hiện ra.
(Xem tiếp trang 91)

(1).Xem: Intellectual Property Law. Paul Marett.
Sweet and Maxwell. London 1996, tr.138.
(2).Xem: Business Law and the Regulatory
Environment - Jane P. Mallor, A. James Barnes,
Thomas Bowers, Michael J. Phillips, ArlenW.
Langvadt - McGraw-Hill. USA 1998, tr.160.
(3).Xem: Business Law and the Regulatory
Environment. Sđd, tr.162.
(4).Xem: Hớng dẫn doanh nghiệp về hệ thống thơng
mại thế giới. Trung tâm thơng mại quốc tế và Ban th
kí Khối thịnh vợng chung, Nxb. Chính trị quốc gia.
Hà Nội 2001, tr.309 và 310.
(5).Xem: Business Law and the Regulatory

Environment. Sđd, tr.162.
(6).Xem: Business Law and the Regulatory
Environment. Sđd, tr.161 và 162.

×