Hoàn thiện pháp luật về công nhận và cho thi
hành bản án, quyết dân sự của Toà án nước
ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
quốc tế
Trần Thị Dương
Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Luật Quốc tế; Mã số: 60 38 60
Người hướng dẫn: PGS.TS Đoàn Năng
Năm bảo vệ: 2012
Abstract: Trình bày những vấn đề lý luận về công nhận và cho thi hành bản án, quyết
định dân sự của tòa án nước ngoài. Đánh giá thực trạng pháp luật, đánh giá việc thực hiện
pháp luật Việt Nam, xác định các vướng mắc, bất cập, hạn chế, khó khăn trong hoạt động
công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay. Đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật Việt Nam về hoạt động công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự
của tòa án nước ngoài.
Keywords: Luật Quốc tế; Thi hành bản án; Tòa án nước ngoài; Quyết định dân sự
Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, cùng với việc tiếp tục đẩy nhanh quá trình cải cách kinh tế và cải
cách nền hành chính quốc gia, công cuộc cải cách tư pháp cũng đang được Đảng và Nhà nước ta
tích cực triển khai, coi đây như là khâu đột phá quan trọng, thúc đẩy quá trình xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hội
nhập quốc tế.
Pháp luật Việt Nam về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài
qua nhiều năm thi hành và thực tiễn áp dụng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập; có những quy
định chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng nên có nhiều cách hiểu khác nhau; có những quy định chưa
đảm bảo được quyền và lợi ích của các bên đương sự; có quy định chưa phù hợp với cam kết
quốc tế
Mặt khác, cơ chế pháp lý khi giải quyết các yêu cầu công nhận và thi hành bản án quyết định
của tòa án nước ngoài là lĩnh vực có nhiều phức tạp, bởi vì nó liên quan đến chủ quyền quốc gia,
liên quan đến quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ dân sự.
Trước những yêu cầu của thực tiễn, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật về
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định của tòa án nước ngoài nhằm góp
phần làm sáng tỏ thêm về lý luận cũng như thực tiễn, tìm ra những hạn chế, vướng mắc trong
quy định pháp luật và thực tiễn thi hành, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm
nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các vụ, việc dân sự theo tinh thần cải cách tư pháp là hết
sức cần thiết và vẫn có tính thời sự, rất được quan tâm trong khoa học pháp lý ở Việt Nam hiện
nay.
Do vậy, tôi đã chọn đề tài "Hoàn thiện pháp luật về công nhận và cho thi hành bản án,
quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế" để
làm luận văn thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý đã có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về vấn đề công
nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước nước ngoài tại Việt Nam theo
những khía cạnh khác nhau như: Giáo trình Tư pháp quốc tế, Đại học quốc gia Hà Nội, năm
2001; Giáo trình Tư pháp quốc tế, Trường đại học Luật Hà Nội, năm 2010 Các bài tạp chí
chuyên ngành luật học như: Về công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự
của tòa án nước ngoài, phán quyết của trọng tài nước ngoài (Nguyễn Trung Tín, Tạp chí Luật
học, số 12/2006); Hoàn thiện pháp luật về công nhận và thi hành bản án quyết định dân sự của
tòa án nước ngoài (Bành Quốc Tuấn, Tạp chí Nghiên cứu và lập pháp, số 5/2011) Các đề tài
khoa học như đề tài "Cơ sở lý luận và thực tiễn thi hành quy định về công nhận và thi hành tại
Việt Nam bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài"
(Lê Thế Phúc - chủ nhiệm đề tài - Viện Khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối cao). Các luận án
tiến sĩ như luận án luận án tiến và một số luận văn thạc sĩ về vấn đề công nhận và thi hành tại
Việt Nam bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài.
Các công trình trên đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
về vấn đề công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài trong thời
gian qua. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên đều chưa tập trung đưa ra các giải pháp để
hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của hoạt động công nhận và cho thi hành bản án,
quyết định dân sự của toà án nước ngoài tại Việt Nam. Đây là vấn đề cấp thiết đặt ra trong tiến
trình hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung của Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
Đề tài nghiên cứu làm sáng tỏ các nội dung, nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt
Nam về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài. Trên cơ sở
nghiên cứu các vấn đề về lý luận và xem xét thực trạng vận dụng, thực hiện pháp luật trong hoạt
động công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại Việt Nam,
làm rõ các vướng mắc, bất cập trong các văn bản pháp luật và đưa các giải pháp, kiến nghị nhằm
mục đích hoàn thiện pháp luật Việt Nam, nâng cao hiệu quả hoạt động công nhận và cho thi hành
bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh hội quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ
Đề tài nghiên cứu có nhiệm vụ làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản sau:
- Những vấn đề lý luận về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án
nước ngoài.
- Đánh giá thực trạng pháp luật, đánh giá việc thực hiện pháp luật Việt Nam, xác định các
vướng mắc, bất cập, hạn chế, khó khăn trong hoạt động công nhận và cho thi hành bản án, quyết
định dân sự của tòa án nước ngoài tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt
động công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài.
4. Đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Là các quy phạm pháp luật của Việt Nam và của một số
nước trên thế giới, các điều ước quốc tế và thực tiễn của Việt Nam trong lĩnh vực này, các mối
quan hệ trong hoạt động công nhận công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa
án nước ngoài tại Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước ta về phát triển kinh tế xã hội, về xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
Các phương pháp được sử dụng chủ yếu để nghiên cứu đề tài bao gồm các phương pháp
nghiên cứu khoa học nói chung và phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý nói riêng như
phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, hệ thống hóa pháp luật
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Đề tài nghiên cứu một cách toàn diện về cả lý luận và thực tiễn vấn đề, xác định những hạn
chế, bất cập của pháp luật Việt Nam về việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án,
quyết định dân sự của tòa án nước ngoài, đồng thời phân tích kinh nghiệm pháp luật một số quốc
gia trên thế giới về vấn đề này. Từ đó góp phần xây dựng luận cứ khoa học nhằm mục đích hoàn
thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả trong hoạt động công nhận và cho thi hành bản án, quyết định
của tòa án án nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.
Với những kết quả nghiên cứu, đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các
cơ quan lập pháp trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề công
nhận và cho thi hành bản án, quyết định của tòa án án nước ngoài. Đề tài có thể có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan tư pháp trong quá trình giải quyết các yêu cầu công
nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của toà án nước ngoài. Đề tài cũng có cho được
hànhụng làm tài liệu tham khảo cho những người học tập, làm công tác nghiên cứu, giảng dạy
pháp luật và quan tâm đến vấn đề này.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định
dân sự của tòa án nước ngoài và kinh nghiệm của một số nước.
Chương 2: Thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về công nhận và cho thi hành
bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về công nhận và cho
thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG NHẬN
VÀ CHO THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ
CỦA TÒA ÁN NƢỚC NGOÀI VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC
1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân
sự của tòa án nƣớc ngoài
1.1.1. Khái niệm, bản chất, ý nghĩa của việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết
định dân sự của tòa án nước ngoài
1.1.1.1 Khái niệm bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài
Hiện nay trong tư pháp quốc tế có nhiều cách định nghĩa khác nhau về khái niệm bản án,
quyết định dân sự của tòa án nước ngoài. Trên cơ sở nguyên tắc chủ quyền quốc gia và dựa trên
tiêu chí "lãnh thổ" nơi phán quyết được ban hành, chúng ta có thể định nghĩa về bản án, quyết
định dân sự của tòa án nước ngoài như sau:
Bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài là bản án, quyết định dân sự được tuyên ở
ngoài lãnh thổ nước công nhận.
1.1.1.2. Khái niệm công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước
ngoài
Công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài có các đặc điểm
cơ bản sau:
Thứ nhất, công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài thể
hiện ý chí của quốc gia công nhận và thi hành.
Thứ hai, việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài
được thực hiện thông qua cơ quan trong bộ máy nhà nước.
Thứ ba, công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài là một
quá trình của tố tụng dân sự quốc tế, thể hiện sự hợp tác giữa các quốc gia trong hoạt động tương
trợ tư pháp.
Thứ tư, chỉ công nhận và cho thi hành các bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài
đã phát sinh hiệu lực pháp luật theo quy định tại nước tuyên ra bản án, quyết định đó trừ một số
trường hợp bản án, quyết định cần thi hành ngay.
Thứ năm, công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài là thủ
tục xem xét và quyết định trao hiệu lực tại nước sở tại cho bản án, quyết định được yêu cầu.
Từ những điều đã được trình bày ở trên, có thể đưa ra định nghĩa về công nhận và thi hành bản
án quyết định dân sự của tòa án nước ngoài như sau:
Công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài là hành vi pháp
lý của quốc gia thông qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền của mình chính thức thừa nhận sự
tồn tại, giá trị pháp lý của bản án, quyết định dân sự của tòa án một quốc gia khác và làm cho
bản án, quyết định dân sự đó có hiệu lực bắt buộc thi hành trên lãnh thổ nước mình.
1.1.1.3. Bản chất việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước
ngoài
Bản chất của việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước
ngoài chính là việc, quốc gia sở tại thừa nhận giá trị hiệu lực pháp lý của các bản án, quyết định
dân sự của tòa án nước ngoài và cho phép thi hành tại quốc gia mình.
1.1.1.4. Ý nghĩa của việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án
nước ngoài
Việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài là cần thiết
khách quan và có ý nghĩa to lớn trên các phương diện sau:
Thứ nhất, về phương diện chính trị, công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của
tòa án nước ngoài góp phần thúc đẩy sự phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các quốc gia.
Thứ hai, về phương diện kinh tế, công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của
tòa án nước ngoài góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế giữa các quốc gia, thúc đẩy sự phát
triển kinh tế ở mỗi quốc gia.
Thứ ba, về phương diện xã hội, công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa
án nước ngoài góp phần duy trì trật tự, ổn định các quan hệ xã hội nói chung và các quan hệ dân
sự có yếu tố nước ngoài nói riêng.
Thứ tư, về phương diện pháp luật, công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của
tòa án nước ngoài khẳng định vấn đề chủ quyền về tài phán của quốc gia.
1.1.2. Cơ sơ lý luận, cơ sở pháp lý của việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định
dân sự của tòa án nước ngoài
1.1.2.1. Cơ sở lý luận của việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa
án nước ngoài
* Các nguyên tắc cơ bản trong luật quốc tế hiện đại
Hoạt động công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước chịu sự ảnh
hưởng trực tiếp bởi một số nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại, như: Nguyên tắc tôn
trọng chủ quyền quốc gia; nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau; nguyên tắc tận
tâm, tự nguyện thực hiện các cam kết quốc tế (Pacta Sunt Servanda).
* Các nguyên tắc cơ bản trong tư pháp quốc tế
Công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài là một nội dung
quan trọng của tư pháp quốc tế hiện đại, nên chịu sự chi phối trực tiếp bởi một số nguyên tắc cơ
bản của tư pháp quốc tế, như: Nguyên tắc có đi có lại; nguyên tắc công nhận quyền miễn trừ của
quốc gia; nguyên tắc tối huệ quốc.
* Bảo vệ quyền con người
Công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài chính là một
biểu hiện của việc bảo vệ quyền con người ở khía cạnh dân sự, chính trị cũng như kinh tế, xã hội.
* Xu thế hội nhập quốc tế
Việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của tòa án nước ngoài là một biểu hiện
của hoạt động hội nhập quốc tế.
1.1.2.2. Cơ sở pháp lý của việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa
án nước ngoài
Cơ sở pháp lý của việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước
ngoài là các điều ước quốc tế song phương, đa phương và pháp luật quốc gia quy định về vấn đề
này.
Các điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia về vấn đề công nhận và cho thi hành bản án, quyết
định dân sự của tòa án nước ngoài có vai trò quan trọng trong hoạt động này. Mỗi loại văn bản trên
có một vị trí nhất định, trong đó các điều ước giữ vai trò chủ đạo, pháp luật quốc gia giữ vai trò cơ
bản. Tuy nhiên, giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau, tất cả đều là cần thiết và
không thể thiếu, nếu thiếu các quy định cần thiết đó thì việc công nhận và thi hành bản án, quyết
định của tòa án nước ngoài sẽ không có cơ sở pháp lý.
1.1.3. Điều kiện, trình tự, thủ tục công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự
của tòa án nước ngoài
1.1.3.1. Về điều kiện công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước
ngoài
Thứ nhất, điều kiện về giá trị pháp lý của các bản án, quyết định. Theo điều kiện này, bản
án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài có yêu cầu công nhận và cho thi hành phải là bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo pháp luật nước đã tuyên. Trừ một số trường hợp đặc biệt
khác.
Thứ hai, điều kiện về thẩm quyền giải quyết vụ việc của tòa án. Theo điều kiện này, tòa án
nước ngoài đã ra bản án, quyết định dân sự có yêu cầu công nhận và cho thi hành là tòa án có
thẩm quyền giải quyết vụ việc theo quy định của tư pháp quốc tế.
Thứ ba, điều kiện về sự đảm bảo các quyền tố tụng của đương sự. Theo điều kiện này, trong
quá trình ra bản án, quyết định tòa án nước ngoài phải đảm bảo đầy đủ các quyền tố tụng dân sự
của đương sự, đặc biệt là quyền tố tụng của bên phải thi hành.
Thứ tư, điều kiện về bảo lưu trật tự công cộng. Theo điều kiện này, một bản án, quyết định
của tòa án nước ngoài sẽ được công nhận và cho thi hành nếu như hậu quả của việc công nhận và
thi hành không trái với pháp luật và trật tự công cộng của nước nhận được yêu cầu công nhận và
thi hành.
1.1.3.2. Về trình tự, thủ tục công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án
nước ngoài
Trình tự, thủ tục công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài
gồm các bước sau:
Bước thứ nhất, nộp đơn đến cơ quan có thẩm quyền.
Bước thứ hai, nhận đơn và xem xét thụ lý giải quyết. Sau khi nhận được đơn các cơ quan có
thẩm quyền sẽ kiểm tra, xem xét. Nội dung và phạm vi kiểm tra tùy thuộc vào quy định của pháp
luật từng nước. Hiện nay, các nước trên thế giới thường sử dụng hai phương pháp sau: Phương
pháp kiểm tra toàn diện và phương pháp kiểm tra hạn chế.
Bước thứ ba, thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài đã được công nhận.
1.2. Kinh nghiệm của một số nƣớc về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định
dân sự của tòa án nƣớc ngoài
Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật về tương
trợ tư pháp quốc tế, đặc biệt là hoạt động công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết
định dân sự của tòa án nước ngoài. Vì vậy, việc nghiên cứu và tiếp nhận kinh nghiệm pháp luật
nước ngoài về vấn đề này là cần thiết.
2.2.1. Kinh nghiệm của Cộng hòa Liên bang Đức
Cộng hòa Liên bang Đức là thành viên của Liên minh Châu Âu vì vậy, việc công nhận và thi
hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài ở Đức được thực hiện trên cơ sở pháp luật
chung của Liên minh Châu Âu, các hiệp định song phương giữa Đức với các quốc gia khác và
pháp luật nước Đức.
Đối với các bản án, quyết định được tuyên bởi các nước là thành viên của EU thì thủ tục
công nhận và thi hành rất đơn giản, nhanh chóng, không đòi hỏi phải qua bất cứ thủ tục tố tụng
dân sự đặc biệt nào. Người có yêu cầu chỉ cần xuất trình trước tòa án có thẩm quyền Đức nơi cần
được thi hành, bản sao hợp pháp bản án đã có hiệu lực pháp luật và giấy xác nhận lệnh thi hành
Châu Âu của tòa án nước thành viên đưa ra phán quyết.
Đối với các nước ký hiệp định song phương với Cộng hòa Liên bang Đức việc công nhận và
cho thi hành sẽ tuân theo quy định của hiệp định đó.
Đối với các bản án, quyết định được tuyên bởi nước không có điều ước quốc tế với Đức.
Việc công nhận và thi hành được tiến hành theo thủ tục cấp phép và phải qua một thủ tục tố tụng
đặc biệt, được thực hiện trên cơ sở các quy định tại Điều lệ Tố tụng dân sự Đức và tuân theo
nguyên tắc có đi có lại.
1.2.2. Kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp
Việc công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài cũng được xử lý
khác biệt như ở Đức. Tùy thuộc vào bản án, quyết định đó được đưa ra bởi một nước có ký hiệp
định về vấn đề này với Pháp hay không hoặc bởi một tòa án của một nước thành viên của Liên
minh Châu Âu hay không. Tuy nhiên, nếu bản án được đưa ra bởi một nước không có điều ước
quốc tế với Pháp thì việc công nhận và cho thi hành sẽ tuân theo một thủ tục tố tụng đặc biệt
được quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự, trên cơ sở chế độ cấp phép và phải đáp ứng đủ các
điều kiện do pháp luật Pháp đặt ra. Ở Pháp, việc công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự
của tòa án nước ngoài không dựa vào nguyên tắc có đi có lại.
1.2.3. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là nước theo hệ thống pháp luật Common law, vì vậy, một bản án, quyết định dân sự
của tòa án nước ngoài khi có yêu cầu công nhận và thi hành ở Hoa Kỳ sẽ có khả năng bị xem xét
lại.
Việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại Hoa Kỳ
dựa trên các điều ước quốc tế mà Hoa Kỳ là thành viên. Trong trường hợp không có điều ước
quốc tế, thì sẽ tuân theo nguyên tắc có đi có lại, khi xem yêu cầu công nhận nguyên tắc có đi có
lại được áp dụng đầu tiên, sau đó mới xem xét đến các điều kiện. Tuy nhiên, ở Hoa Kỳ nghĩa vụ
chứng minh bản án, quyết định không đáp ứng các điều kiện công nhận thuộc về trách nhiệm của
bị đơn.
1.2.4. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Ở Nhật Bản, mọi yêu cầu về công nhận và thi hành bản án quyết định dân sự của tòa án nước
ngoài tại Nhật bản sẽ được Tòa án tối cao Nhật Bản tiếp nhận và kiểm tra sơ bộ, nếu thấy đã đầy
đủ thủ tục, điều kiện thì Tòa án tối cao sẽ gửi cho Tòa án khu vực có thẩm quyền để tiến hành
công nhận và cho thi hành. Tòa án Nhật Bản chỉ kiểm tra, đối chiếu bản án, quyết định dân sự
của tòa án nước ngoài, các giấy tờ, tài liệu kèm theo đơn yêu cầu với các quy định của pháp luật
Nhật Bản để quyết định có công nhận và cho thi hành hay không.
Khi giải quyết yêu cầu công nhận và thi hành tòa án sẽ dựa trên các điều ước tế mà Nhật Bản
là thành viên và Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong trường hợp không có điều ước sẽ áp dụng nguyên
tắc có đi có lại và phải thỏa mãn các điều kiện do pháp luật Nhật Bản đề ra.
1.2.5. Kinh nghiệm của Vương quốc Thái Lan
Pháp luật Vương quốc Thái Lan không quy định vấn đề công nhận và cho bản án, quyết định
dân sự của tòa án nước ngoài. Trong Bộ luật Tố tụng dân sự Thái Lan không có một điều khoản
nào đề cập đến vấn đề này. Vì vậy, người có quyền lợi cần được thi hành phải khởi kiện lại vụ
việc tại một Tòa án của Thái Lan. Tuy nhiên, nếu vụ việc đó đã được giải quyết bởi một tòa án
nước ngoài thì bản án nước ngoài đó có thể được trình lên Tòa án Thái Lan như một bằng chứng
có tính thuyết phục.
Qua các nghiên cứu về pháp luật và thực tiễn công nhận và cho thi hành bản án, quyết định
dân sự của tòa án nước ngoài của một số nước trên thế giới, có thể thấy pháp luật các nước có
một số nét lớn sau:
Thứ nhất, về nguyên tắc công nhận và cho thi hành, pháp luật hầu hết các nước đều quy định
việc công nhận và cho thi hành dựa trên nguyên tắc có điều ước quốc tế và nguyên tắc có đi có
lại, ngoại trừ Cộng hòa Pháp.
Thứ hai, về thẩm quyền giải quyết yêu cầu, pháp luật các nước đều quy định tòa án quốc gia,
là cơ Nhà nước có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định
dân sự của tòa án nước ngoài.
Thứ ba, về trình tự thủ tục, pháp luật các nước đều có quy định về trình tự, thủ tục riêng,
nhưng đều đảm bảo các bước: nhận đơn, xem xét đơn và ra quyết định. Riêng đối với việc xem
xét đơn, hầu hết các nước áp dụng phương pháp kiểm tra hạn chế. Một số quốc gia như Hoa Kỳ
áp dụng phương pháp kiểm tra toàn bộ, nghĩa là có thể xem xét lại nội vụ việc trước khi ra quyết
định cuối cùng.
Thứ tư, về điều kiện công nhận, pháp luật mỗi quốc gia đều quy định các điều kiện riêng.
Nhưng về cơ bản thường bao gồm các điều kiện sau: Bản án, quyết định phải có hiệu lực pháp
luật và được tuyên bởi tòa án có thẩm quyền; người phải thi hành được triệu tập tham gia tố tụng
đúng quy định và việc công nhận không trái trật tự công cộng quốc gia. Ở một số nước như Đức,
Hoa Kỳ còn quy định thêm các điều kiện khác.
Kết luận chương 1
Công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài là một nội dung
quan trọng của hoạt động hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp và đang nhận được sự quan tâm
rất nhiều từ các quốc gia cũng như các cá nhân, tổ chức. Việc nghiên cứu các vấn đề có tính chất
lý luận về công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài có ý nghĩa rất
quan trọng, là "kim chỉ nam" cho việc phân tích những quy định pháp luật và thực tiễn của pháp
luật Việt Nam để rút ra vấn đề cần thiết về hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về
vấn đề này.
Bên cạnh việc nghiên cứu những vấn đề có tính chất lý luận về công nhận và cho thi hành
bản án, quyết định của tòa án nước ngoài. Nghiên cứu pháp luật và kinh nghiệm một số nước,
các quy định trong các điều ước quốc tế đa phương về vấn đề này, để tổng kết, đánh giá các quy
định pháp luật và rút ra kinh nghiệm, đồng thời tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của một số
nước để xây dựng, hoàn thiện pháp luật về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự
của tòa án nước ngoài tại Việt Nam là một trong những vấn đề cấp bách trong quá trình nhập
quốc hiện nay của Việt Nam.
Chương 2
THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH BẢN ÁN QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN
NƢỚC NGOÀI
2.1. Các điều ƣớc quốc tế của Việt Nam về công nhận và cho thi hành bản án, quyết
định dân sự của tòa án nƣớc ngoài
Hiện nay, Việt Nam đã ký kết được 18 hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự và thương mại
với các nước, một phần nội dung của các hiệp định đều quy định về phạm vi, điều kiện công
nhận và việc thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài. Qua nghiên cứu các điều,
khoản về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài trong các
hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý giữa Việt Nam với các nước có thể thấy:
Việc ký kết các hiệp định đều xuất phát từ sự thỏa thuận, thống nhất trên cơ sở phù hợp với
Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khác của Việt Nam, phù hợp với pháp luật và tập
quán quốc tế. Các quy định về vấn đề này là khá đầy đủ, chi tiết. Tuy nhiên, vẫn còn có những
điểm hạn chế như: Về bố cục vấn đề, phạm vi, điều kiện công nhận, thuật ngữ sử dụng và khái
niệm bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài là chưa thống nhất, còn mâu thuẫn với các
quy định tại phần thứ sáu Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam đặc biệt có một số điều kiện không
phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn pháp quốc gia Việt Nam.
2.2. Các quy định của pháp luật quốc gia về công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
bản án, quyết định dân sự của tòa án nƣớc ngoài
2.2.1. Các quy định chung về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của
tòa án nước ngoài
2.2.1.1. Về khái niệm bản án, quyết định dân sự của của tòa án nước ngoài
Khoản 1 Điều 342 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về khái niệm bản án, quyết định dân sự
của của tòa án nước ngoài. Tuy nhiên, điều luật chỉ sử dụng phương pháp liệt kê để đưa ra khái
niệm mà không quy định cụ thể thế nào là bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài.
2.2.1.2. Về nguyên tắc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của của Tòa án
nước ngoài
* Nguyên tắc có điều ước quốc tế hoặc được pháp luật Việt Nam quy định về công nhận và
cho thi hành
* Nguyên tắc có đi có lại
* Nguyên tắc đương nhiên công nhận bản án, quyết định dân sự không có yêu cầu thi hành
tại Việt Nam
* Nguyên tắc tương tự như thi hành án dân sự
2.2.1.3. Về quyền yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án
nước ngoài
Pháp luật Việt Nam đảm bảo quyền yêu cầu của đương sự, họ có quyền gửi đơn, quyền rút
yêu cầu; quyền kháng cáo quyết định công nhận hoặc không công nhận của tòa án.
Tuy nhiên, vấn đề về quyền sửa đổi, bổ sung, trả lại đơn yêu cầu và khiếu nại, giải quyết
khiếu nại vẫn chưa được pháp luật Việt Nam quy định cụ thể.
2.2.2. Thẩm quyền nhận và xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết
định dân sự của tòa án nước ngoài
Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối trong việc tiếp nhận hồ sơ, giấy tờ yêu cầu công nhận và thi
hành. Sau khi nhận được hồ sơ Bộ Tư pháp kiểm tra tính hợp pháp của hồ sơ, giấy tờ, tài liệu
kèm theo đồng thời hướng dẫn thu nộp lệ phí công nhận và chuyển hồ sơ đến tòa án có thẩm
quyền giải quyết và xử lý theo quy định.
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam trong việc xét đơn công nhận và cho thi hành bản án,
quyết định dân sự của tòa án nước ngoài được xác định theo cấp và theo lãnh thổ. Theo đó, Tòa án
nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi người phải thi hành cư trú, làm việc nếu
người phải thi hành là cá nhân hoặc nơi có trụ sở nếu người phải thi hành án là cơ quan, tổ chức
hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành tại Việt Nam có thẩm quyền thụ lý đơn theo thủ
tục sơ thẩm. Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền xét lại quyết định công nhận hoặc không
công nhận bị kháng cáo, kháng nghị.
Các quy định trên về thẩm quyền của tòa án là phù hợp, tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng dân sự
không quy định việc xác định thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận và thi hành theo sự lựa
chọn của người gửi đơn, điều này đã hạn chế quyền của đương sự, làm cho Bộ Tư pháp lúng
túng khi chuyển đơn.
2.2.3. Trình tự, thủ tục công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án
nước ngoài
Trình tự, thủ tục công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài
gồm các bước sau:
Bước thứ nhất, nộp đơn yêu cầu và các giấy tờ tài liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu.
Bước thứ hai, thụ lý và chuẩn bị xét đơn yêu cầu.
Bước thứ ba, phiên họp xét đơn yêu cầu.
Bước thứ tư, thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài.
2.2.4. Điều kiện công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước
ngoài
Tòa án Việt Nam không công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án
nước ngoài khi:
Bản án, quyết định dân sự chưa có hiệu lực pháp luật theo quy định của nước có tòa án đã ra
bản án, quyết định đó
Người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của người đó đã vắng mặt tại phiên tòa
của tòa án nước ngoài do không được triệu tập hợp lệ
Vụ án thuộc thẩm quyền xét xử riêng biệt của Tòa án Việt Nam
Về cùng vụ án này đã có bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án Việt
Nam hoặc của tòa án nước ngoài đã được Tòa án Việt Nam công nhận hoặc trước khi cơ quan
xét xử nước ngoài thụ lý vụ án, tòa án Việt Nam đã thụ lý và đang giải quyết vụ án đó
Đã hết thời hiệu thi hành án theo pháp luật của nước có tòa án đã ra bản án, quyết định dân
sự đó hoặc theo pháp luật Việt Nam
Việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại Việt Nam
trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam
Qua các phân tích trên, có thể các quy định của pháp luật quốc gia Việt Nam về vấn đề công
nhận và cho thi hành bản bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài về cơ bản đã phù hợp
với thực tiễn của Việt Nam, phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh các thành quả
tích cực trên, thì hiện nay các quy định này đã dần bộc lộ các hạn chế, bất cập như: Về cơ sở
pháp lý cho hoạt động công nhận và cho thi hành là còn thiếu; về cơ chế phối hợp giữa các cơ
quan và thẩm quyền của tòa án trong việc xét đơn yêu cầu là chưa được quy định đầy đủ; về mức
nộp lệ phí công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài
còn mang tính phân biệt và thiếu cơ chế điều chỉnh; về vấn đề chuyển tiền và tài sản ra nước ngoài
còn chưa được quy định; thiếu quy định về phiên họp xét đơn yêu cầu
Kết luận chương 2
Qua các phân tích trên có thể thấy:
Các quy phạm pháp luật Việt Nam về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự
của tòa án nước ngoài tại Việt Nam nằm trong các hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý Việt
Nam ký kết với các nước và pháp luật quốc gia Việt Nam, chủ yếu được quy định tại phần thứ
sáu Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Thi hành án dân sự, Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án.
Trong những năm qua, pháp luật nước ta về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân
sự của tòa án nước ngoài đã có những thay đổi lớn, tích cực. Tuy nhiên, đây vẫn là một vấn đề còn
khá mới mẻ đối Việt Nam về cả lý luận và thực tiễn cho nên qua thời gian áp dụng bên cạnh những
điều đã đạt được đã bộc còn nhiều vướng mắc, hạn chế cần được nghiên cứu, xem xét, sửa đổi, bổ
sung cho phù hợp trên cả phương diện lý luận và thực tiễn thi hành.
Chương 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CÔNG
NHẬN VÀ CHO THI HÀNH BẢN ÁN,
QUYẾT ĐỊNH DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NƢỚC NGOÀI
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
3.1. Thực tiễn thi hành các quy định về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định
dân sự của tòa án nƣớc ngoài tại Việt Nam hiện nay
Theo số liệu thống kê của Vụ Pháp luật quốc tế và Hợp tác quốc tế - Bộ Tư pháp, trong thời
gian từ ngày 01/7/2008 đến 31/12/2011 Bộ Tư pháp đã tiếp nhận 35 yêu cầu công nhận và cho
thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài,
trong đó chủ yếu là đơn về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước
ngoài. Bộ Tư pháp đã rà soát hồ sơ và chuyển 23 hồ sơ cho tòa án nhân dân có thẩm quyền thực
hiện việc công nhận và cho thi hành theo quy định của pháp luật. Đối với 12 hồ sơ còn lại Bộ Tư
pháp đã gửi trả lại đương sự vì không đủ giấy tờ, tài liệu theo quy định hoặc không thể thực hiện
được do không có cơ sở pháp lý để thực hiện.
Theo thống kê không đầy đủ của 50 Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,
cũng trong thời gian trên các tòa đã trả lại 02 hồ sơ vì không đủ điều kiện công nhận và giải
quyết xong 19 hồ sơ.
Thực tiễn giải quyết các hồ sơ yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự
của tòa án nước ngoài tại Việt Nam trong những năm gần đây cho thấy các cơ quan có thẩm
quyền của Việt Nam ngày càng quan tâm và áp dụng đúng đắn các quy định của pháp luật Việt
Nam. Tuy nhiên, trên thực tiễn việc áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam vào việc giải
quyết đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại
Việt Nam còn gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc và chưa thống nhất, như:
* Về việc quyết định của cơ quan hộ tịch nước ngoài có được công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam hay không? Vấn đề này cần có hướng dẫn cụ thể.
* Về việc áp dụng nguyên tắc có đi, có lại khi giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành
tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài là chưa được hướng dẫn cụ thể,
dẫn đến việc áp dụng trên thực tiễn không thống nhất.
* Về việc áp dụng trực tiếp quy phạm điều ước khi giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi
hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài là chưa được hướng dẫn cụ thể, dẫn đến
việc áp dụng trên thực tiến không thống nhất.
* Về thủ tục giám đốc thẩm đối với quyết định của Tòa án Việt Nam đã có hiệu lực pháp luật
về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài chưa được Bộ luật
Tố tụng dân sự Việt Nam quy định đã tạo một lỗ hổng pháp luật lớn, cần sớm được khắc phục.
* Về giải quyết tiền lệ phí yêu cầu công nhận và cho thi hành trong trường đình chỉ việc xét
đơn yêu cầu hiện nay pháp luật Việt Nam chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể, dẫn đến việc có
tòa đã trả lại số tiền lệ phí đương sự đã nộp là không đúng.
Các khó khăn, vướng mắc trên rất cần được nghiên cứu, tháo gỡ.
3.2. Phƣơng hƣớng và giải pháp hoàn thiện các quy định về công nhận và cho thi hành
bản án, quyết định dân sự của tòa án nƣớc ngoài tại Việt Nam
3.2.1. Phương hướng
Thứ nhất, phải thể chế hóa các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, mục tiêu, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tương trợ tư pháp.
Thứ hai, phải đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp; đảm bảo tính khả thi, tính thống nhất trong
Bộ luật Tố tụng dân sự.
Thứ ba, phải đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật Việt Nam.
Thứ tư, phải đảm bảo cụ thể hóa và không có sự xung đột giữa các quy định trong Bộ luật Tố
tụng dân sự với các quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đồng thời cần
chủ động, tích cực hội nhập pháp luật quốc tế về vấn đề này.
Thứ năm, phải đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, đảm bảo quyền
và lợi ích của nhà nước và của xã hội.
Thứ sáu, phải đảm bảo trình tự và thủ tục tố tụng dân sự dân chủ, công khai, đơn giản, công
bằng, thuận lợi cho người tham gia tố tụng dân sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình;
đảm bảo quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân; đồng thời đề cao vai trò và trách
nhiệm của các nhân, cơ quan nhà nước trong hoạt động tố tụng dân sự.
Thứ bảy, phải đảm bảo các bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài đã được Tòa
án Việt Nam công nhận và cho thi hành phải được thi hành.
Thứ tám, phải đảm bảo tính kế thừa, trên cơ sở tổng kết, đánh giá các quy định của pháp luật
hiện hành, kinh nghiệm và thực tiễn giải quyết các yêu cầu công nhận và cho thi hành.
Thứ chín, cần tham khảo và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm pháp luật các nước, pháp luật
quốc tế về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài.
3.2.2. Các giải pháp
3.2.2.1 Các giải pháp về xây dựng pháp luật về công nhận và cho thi hành bản án, quyết
định dân sự của tòa án nước ngoài tại Việt Nam
Thứ nhất, ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng các quy định tại phần thứ sáu của Bộ
luật Tố tụng dân sự về thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự
của toà án nước ngoài.
Nam hai, cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, thay thế mới các hiệp định tương trợ pháp Việt
Nam ký kết với các nước.
Thứ ba, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác, đàm phán, ký kết các hiệp định song phương, xúc
tiến việc ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế đa phương trong lĩnh vực tương trợ tư pháp về
dân sự.
Thứ tư, tiếp tục việc nội luật hóa các điều ước quốc tế.
Thứ năm, cần sửa đổi, bổ sung các quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự về công nhận và
thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài. Cụ thể:
Sửa đổi các quy định về khái niệm bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài, thời hạn
chuẩn bị xét đơn yêu cầu, điều kiện công nhận và cho thi hành.
Bổ sung các quy định về tạm đình chỉ việc xét đơn yêu cầu, trình tự, thủ tục tiến hành phiên
họp, về thẩm quyền của tòa án và hội đồng xét đơn về thủ tục giám đốc thẩm, thủ tục đương
nhiên công nhận bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại Việt Nam.
Thứ sáu, hướng dẫn, sửa đổi, bổ sung các quy định trong Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án
năm 2009 theo hướng: Quy định một mức lệ phí chung, thống nhất là: Lệ phí sơ thẩm và lệ phí
phúc thẩm và bổ sung quy định về xử lý tiền lệ phí công nhận trong các trường hợp đình chỉ, tạm
đình chỉ hoặc trả lại đơn yêu cầu.
Thứ bảy, sửa đổi Luật Thi hành án dân sự năm 2008 theo hướng bổ sung quy định về việc
chuyển tiền, tài sản thi hành án từ Việt Nam ra nước ngoài.
Thứ tám, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để tạo cơ sở
pháp lý, sự thống nhất trong hoạt động công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa
án nước ngoài.
Thứ chín, sửa đổi, bổ sung Luật Tương trợ tư pháp theo hướng bổ sung thêm nội dung công
nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài.
3.2.2.2. Các giải pháp về thi hành pháp luật về công nhận và cho thi hành bản án, quyết
định dân sự của tòa án nước ngoài tại Việt Nam
Thứ nhất, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức pháp luật về công nhận và
cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài cho các tổ chức, cá
nhân.
Thứ hai, tăng cường sự phối kết hợp giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt
động công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài.
Thứ ba, đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc triển khai các giải pháp xây
dựng và áp dụng pháp luật về công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự
của toà án nước ngoài.
Thứ tư, tiếp tục bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ, hiểu biết pháp luật về công nhận và
cho thi hành đối với đội ngũ cán bộ trực tiếp giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam bản án, quyết định dân sự của toà án công ngoài.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác kiểm tra, nhận xét án, thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm
trong công tác xét đơn yêu cầu công nhận và cho hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự
của tòa án nước ngoài.
Thứ sáu, đẩy mạnh công tác thống kê, báo cáo về kết quả thụ lý, giải quyết đơn yêu cầu công
nhận và cho thi hành hoặc đơn yêu cầu không công nhận bản án, quyết định dân sự của tòa án
nước ngoài.
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động công nhận và cho thi hành bản án, quyết định
dân sự của tòa án nước ngoài tại Việt Nam, cần thiết phải tiến hành đồng bộ các giải pháp trên.
Bởi lẽ, các giải pháp này liên quan chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau, tạo điều kiện và tiền đề
cho nhau.
Kết luận chương 3
Trên cơ sở các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về công nhận và cho thi hành
bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại Việt Nam, chúng tôi đề xuất một số kiến
nghị sau:
Một là, cần tăng cường hơn nữa hoạt động hợp tác trong lĩnh vực tương trợ tư pháp giữa Việt
Nam với các nước.
Hai là, cần tăng cường việc nghiên cứu, tham gia các thiết chế đa phương về vấn đề công
nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài.
Ba là, cần sửa đổi, bổ sung những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật quốc gia
như Bộ luật Tố tụng dân sự, Hiến pháp, Luật Thi hành án dân sự, Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án
về vấn đề công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại Việt
Nam.
Bốn là, tăng cường sự hợp tác, phối kết hợp giữa Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân, Viện kiểm
sát nhân dân trong hoạt động công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án
nước ngoài tại Việt Nam.
Năm là, cần nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, hiểu biết pháp luật về công nhận và
cho thi hành đối với đội ngũ cán bộ trực tiếp giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam bản án, quyết định dân sự của toà án công ngoài.
KẾT LUẬN
Công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài là một vấn đề còn
khá mới đối với Việt Nam, được Đảng và Nhà nước ta xác định là một nội dung về xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về hội nhập quốc tế.
Việc nghiên cứu một cách tổng thể, đặc biệt là hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề công
nhận và cho thi hành có ý nghĩa rất quan trọng và đang được các nhà lý luận, các cơ quan hoạt
động tư pháp quan tâm. Với hy vọng xây dựng một hệ thống pháp luật về công nhận và cho thi
hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại Việt Nam hoàn thiện, phát triển, đáp
ứng các yêu cầu thực tiễn đề ra, nhất là yêu cầu cầu hội nhập quốc tế, việc nghiên cứu đề tài
"Hoàn thiện pháp luật về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước
ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế" đã đạt được một số kết quả sau:
- Trình bày một cách khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về công nhận và thi hành bản án,
quyết định dân sự của tòa án nước ngoài tại Việt Nam.
- Trình bày một số mô hình pháp luật về công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự
của tòa án nước ngoài của các nước, các quy định quốc tế về vấn đề này để từ đó rút ra những bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam.
- Thực hiện nghiên cứu, phân tích và đánh giá cơ sở, thực trạng pháp luật Việt Nam về công
nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về công nhận và thi
hành bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài.
Là đối tượng của khoa học pháp lý, vấn đề công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết
định dân sự của tòa án nước ngoài còn mang tính mới đối với Việt Nam nên trong thời gian qua đã
bộc lộ nhiều vướng mắc, bất cập, một số quy định chưa rõ ràng và còn có nhiều cách hiểu. Các quy
định pháp luật về vấn đề này còn chưa được đồng bộ, thống nhất, thiếu văn bản hướng dẫn, đòi hỏi
trước tiên là cần tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề này.
Để góp phần áp dụng đúng các quy định pháp luật, đồng thời nhằm thúc đẩy quá trình hội
nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay thì cần thiết phải nghiên cứu các quy định
của pháp luật về vấn đề này. Tác giả hy vọng những kết quả khiêm tốn của đề tài luận văn sẽ góp
phần nhỏ vào việc hoàn thiện pháp luật về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự
của tòa án nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, với khả năng
nghiên cứu của tác giả còn nhiều hạn chế nên luận văn không tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy, kính
mong được sự quan tâm, thông cảm và đóng góp của các thầy, cô giáo và những người quan tâm
đến vấn đề này.
References
1. Dư Ngọc Bích (2008), "Lựa chọn mô hình điều chỉnh của luật về công nhận, thi hành bản án
dân sự, thương mại của Tòa án nước ngoài", Nghiên cứu lập pháp, (21), tr. 11-15.
2. Nông Quốc Bình (2001), "Nguyên tắc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án,
quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài", Luật học, (2), tr. 12-17.
3. Bộ Tư pháp (2000), Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự
giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước ngoài, Hà Nội.
4. Bộ Tư pháp (2011), Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý ký kết giữa Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và các nước (2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Bộ Tư pháp (2011), Báo cáo sơ kết ba năm thi hành Luật tương trợ tư pháp, Hà Nội.
6. Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại
giao (1984), Thông tư liên bộ số 139-TT/LB ngày 12/3 về việc thi hành các Hiệp định tương
trợ tư pháp và pháp lý vè vấn đề dân sự, gia đình, hình sự, Hà Nội.
7. Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1993), Thông tư liên
ngành số 04/TTLN ngày 24/7 hướng dẫn thực hiện một số quy định của Pháp lệnh công
nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam, Hà Nội.
8. Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao,Tòa án nhân dân tối cao (2011). Thông tư liên tịch số
15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC, ngày 15/9 hướng dẫn áp dụng một số quy định về
tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự của luật tương trợ tư pháp, Hà Nội.
9. Các công ước về giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế (2009), Nxb Lao động, Hà
Nội.
10. Chính phủ (1997), Nghị định số 70/CP ngày 12/6 về án phí, lệ phí Tòa án, Hà Nội.
11. Đỗ Văn Đại (2010), Tư pháp quốc tế Việt Nam, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đại học quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,
Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ Chính trị về
chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
15. Hoàng Phước Hiệp (2002), Chuyên đề về vấn đề thi hành án có yếu tố nước ngoài - thực trạng
và giải pháp, Đề tài cấp Nhà nước độc lập, Bộ Tư pháp.
16. Jean Derruppé (2005), Tư pháp quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Nguyễn Công Khanh (1999), "Những vướng mắc từ việc công nhận và thi hành tại Việt
Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài", Tòa án nhân dân, (11), tr. 1-5.
18. Nguyễn Công Khanh (2000), "Cần tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động tương trợ tư pháp quốc
tế ở nước ta", Dân chủ và pháp luật, (3), tr. 12-14.
19. Vũ Đức Long (2002), Chuyên đề về vấn đề công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự
của tòa án nước ngoài và quyết định của trọng tài nước ngoài, Đề tài cấp nhà nước độc lập,
Bộ Tư pháp.
20. Đoàn Năng (2001), Một số vấn đề lý luận cơ bản về tư pháp quốc tế, Nxb chính trị quốc gia, Hà
Nội.
21. Nhà pháp luật Việt - Pháp (2000), Hội thảo về pháp luật tố tụng dân sự Pháp, Hà Nội.
22. Nguyễn Như Phát (2001), "So sánh tổng quan hệ thống pháp luật Hoa Kỳ và Việt Nam",
Trong sách: Tìm hiểu pháp luật Hoa Kỳ trong điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Lê Thế Phúc (2009), Cơ sở lý luận và thực tiễn thi hành quy định về công nhận và thi hành
tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài
nước ngoài, Đề tài nghiên cứu khoa học, Viện Khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối cao.
24. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
25. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
26. Quốc hội (2002), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.
27. Quốc hội (2004), Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.
28. Quốc hội (2005), Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, Hà Nội.
29. Quốc hội (2007), Luật Tương trợ tư pháp, Hà Nội.
30. Quốc hội (2008), Luật Thi hành án dân sự, Hà Nội.
31. Quốc hội (2011), Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
32. Lê Minh Thông (1998), "Vai trò của Nhà nước trong trật tự kinh tế thị trường ở Việt Nam",
Nhà nước và pháp luật, (10), tr. 11-12.
33. Tòa án nhân dân tối cao (1974), Thông tư số 11/TATC ngày 12/7 hướng dẫn một số vấn đề
về nguyên tắc và thủ tục trong việc giải quyết những việc ly hôn có yếu tố nước ngoài, Hà
Nội.
34. Tòa án nhân dân tối cao (2010), Báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật sửa đổi bổ
sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội.
35. Tòa án nhân dân tối cao (2011), Báo cáo tóm tắt về kết quả công tác năm 2011 và nhiệm vụ
trọng tâm công tác năm 2012 của ngành Tòa án nhân dân, Hà Nội.
36. Tòa án nhân dân tối cao (2011), Báo cáo tổng kết công tác năm 2011 và nhiệm vụ trọng tâm
công tác năm 2012 của ngành Tòa án nhân dân, Hà Nội.
37. Hoàng Bảo Trang (2004), " Xung quanh việc thi hành án, quyết định dân sự của tòa án nước
ngoài và quyết định của trọng tài nước ngoài", Dân chủ và pháp luật, (9), tr.35-36.
38. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội.
39. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật tố tụng dân sự, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.
40. Bành Quốc Tuấn (2011), "Hoàn thiện pháp luật về công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài" Nghiên cứu lập pháp, (5), tr. 41-46.
41. Đào Trí Úc (1993), Những vấn đề lý luận cơ bản về Nhà nước và pháp luật, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
42. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1993), Pháp lệnh Công nhận và thi hành bản án, quyết định
dân sự của tòa án nước ngoài tại Việt Nam, Hà Nội.
43. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2009), Pháp lệnh Án phí, lệ phí Tòa án, Hà Nội.
44. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Hà Nội.
45. Viện Khoa học pháp lý (2002), Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga, (Tài liệu dịch tham
khảo), Hà Nội.
46. Viện Khoa học pháp lý (2002), Điều lệ Tố tụng dân sự Đức, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
47. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học, Nxb Từ điển Bách khoa -
Nxb Tư pháp, Hà Nội
48. Viện Nghiên cứu Khoa học và pháp lý (1997), Kết quả nghiên cứu hoạt động tương trợ tư
pháp của các nước trên thế giới, Hà Nội.
49. Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.