Hoàn thiện pháp luật về bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp đối với
bí mật kinh doanh
Bí mật kinh doanh là một loại tài sản trí tuệ rất có giá trị vì nó tạo
ra lợi thế riêng của chủ sở hữu BMKD so với các đối thủ cạnh
tranh khác.
Bí mật kinh doanh (BMKD) là một loại tài sản trí tuệ rất có giá
trị vì nó tạo ra lợi thế riêng của chủ sở hữu BMKD so với các đối
thủ cạnh tranh khác. Theo Điều 39 của Hiệp định TRIPs (Hiệp
định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở
hữu trí tuệ - SHTT), việc bảo hộ quyền SHTT đối với thông tin bí
mật (TTBM) là nghĩa vụ pháp lý bắt buộc đối với các quốc gia
thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới nhằm tạo dựng và
phát triển các quan hệ thương mại lành mạnh và bình đẳng. ở
nước ta, việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (SHCN) đối với
BMKD được ghi nhận tại Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Sở hữu
trí tuệ (Luật SHTT) và một số văn bản hướng dẫn thực hiện Luật
SHTT. Tuy nhiên, so với quy định của các điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên cũng như pháp luật của nhiều nước trên
thế giới, pháp luật nước ta về bảo hộ BMKD vẫn chưa đầy đủ,
đang bộc lộ những hạn chế nhất định cần tiếp tục hoàn thiện.
1. Thực trạng pháp luật về bảo hộ bí mật kinh doanh
Theo quy định của các văn bản pháp luật hiện hành, việc bảo hộ
quyền SHCN đối với BMKD tập trung vào một số nội dung cơ
bản sau:
1.1. Phạm vi và điều kiện bảo hộ
Phạm vi bảo hộ
Tại Việt Nam, BMKD là đối tượng của quyền SHCN được pháp
luật bảo hộ theo Khoản 1, Điều 750 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Theo đó, BMKD là “thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài
chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong
kinh doanh” (Khoản 23, Điều 4 Luật SHTT). Tuy nhiên, không
phải bất cứ TTBM nào cũng được bảo hộ. Điều 85 của Luật
SHTT đưa ra danh mục các loại thông tin không được bảo hộ với
danh nghĩa BMKD bao gồm: “1. Bí mật về nhân thân; 2. Bí mật
về quản lý nhà nước; 3. Bí mật về quốc phòng, an ninh; 4. Thông
tin bí mật khác không liên quan đến kinh doanh”.
Như vậy, trong pháp luật Việt Nam đã có khái niệm BMKD; tuy
nhiên, khái niệm này vẫn còn chung chung, chưa làm rõ phạm vi
các thông tin được bảo hộ. Điều này dẫn đến nhiều cách hiểu
khác nhau. Có quan điểm cho rằng, BMKD đơn thuần là các
thông tin về các hoạt động kinh doanh của các chủ thể. Quan
điểm khác lại xác định BMKD bao gồm cả các thông tin về khoa
học kỹ thuật, thông tin về các hoạt động kinh doanh của chủ
thể… Khác với Việt Nam, pháp luật các nước thường quy định
tương đối rõ ràng về vấn đề này. Ví dụ: theo Khoản 4, Điều 1,
Luật Bí mật thương mại hợp nhất của Mỹ năm 1979 (1), khái
niệm “bí mật thương mại” đã được giải thích tương đối cụ thể,
thuận lợi cho việc áp dụng trên thực tế: “Bí mật thương mại là
các thông tin bao gồm công thức, mẫu hình, sưu tập các thông
tin, chương trình, phương sách, biện pháp, công nghệ hoặc quy
trình”.
Điều kiện bảo hộ đối với bí mật kinh doanh
Quyền SHCN đối với BMKD phát sinh khi BMKD đáp ứng được
các điều kiện do pháp luật quy định. Vì vậy, việc xác định các
điều kiện bảo hộ đối với BMKD là rất quan trọng. Theo quy định
của Điều 84 Luật SHTT, BMKD sẽ được bảo hộ khi đáp ứng các
điều kiện sau: không phải là hiểu biết thông thường và không dễ
dàng có được; khi được sử dụng trong kinh doanh sẽ tạo cho
người nắm giữ lợi thế so với người không nắm giữ hoặc không sử
dụng BMKD đó; được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp
cần thiết để BMKD đó không bị bộc lộ và không dễ dàng tiếp cận
được.
Ngoài ra, theo tinh thần của Điều 8 Luật SHTT, thì các BMKD
trái với đạo đức xã hội, xâm phạm tới lợi ích của Nhà nước, lợi
ích công cộng, có hại cho quốc phòng, an ninh sẽ không được
pháp luật Việt Nam bảo hộ.
Về cơ bản, các điều kiện bảo hộ theo quy định của pháp luật nước
ta đã thể hiện được ba đặc điểm chính của BMKD là: tính bí mật;
có giá trị; và được chủ sở hữu bảo mật. Tuy nhiên, so sánh với
quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, chúng
ta thấy có một số điểm khác biệt như:
- Theo Điều 39 của Hiệp định TRIPs, một trong các điều kiện
quan trọng để TTBM được bảo hộ là phải có giá trị thương mại
(commercial value). Cụ thể, Khoản 2, Điều 39 Hiệp định TRIPs
quy định thông tin được bảo hộ phải đáp ứng các điều kiện: “có
tính chất bí mật nghĩa là các thông tin đó không phổ biến hoặc
không dễ dàng tiếp cận thông tin đó dưới dạng thông tin toàn bộ,
tức là dưới dạng ghép nối theo trật tự chính xác mọi chi tiết của
thông tin đó đối với những người thường xuyên giải quyết với
các loại thông tin như vậy; có giá trị thương mại vì nó có tính
chất bí mật, và được người kiểm soát hợp pháp thông tin đó giữ
bí mật bằng các biện pháp hợp lý”.
Điều 9, Chương 2 Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
cũng quy định tương tự. Như vậy, pháp luật Việt Nam chưa thể
hiện đầy đủ nội dung này. Trên thực tế, giá trị thương mại của
TTBM được tạo ra bởi nhiều yếu tố, trong đó “lợi thế” mà TTBM
mang lại cho người nắm giữ nó chỉ là một trong các yếu tố quan
trọng làm nên giá trị thương mại của thông tin.
- Cũng theo Khoản 2, Điều 39 của Hiệp định TRIPs, thông tin
được bảo hộ khi “không phổ biến, không dễ dàng tiếp cận” không
phải là đối với mọi chủ thể mà chỉ đối với “những người thường
xuyên giải quyết đối với các loại thông tin như vậy”. Điều này có
nghĩa, ngay cả những người thường xuyên tiếp xúc, xử lý thông
tin đó, thì đối với họ, những thông tin như vậy vẫn là loại thông
tin không phổ biến, hay có thể gọi là thông tin “hiếm”. Quy định
trên của Hiệp định TRIPs có ý nghĩa quan trọng trong việc ngăn
cản việc bảo hộ quá rộng đối với các loại thông tin khác tồn tại
trên thực tế. Tuy nhiên, nội dung này của Hiệp định TRIPs lại
chưa được pháp luật Việt Nam thể chế hóa đầy đủ, rõ ràng.
Ngoài ra, pháp luật nước ta cũng chưa nêu cụ thể các biện pháp
bảo mật mà chủ sở hữu BMKD được quyền áp dụng; những tiêu
chuẩn để xác định những lợi thế mà BMKD mang lại cho chủ sở
hữu dẫn đến việc xác định BMKD được bảo hộ trên thực tế gặp
rất nhiều khó khăn.
1.2. Thời điểm làm phát sinh, chấm dứt quyền sở hữu công
nghiệp đối với bí mật kinh doanh
Khác với các đối tượng khác của quyền SHCN, quyền SHCN đối
với BMKD của các chủ sở hữu không được xác lập thông qua
hình thức cấp văn bằng bảo hộ mà được bảo hộ “tự động”. Có
nghĩa là quyền SHCN đối với BMKD sẽ phát sinh khi đáp ứng
đầy đủ các quy định của pháp luật mà không cần thông qua bất
cứ một thủ tục đăng ký nào. “Quyền SHCN đối với BMKD được
xác lập trên cơ sở có được một cách hợp pháp BMKD và thực
hiện việc bảo mật BMKD đó” (điểm c, Khoản 3, Điều 6 Luật
SHTT). Điều này hoàn toàn phù hợp với tính chất đặc thù của
BMKD cũng như các quy định của các điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên. Tuy nhiên, thời điểm chấm dứt quyền SHCN
đối với BMKD lại chưa được pháp luật Việt Nam đề cập tới dẫn
đến nhiều khó khăn cho việc giải quyết các tranh chấp, khiếu*
kiện liên quan đến BMKD.
1.3. Quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu bí mật kinh doanh
Quyền của chủ sở hữu bí mật kinh doanh
Theo Điều 123 Luật SHTT, chủ sở hữu BMKD có các quyền:
Thứ nhất, sử dụng, cho phép người khác sử dụng BMKD. Được
coi là “sử dụng” BMKD khi chủ thể thực hiện một trong các hành
vi được quy định tại Điều 124 Luật SHTT, bao gồm: áp dụng
BMKD để sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ, thương mại
hàng hoá; bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu sản
phẩm được sản xuất do áp dụng BMKD;
Thứ hai, ngăn cấm người khác sử dụng BMKD. Chủ sở hữu
BMKD không có quyền ngăn cấm người khác thực hiện các hành
vi sau (Khoản 3, Điều 125 Luật SHTT):
- Bộc lộ, sử dụng BMKD thu được khi không biết và không có
nghĩa vụ phải biết BMKD đó do người khác thu được một cách
bất hợp pháp;
- Bộc lộ dữ liệu bí mật nhằm bảo vệ công chúng. Đây là trường
hợp bộc lộ các kết quả thử nghiệm hoặc các dữ liệu liên quan đến
việc lưu hành các dược phẩm, các nông hoá phẩm đã được quy
định cụ thể tại Điều 128 Luật SHTT.
- Sử dụng dữ liệu bí mật liên quan đến các loại dược phẩm, nông
hoá phẩm không nhằm mục đích thương mại;
- Bộc lộ, sử dụng BMKD được tạo ra một cách độc lập. Trong
trường hợp này người tạo ra BMKD phải chứng minh được tính
“độc lập” trong việc đã tạo ra BMKD mà người đó sử dụng.
- Bộc lộ, sử dụng BMKD được tạo ra do phân tích, đánh giá sản
phẩm được phân phối hợp pháp với điều kiện người phân tích,
đánh giá không có thoả thuận khác với chủ sở hữu BMKD hoặc
người bán hàng.
Thứ ba, định đoạt BMKD.
Nghĩa vụ của chủ sở hữu bí mật kinh doanh
Nghĩa vụ quan trọng nhất chủ sở hữu BMKD theo quy định của
pháp luật Việt Nam là phải cung cấp các kết quả thử nghiệm hoặc
bất kỳ dữ liệu nào khác là BMKD cho cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. “Trong trường hợp pháp luật có quy định, người nộp đơn
xin cấp phép kinh doanh, lưu hành dược phẩm, nông hoá phẩm
phải cung cấp kết quả thử nghiệm hoặc bất kỳ dữ liệu nào khác là
BMKD” (Khoản 1, Điều 128 Luật SHTT). Trong trường hợp
này, người phải cung cấp các kết quả thử nghiệm hoặc bất kỳ dữ
liệu mật nào khác có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền thực
hiện các biện pháp cần thiết để giữ bí mật các thông tin đó “để
các dữ liệu đó không bị sử dụng nhằm mục đích thương mại
không lành mạnh và không bị bộc lộ”. Tuy nhiên, các cơ quan có
thẩm quyền sẽ không phải thực hiện nghĩa vụ trên, nếu “việc bộc
lộ là cần thiết để bảo vệ công chúng”.
Như vậy, so với các quy định của Hiệp định TRIPs, quyền và
nghĩa vụ của chủ sở hữu BMKD đã được pháp luật Việt Nam quy
định tương đối cụ thể. Điều này tạo điều kiện thuận lợi để các chủ
sở hữu sử dụng và khai thác hiệu quả BMKD của mình. Tuy
nhiên, bên cạnh những ưu điểm, vẫn có một số điểm không rõ,
chưa đầy đủ, như:
- Trong các quyền của chủ sở hữu BMKD, pháp luật Việt Nam
chưa đề cập tới quyền được ngăn chặn các chủ thể khác bộc lộ
bất hợp pháp BMKD của mình. Trong khi đó, đây là một trong
những quyền thể hiện tính đặc thù của việc bảo hộ đối với
BMKD đã được Hiệp định TRIPs và pháp luật các nước quy định
rất cụ thể;
- Các quy định về sử dụng BMKD chưa khái quát được tất cả các
hành vi sử dụng BMKD trên thực tế;
- Về chuyển giao quyền SHCN đối với BMKD, pháp luật Việt
Nam đã không quy định cụ thể về nghĩa vụ phải giữ bí mật
BMKD đối với Bên chuyển giao quyền và Bên được chuyển
giao. Mặt khác, pháp luật cũng chưa làm rõ việc Bên nhận được
chuyển giao quyền sử dụng BMKD có được tiếp tục sử dụng
BMKD đó sau khi hợp đồng chuyển giao hết hiệu lực?
- Pháp luật lao động Việt Nam chưa đề cập đến quyền và nghĩa
vụ của người lao động và người sử dụng lao động đối với việc
quản lý, bộc lộ, khai thác sử dụng BMKD. Nếu công việc của
người lao động được phép tiếp cận đối với BMKD, thì họ có
nghĩa vụ phải giữ bí mật hay không và nghĩa vụ đó tồn tại tới khi
nào? Điều khoản giữ bí mật đối với BMKD có là điều khoản bắt
buộc của hợp đồng lao động? Sau khi chấm dứt hợp đồng lao
động, người lao động có được quyền sử dụng hoặc phát triển
BMKD của người sử dụng lao động?
1.4. Về hành vi vi phạm bí mật kinh doanh
Theo Khoản 1, éiều 127 Luật SHTT, hành vi vi phạm BMKD bao
gồm các hành vi sau:
a) Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc BMKD bằng cách chống lại
các biện pháp bảo mật của người kiểm soát hợp pháp BMKD đó.
Người kiểm soát BMKD trong trường hợp này bao gồm chủ sở
hữu BMKD, người được chuyển giao hợp pháp quyền sử dụng
BMKD;
b) Bộc lộ, sử dụng thông tin thuộc BMKD mà không được phép
của chủ sở hữu BMKD đó (loại trừ các trường hợp ngoại lệ đã
được nêu tại Khoản 3, Điều 125 Luật SHTT)
c) Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, xui khiến, mua
chuộc, ép buộc, dụ dỗ, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ
bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập hoặc làm bộc lộ BMKD;
d) Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc BMKD của người nộp đơn
theo thủ tục xin cấp phép kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm
bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan có thẩm
quyền;
đ) Sử dụng, bộc lộ BMKD dù đã biết hoặc có nghĩa vụ phải biết
BMKD đó do người khác thu được có liên quan đến một trong
các hành vi vi phạm BMKD đã được pháp luật quy định;
e) Không thực hiện nghĩa vụ bảo mật đối với các cơ sở dữ liệu,
kết quả thử nghiệm theo quy định của pháp luật.
Việc quy định cụ thể các hành vi vi phạm BMKD được xem là
một trong những bước tiến quan trọng của pháp luật Việt Nam
trong thời gian gần đây. Nó có ý nghĩa thiết thực trong việc xác
định chính xác và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm BMKD, bảo
đảm quyền lợi hợp pháp cho chủ sở hữu BMKD. Tuy nhiên, so
với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, chúng ta có thể
nhận thấy vẫn còn một số điểm cần bàn, như:
- Pháp luật Việt Nam chưa làm rõ trách nhiệm pháp lý của Bên
thứ ba. Bên thứ ba trong trường hợp này phải được hiểu là bên
không có quyền chiếm giữ, sử dụng cũng như nghĩa vụ bảo mật
BMKD cho chủ sở hữu nhưng lại có được BMKD từ các hành vi
không trung thực như xúi giục, lôi kéo người khác tiết lộ BMKD
của chủ sở hữu cho họ. Khi xem xét trách nhiệm của Bên thứ ba
để xác định có hay không hành vi vi phạm BMKD, thì một vấn
đề được đặt ra làm thế nào để xác định được trường hợp bên thứ
ba “biết hoặc có nghĩa vụ phải biết” về việc BMKD đó là được
tiếp nhận một cách bất hợp pháp? Pháp luật Việt Nam chưa có
giải thích cũng như quy định các căn cứ cụ thể. Mặt khác, Điều
130 của Luật SHTT có đề cập đến hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực SHTT; nhưng việc Bên thứ ba xâm phạm
BMKD của chủ sở hữu hoặc của người kiểm soát BMKD lại
không có trong nội dung của Điều luật. Điều đó là chưa phù hợp
với quy định của Hiệp định TRIPs, bởi mục đích trước tiên trong
việc bảo hộ quyền SHTT đối với TTBM theo quy định của Hiệp
định này là tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể: “để
đảm bảo việc chống cạnh tranh không lành mạnh một cách hữu
hiệu các nước thành viên phải có nghĩa vụ bảo hộ TTBM”
(Khoản 1, Điều 39 Hiệp định TRIPs);.
- Các hành vi vi phạm BMKD trong lĩnh vực quan hệ lao động,
trong lĩnh vực chuyển giao quyền SHTT đối với BMKD cũng
chưa được pháp luật Việt Nam đề cập tới.
2. Các giải pháp hoàn thiện
Các hạn chế trên tồn tại trong pháp luật Việt Nam là khó tránh
khỏiC, bởi việc bảo hộ quyền SHCN đối với BMKD là một lĩnh
vực còn rất mới và thực sự chưa được chú trọng tại Việt Nam.
Trong một thời gian dài chúng ta mới chỉ tập trung vào một số
đối tượng được xem là “nóng” của quyền SHTT, như: bản quyền,
nhãn hiệu hàng hoá, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp còn các
đối tượng khác, trong đó có BMKD hầu như không được chú ý
tới. Trong giai đoạn hiện nay, xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn,
để bảo đảm thực hiện đúng, đầy đủ các cam kết quốc tế cũng như
phù hợp với các điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, pháp luật
Việt Nam về bảo hộ quyền SHCN đối với BMKD cần phải được
hoàn thiện hơn nữa theo hướng tập trung vào một số nội dung
chính sau:
2.1. Quy định cụ thể hơn về phạm vi và điều kiện bảo hộ
Học tập kinh nghiệm của các nước, pháp luật Việt Nam khi quy
định về BMKD cần đưa ra các tiêu chí mang tính chuẩn mực để
việc xác định đối tượng được bảo hộ thuận lợi và chính xác. Theo
đó có thể quy định: “BMKD là các thông tin về khoa học kỹ
thuật, về quy trình sản xuất, về tài chính hoặc các thông tin về các
hoạt động sản xuất kinh doanh khác”. Khái niệm cụ thể này sẽ
giúp chúng ta xác định được phạm vi các thông tin sẽ được pháp
luật Việt Nam bảo hộ là BMKD một cách chính xác, tránh những
tranh cãi không cần thiết như hiện nay.
Về điều kiện bảo hộ: Điều 84 Luật SHTT đã quy định các điều
kiện chung đối với BMKD, tuy nhiên cần phải có hướng dẫn cụ
thể về nội dung của từng điều kiện:
- Giải thích thế nào là một thông tin được xem là “bí mật”. Hiện
nay pháp luật Việt Nam đã đưa ra hai tiêu chí: không phải là hiểu
biết thông thường; không dễ dàng có được. Tuy nhiên, pháp luật
cần chỉ rõ hai tiêu chí trên không phải áp dụng đối với mọi chủ
thể mà chỉ áp dụng đối với những chủ thể là “người thường
xuyên xử lý loại thông tin đó” như quy định tại Điều 39 của Hiệp
định TRIPs.
- Để thể hiện được giá trị thương mại của BMKD, cần bổ sung
thêm điều kiện để thông tin được bảo hộ là “có giá trị thương mại
và khi được sử dụng trong kinh doanh sẽ tạo cho người nắm giữ
BMKD lợi thế so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng
BMKD đó”. Thêm nữa, pháp luật cần giải thích các “lợi thế” đó
có thể có ở* hiện tại hoặc tương lai với điều kiện hợp pháp.
- Cần hướng dẫn cụ thể về các biện pháp bảo mật có thể được chủ
thể quyền áp dụng nhằm hạn chế các tranh cãi về việc đã có hay
chưa các biện pháp bảo mật được coi là cần thiết? Kinh nghiệm
của các nước là thường đưa ra một số biện pháp bảo mật mẫu mà
chủ thể quyền có thể áp dụng để bảo mật các thông tin của mình.
2.2. Bổ sung thêm các quyền của chủ sở hữu bí mật kinh doanh
Bổ sung vào Điều 123 Luật SHTT “quyền của chủ sở hữu đối
tượng SHCN” quyền được ngăn chặn các chủ thể khác bộc lộ
một cách bất hợp pháp đối tượng SHCN của mình.
Ngoài các trường hợp được nêu tại Khoản 4 Điều 124, Luật
SHTT cần bổ sung thêm một số hành vi sử dụng BMKD hợp
pháp khác của chủ sở hữu như: góp vốn, cầm cố, thế chấp đối với
BMKD.
2.3. Quy định thời điểm chấm dứt quyền sở hữu công nghiệp
đối với bí mật kinh doanh
Xác định thời điểm chấm dứt quyền SHCN đối với BMKD là vô
cùng quan trọng vì vấn đề này liên quan trực tiếp đến quyền và
nghĩa vụ cũng như trách nhiệm pháp lý của các bên chủ thể. Do
vậy, pháp luật cần quy định cụ thể về thời điểm chấm dứt quyền
SHCN đối với BMKD. Căn cứ vào tính chất, đặc điểm của
BMKD, thời điểm chấm dứt quyền SHCN đối với BMKD sẽ rơi
vào một trong các trường hợp sau: 1) Chủ sở hữu BMKD chuyển
giao quyền sở hữu đối với BMKD cho chủ thể khác; 2) BMKD
không đảm bảo các điều kiện để được bảo hộ theo quy định của
pháp luật, ví dụ như không còn tính bí mật hoặc không còn giá trị
thương mại…; 3) BMKD đã bị tiêu huỷ.
2.4. Quy định các vấn đề liên quan đến chuyển giao quyền sở
hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh
Pháp luật về SHTT cần bổ sung các quy định về nghĩa vụ phải
giữ bí mật đối với BMKD của Bên chuyển giao quyền và Bên
được chuyển giao khi ký kết hợp đồng chuyển giao quyền SHCN
đối với BMKD (nghĩa vụ này tồn tại ngay cả khi hợp đồng đã hết
hiệu lực, trừ khi các bên có thoả thuận khác). Bên nhận được
chuyển giao quyền sử dụng BMKD phải chấm dứt việc sử dụng
BMKD đó sau khi hợp đồng chuyển giao hết hiệu lực. Tuy nhiên,
nếu BMKD đã được bên nhận chuyển giao phát triển, cải tiến, thì
việc sử dụng đó là hoàn toàn hợp pháp.
2.5. Quy định các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của
người lao động và người sử dụng lao động đối với việc quản lý,
bộc lộ, khai thác bí mật kinh doanh
Để việc bảo hộ BMKD có hiệu quả, pháp luật lao động cần quy
định về nghĩa vụ của người lao động đối với việc bảo mật
BMKD. Người lao động sau khi chấm dứt hợp đồng lao động vẫn
có nghĩa vụ giữ bí mật đối với BMKD đó (các bên có thể thoả
thuận về thời gian giữ bí mật đối với BMKD sau khi hợp đồng
lao động chấm dứt). Để tạo điều kiện cho người lao động có thể
vận dụng những kinh nghiệm mà mình có được trong công việc
cũ tại nơi làm việc mới, pháp luật nên quy định người lao động
có quyền sử dụng các BMKD mà mình tạo ra trong quá trình làm
việc để phục vụ cho công việc trong tương lai của họ.
2.6. Quy định trách nhiệm pháp lý của bên thứ ba trong việc
bộc lộ, sử dụng, chiếm đoạt BMKD của chủ sở hữu
Pháp luật cần quy định cụ thể về quyền của chủ sở hữu BMKD
trong việc ngăn chặn Bên thứ ba bộc lộ, sử dụng, chiếm đoạt
BMKD một cách trái phép. Trong trường hợp này phải giải thích
rõ ràng “Bên thứ ba” là như thế nào và các hành vi vi phạm
BMKD từ Bên thứ ba. Nếu Bên thứ ba xâm phạm BMKD của
chủ sở hữu hoặc của người kiểm soát BMKD hợp pháp, thì hành
vi đó phải được xem là hành vi cạnh tranh không lành mạnh và bị
xử lý theo quy định của pháp luật.
Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo hộ quyền
SHCN đối với BMKD như trên không những bảo đảm sự tương
thích của pháp luật Việt Nam với các quy định của các điều ước
quốc tế Việt Nam đã tham gia mà còn có tác dụng tích cực trong
việc bảo hộ hiệu quả BMKD tại nước ta trong hiện tại cũng như
trong tương lai.
(1) Uniform Trade
Secrets Act 1979
(Bài đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 156-thang-10-
2009 ngày 20/10/2009) ThS Nguyễn Thái Mai, Giảng viên Khoa
quốc tế - Đại học Luật Hà Nội.