Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Quá trình hình thành phát triển và thành tựu của nền văn minh arab

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (677.11 KB, 28 trang )

MỤC LỤC1
PHẦN MỞ ĐẦU3
1. Lý do chọn đề đề tài3
2. Tổng quan nghiên cứu đề tài3
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu4
3.1.

Mục tiêu nghiên cứu4

3.2.

Nhiện vụ nghiên cứu4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu4
4.1.

Đối tượng nghiên cứu4

4.2.

Phạm vi nghiên cứu4

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu4

6.

5.1.

Cơ sở lý luận4

5.2.



Phương pháp nghiên cứu5

Kết cấu của bài tiểu luận5

PHẦN I: VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA BÁN ĐẢO ARAB6
1.1. Tổng quan về lịch sử văn minh nhân loại cho đến trước thế kỉ VII6
1.2. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của bán đảo Arab7
PHẦN II: SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC ARAB9
2.1. Tình hình bán đảo Arab trước khi nhà nước ra đời9
2.2. Sự ra đời của nhà nước Arab10
2.3. Quá trình phát triển của đế quốc Arab 13
2.3.1. Thời kì cai trị của bốn vị Khalifah Rashidun (632 - 661)13
2.3.2. Vương triều Umayyad (661 - 750)15
2.3.3. Triều đại nhà Abbas và sự suy vong của nhà nước Arab (750 - 1258)16
0


PHẦN III: NHỮNG THÀNH TỰU CỦA NỀN VĂN MINH ARAB19
3.1. Hồi giáo19
3.2. Khoa học xã hội21
3.3. Khoa học tự nhiên22
3.4. Kĩ thuật - Kiến trúc22
KẾT LUẬN24
TÀI LIỆU THAM KHẢO25
PHỤ LỤC26

1



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nền văn minh Arab là một trong những nền văn minh hết sức nổi bật và mang lại
nhiều đóng góp cho nhân loại thông qua các thành tựu quan trọng. Lịch sử về sự ra đời và
phát triển của nền văn minh Arab cũng trải qua rất nhiều thời kì với nhiều biến động trong
nội bộ xã hội Arab, cũng như những ảnh hưởng trong quá trình bành trướng và mở rộng
lãnh thổ của người Arab. Và cùng với đó là những thành tựu hết sức quan trọng của nền
văn minh Arab đối với lịch sử phát triển của loài người, những thành tựu này bao gồm cả
các phát minh mới và những sự thay thế, sửa đổi với mục đích phát triển các thành tựu
trước đó nhân loại đã đạt được. Nhận thấy đây là một vấn đề vẫn còn nhiều yếu tố để
nghiên cứu và khai thác, tôi lựa chọn đề tài Quá trình hình thành phát triển và những
thành tựu của nền văn minh Arab cho bài tiểu luận của mình.
2. Tổng quan nghiên cứu đề tài
So với các nền văn minh khác trên thế giới thì nền văn minh Arab xuất hiện muộn
hơn rất nhiều. Nếu như các nền văn minh khác ở phương Đơng chủ yếu được hình thành
từ khoảng thiên niên kỉ IV-III TCN, như ở Ai Cập vào khoảng giữa thiên niên kỉ IV TCN,
cư dân đã sống tập trung và đông đúc quanh lưu vực sông Nile, hay ở Lưỡng Hà cũng vào
khoảng thiên niên kỉ IV TCN đã có hàng chục nhà nước nhỏ của người Sumer hình thành
quanh lưu vực sơng Tigris và Euphrates, hay xa hơn thì vào khoảng thế kỉ XXI TCN,
Vương triều nhà Hạ ở Trung Quốc được hình thành, mở đầu cho xã hội có giai cấp và nhà
nước ở Trung Quốc. Trong khi đó, mãi đến đầu thế kỉ VII, cư dân ở bán đảo Arab vẫn còn
đang sống thành từng thị tộc hoặc bộ lạc. Mặc dù vậy, trong các bộ lạc này đã có sự phân
hóa giai cấp khá rõ ràng. Tầng lớp quý tộc thị tộc đã trở thành những kẻ có nhiều đặc
quyền và của cải. Điều này đã tạo điều kiện cho sự hình thành của nền văn minh Arab vào
thế kỉ VII. Cùng với sự hình thành phát triển của nền văn minh Arab thì cũng đã có rất
nhiều những thành tựu kèm theo, trong đó khơng thể khơng nhắc tới Hồi giáo - một trong
những thành tựu quan trọng nhất trong quá trình phát triển của nền văn minh Arab và có
sự ảnh hưởng to lớn đối với lịch sử văn minh nhân loại. Sự hình thành phát triển và những

2



thành tựu của nền văn minh Arab là một trong những q trình có sức ảnh hưởng rất lớn
và đã có nhiều đóng góp vào kho tàng tri thức của nhân loại.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.

Mục tiêu nghiên cứu:

Bài tiểu luận có mục tiêu nghiên cứu về quá trình hình thành phát triển và thành tựu
của nền văn minh Arab. Từ đó, phân tích những sự ảnh hưởng của nền văn minh Arab
trong lịch sử cho đến ngày nay.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu:

Để đạt được mục tiêu đề ra, bài nghiên cứu sẽ có những nhiệm vụ sau:
-

Sơ lược tổng quan về tình hình thế giới cũng như ở bán đảo Arab trước khi có
xuất hiện nhà nước.

-

Nghiên cứu về quá trình hình thành và sự ảnh hưởng của Muhammad đối với sự
ra đời của nhà nước Arab.

-

Tìm hiểu về lịch sử phát triển của nhà nước Arab qua các thời kì


-

Nghiên cứu những thành tựu đã đạt được của nền văn minh Arab

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu chính của bài tiểu luận đó là về q trình hình thành cũng như
phát triển của nền văn minh Arab, cùng với đó là những thành tựu mà nền văn minh Arab
mang lại cho lịch sử nhân loại.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu:

-

Về mặt thời gian: từ thế kỉ VII đến thế kỉ XIII

-

Về mặt không gian: bán đảo Arab và Đế quốc Arab

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.

Cơ sở lý luận


Bài nghiên cứu vận dụng cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự ra đời của
nhà nước, bản chất, vai trò và chức năng xã hội của nhà nước. Ngoài ra bài nghiên cứu
cũng tiếp thu và vận dụng những kết quả của các cơng trình nghiên cứu khác về lịch sử
Arab.
3


5.2.

Phương pháp nghiên cứu

Trong bài nghiên cứu này, tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử, phân tích,
tổng hợp, đối chiều và so sánh, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu liên ngành khác.
Ngồi ra có sử dụng một số lý thuyết của việc nghiên cứu các môn khoa học tự nhiên như
địa lý, toán học, …
6. Kết cấu của bài tiểu luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của bài tiểu luận
bao gồm ba phần:
Phần I: Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của bán đảo Arab
Phần II: Sự ra đời và phát triển của nhà nước Arab
Phần III: Những thành tựu của nền văn minh Arab

4


PHẦN I:
VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA BÁN ĐẢO ARAB
1.1.

Tổng quan về lịch sử văn minh nhân loại cho đến trước thế kỉ VII


Cho đến trước thế kỉ thứ VII, nền văn minh của nhân loại đã có những sự phát triển
vượt bậc. Sự xuất hiện của các công cụ bằng kim loại từ cách ngày nay khoảng 5000 năm
đã đánh dấu cho sự kết thúc của xã hội nguyên thủy và mở ra thời đại văn minh trong lịch
sử nhân loại. Ở Phương Đông, ngay từ thiên niên kỉ IV TCN, đã có sự ra đời của nhiều
nền văn minh xung quanh lưu vực của các dịng sơng lớn như sơng Nile ở Ai Cập; sông
Tigris và Euphrates ở Lưỡng Hà; sông Ấn, sông Hằng ở Ấn Độ; sơng Hồng Hà, sơng
Trường Giang ở Trung Quốc.
Do nằm ở lưu vực của những con sông lớn, có điều kiện tự nhiên thuận lợi, cư dân ở
những khu vực này đã phát triển nên nền kinh tế nơng nghiệp và chăn ni gia súc, cùng
với đó là sự tiến bộ trong lĩnh vực luyện kim. Việc sản xuất các tài nguyên kinh tế đã dẫn
đến hệ quả tất yếu về sự phân hóa xã hội, xuất hiện các tầng lớp trong xã hội. Trên cơ sở
đó, giai cấp và nhà nước lần lượt ra đời xung quanh lưu vực các con sông lớn ở Phương
Đông. Cùng với sự ra đời của các nền văn minh đó là những thành tựu vô cùng quan trọng
trong lịch sử nhân loại. Đây là thời kì mà lần đầu tiên con người có chữ viết, có những
khái niệm sơ khai về các ngành khoa học như toán học, thiên văn, lịch pháp, … cùng với
đó là những cơng trình kiến trúc vô cùng nổi bật như kim tự tháp ở Ai Cập hay những khu
đền tháp ở Ấn Độ.
Trong khi đó, ở Phương Tây, nền văn minh có sự hình thành muộn hơn, vào khoảng
thiên niên kỉ I TCN, tập trung chủ yếu ở khu vực Địa Trung Hải. Giống như ở khu vực
Tây Á và Ai Cập, nền văn minh ở khu vực Địa Trung Hải cũng bắt nguồn từ nền kinh tế
nông nghiệp và thủ công nghiệp. Trên cơ sở đó, đã tồn tại hai nền văn minh Hy Lạp và La
Mã phát triển cao về kinh tế và xã hội, có nền văn hóa vơ cùng rực rỡ, có nhiều thành tựu
quan trọng đối với nền văn minh nhân loại.

5


1.2.


Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên của bán đảo Arab

Bán đảo Arab là bán đảo lớn nhất thế giới nằm ở Tây Nam của châu Á, có diện tích
bằng ¼ châu Âu. Bán đảo Arab được giới hạn bởi vịnh Ba Tư ở phía đơng bắc, eo biển
Hormuz về phía đơng, tiếp giáp với biển Arab về phía đơng nam và nam, với vịnh Aden ở
phía nam. Phía tây và tây bắc tiếp giáp với biển Đỏ. Phần phía bắc của bán đảo nối liền
với hoang mạc Syria. Khu vực này có sự khác biệt so với các nền văn minh khác đó là
khơng nằm quanh lưu vực của bất kì con sơng lớn nào. Nhưng bán đảo Arab lại có một lợi
thế khác đó là nằm trên con đường thương mại quan trọng trong thời cổ đại, nối liền các
châu lục Âu, Á, Phi với nhau bằng cả đường thủy lẫn đường bộ, tạo điều kiện thuận lợi
cho phát triển thương nghiệp.
Tuy nhiên, bán đảo Arab vẫn là một vùng hoang mạc rộng lớn. Phần lớn đất đai ở
đây là sa mạc và bãi cỏ, nguồn nước ngọt vơ cùng hiếm. Khí hậu nơi đây thì cũng rất khắc
nghiệt để có thể sinh sống. Ban ngày, trời nắng nóng liên tục, khơng khí khơ hạn, hơi
nóng bốc lên cả ngày, kết hợp với gió mang theo những hạt cát bỏng rát bay trong khơng
khí. Đây cũng là lí do để cư dân ở khu vực này ln có những bộ trang phục che kín tồn
bộ cơ thể. Tuy nhiên, vào ban đêm, nhiệt độ lại giảm xuống rất nhiều, có thể xuống tới
0oC, khơng khí lại chuyển qua lạnh giá. Sự chênh lệch nhiệt độ giữa ban ngày và ban đêm
ở bán đảo Arab có thể lên tới hàng chục độ. Với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như vậy
nên đa phần cư dân Arab sống tập trung thành các thị tộc và bộ lạc xung quanh các ốc đảo
rải rác trên khắp bán đảo
Chỉ có vùng Yemen ở Tây Nam bán đảo có nguồn nước phong phú, có nhiều đất
đai để canh tác nơng nghiệp và trồng một số loại cây nhiệt đới như chà là, cà phê. Với
điều kiện tự nhiên đó, vùng Yemen cũng là điểm dừng chân thuận lợi cho các thương
nhân trên con đường buôn bán từ Syria, Palestine đến Ai Cập và Ethiopia. Vì vậy, từ thế
kỉ X đến thế kỉ VI TCN, ở đây đã thành lập nhiều nhà nước cổ đại.
Dọc theo bờ biển Đỏ ở phía Tây của bán đảo Arab là vùng Hajax. Từ xa xưa, khu
vực này đã là một trong những con đường giao thương quan trọng giữa phương Đông và
phương Tây, giữa Địa Trung Hải với Ấn Độ và châu Phi. Tại đây đã xuất hiện một số
thành thị quan trọng như Mecca hay Yathrib. Như vậy, đến cuối thế kỉ VI, đầu thế kỉ VII,

6


trên bán đảo Arab đã có những nơi thành lập nhà nước, có nơi đứng trước ngưỡng cửa xã
hội có giai cấp, ngay cả ở những nơi có trình độ phát triển chậm hơn, công xã nguyên
thủy cũng đang trong quá trình tan rã.

7


PHẦN II:
SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC ARAB
2.1. Tình hình bán đảo Arab trước khi nhà nước ra đời
Trước khi nhà nước Arab được Muhammad thống nhất và truyền bá đạo Hồi, tổ
chức xã hội của người Arab chủ yếu là các thị tộc và bộ lạc. Những bộ lạc này thường
khơng có sự giao thương nhiều với nhau do điều kiện tự nhiên của bán đảo Arab gây ra
một số khó khăn trong việc di chuyển giữa các vùng. Chủ yếu, các thị tộc và bộ lạc
thường tự trị về mặt kinh tế, chính trị và tơn giáo. Ngồi ra, ở một số khu vực ven bờ biển
Đỏ hay vùng Yemen ở Tây Nam bán đảo là những nơi có điều kiện sống tốt hơn, đã hình
thành nên các thành thị như Mecca và Yathrib. Cư dân ở những thành thị này sống chủ
yếu bằng nghề chăn ni và trao đổi hàng hóa với những thương nhân đi qua khu vực
này. Tại Mecca có ngơi đền cổ Kabba, nơi đây thờ nhiều vị thần của các bộ lạc khác nhau
và một tảng đá đen được coi là biểu tượng sùng bái chung của các bộ lạc. Vào những
ngày hội hàng năm, cư dân ở khắp nơi trong vùng đều đến ngôi đền này, mang theo súc
vật, lương thực để đổi lấy các mặt hàng dệt may, sản phẩm thủ cơng, vũ khí, … Đây cũng
là nơi mà qua đó các quý tộc ở Mecca thu được nhiều của cải và súc vật, tích lũy được
một lượng lớn tài sản. Và dần dần tạo ra sự phân hóa về giai cấp trong xã hội.
Từ thế kỉ VII, do có vị trí quan trọng về mặt thơng thương giữa phương Đông và
phương Tây, Arab đã trở thành mục tiêu tranh giành của Đế quốc Đông La Mã và Ba Tư.
Những cuộc chiến tranh để chiếm lấy quyền kiểm soát bán đảo Arab diễn ra trong hàng

chục năm. Đến năm 572, người Ba Tư kiểm soát được vùng Yemen, khống chế được con
đường buôn bán từ Yemen qua miền Tây Arab đến Syria, kiểm soát con đường đi lại giữa
vùng Địa Trung Hải với Ấn Độ - Ba Tư, bắt buộc những đội buôn từ Ấn Độ đến Đế quốc
Đơng La Mã phải đi qua Ba Tư, khơng cịn được đi qua Yemen như trước. Điều đó đã
làm cho việc buôn bán ở Arab suy yếu hẳn. Cư dân ở vùng Yemen khơng thể trao đổi
hàng hóa với những thương nhân, nền kinh tế ngày càng suy thoái. Tầng lớp quý tộc cũng
bị ảnh hưởng dẫn đến phải thay đổi, giảm bớt việc buôn bán và chuyển qua cho vay nặng
lãi. Dần dần, những mâu thuẫn về giai cấp ở Arab ngày càng trở nên gay gắt. Người dân
bị nghèo đói và bần cùng hóa đã liên kết với tầng lớp nô lệ để nổi dậy chống lại sự thống
8


trị của giới quý tộc. Trong khi đó, tầng lớp quý tộc ở các thị tộc, bộ lạc cũng nhận thấy
cần phải liên kết với nhau để bảo vệ quyền lợi của mình.
Từ những hồn cảnh đó, nhu cầu về việc các thị tộc, bộ lạc liên kết lại với nhau để
thành lập nên một quốc gia thống nhất của người Arab đã xuất hiện, cùng với đó là những
cơ sở tương đối đầy đủ để bước vào thời kì của xã hội có giai cấp. Chính những yếu tố
này đã tạo tiền đề cho sự ra đời của nhà nước Arab.
2.2. Sự ra đời của nhà nước Arab
Trong điều kiện về sự cần thiết của việc hình thành nên một quốc gia thống nhất của
người Arab, Hồi giáo, một tôn giáo mới chủ trương thờ nhất thần, không phân biệt bộ lạc,
bộ tộc, tất cả đều là anh em đã ra đời và đóng góp yếu tố quan trọng trong việc thống nhất
bán đảo Arab. Từ đó, sự ra đời của nhà nước Arab đã gắn liền với quá trình hình thành
của Hồi giáo do Muhammad truyền bá.
Muhammad (570 - 632) xuất thân từ một bộ lạc thế lực ở Mecca. Khoảng năm 610,
ông bắt đầu đi truyền bá đạo Hồi. Trong 12 năm đầu tiên, Muhammad chỉ lôi kéo được
một số ít người đi theo tơn giáo mới. Trong giai đoạn này, tầng lớp quý tộc Quraysh ở
Mecca đã nhận thấy những mối nguy hại của tôn giáo mới với chủ trương chỉ thờ một vị
thần sẽ phủ nhận đi sự sùng bái các vị thần của các bộ lạc, do đó sẽ làm mất đi ý nghĩa là
trung tâm tơn giáo ở Arab của Mecca, từ đó số lượng người hàng năm đến Mecca để hành

hương cũng như tham gia các phiên chợ ở Mecca sẽ giảm, kéo theo đó là địa vị chính trị
và kinh tế của Mecca cũng giảm theo. Vì vậy, trong thời gian đầu, tầng lớp quý tộc
Quraysh ở Mecca đã kịch liệt chống lại Hồi giáo và tiền hành hãm hại những tín đồ của
tơn giáo mới này.
Đến năm 622, Muhammad cùng các tín đồ của mình đã phải trốn khỏi thành Mecca,
chạy lên Yathrib ở phía Bắc. Tại đây, Muhammad được các tầng lớp trên của bộ lạc giúp
đỡ, tạo điều kiện để có thể truyền bá rộng rãi Hồi giáo. Cũng trong năm 622, Muhammad
tự xưng mình là tiên tri, kỉ nguyên Hồi giáo chính thức được mở ra từ đây. Cùng với sự
kiện đó, thành phố Yathrib được đổi tên thành Medina (nghĩa là thành phố của Tiên tri).
Tại Medina, với sự truyền bá của Muhammad về một tôn giáo mới, nhiều cư dân nơi đây
9


dù trước đó là các tín đồ Cơng giáo nhưng sau đó đã chuyển sang đạo Hồi. Cộng đồng
Hồi giáo đã phát triển hết sức mạnh mẽ. Chỉ sau một thời gian ngắn, Muhammad dần
thành lập được một lực lượng chính trị kết hợp với tơn giáo do ơng chỉ huy. Để duy trì
được lực lượng ngày càng lớn mạnh này, Muhammad thường xun tập kích các đội bn
của Mecca trên đường đến Syria. Điều này đã gây ra nhiều thiệt hại về kinh tế đối với giới
quý tộc Quraysh ở Mecca. Uy tín của Muhammad ngày càng được tăng lên, tạo ra sức ảnh
hưởng lớn hơn của Hồi giáo ở bán đảo Arab. Một số bộ lạc du mục ở Hajax từ trước vẫn
có quan hệ hịa bình với người Quraysh cũng đã dần dần chuyển sang ủng hộ Muhammad,
kéo theo đó là nhiều cuộc chiến tranh giữa Medina và Mecca nổ ra.
Năm 627, sau hai cuộc tấn công bất thành của Mecca vào Medina, giới lãnh đạo ở
Mecca đã đi đến mong ước kí một thỏa hiệp đình chiến với Medina. Đến năm 628,
Muhammad kí hịa ước với Mecca, tạm ngừng chiến tranh trong vòng 10 năm. Năm 629,
để thuyết phục giới quý tộc Quraysh về những ý định hịa bình của người Medina,
Muhammad đã dẫn 2000 tín đồ ở Medina hành hương đến Mecca và đến thăm đền Kaaba.
Chuyến đi này của Muhammad cũng đã thu hút được nhiều người ở Mecca và những
vùng xung quanh theo Hồi giáo.
Năm 630, nhận thấy mình đã đủ thế và lực để chiếm Mecca, Muhammad dẫn đầu

một lực lượng lên đến 10000 tín đồ Hồi giáo có vũ trang, tiến xuống thành phố này.
Mecca không dám chống cự và đã buộc phải có những thỏa thuận với Muhammad. Điều
này đã giúp cho Muhammad dễ dàng chiếm được Mecca. Người Mecca đã phải thừa nhận
Muhammad là một bậc tiên tri của Hồi giáo, đồng thời là lãnh tụ chính trị của Arab. Cùng
với đó, người dân Mecca cũng chuyển sang theo Hồi giáo. Muhammad trở thành người
đứng đầu nhà nước Arab mới thành lập. Những bức tượng thần của các bộ lạc trong đền
Kaaba bị đem đi vứt bỏ, chỉ giữ lại khối đá đen làm vật thờ của Hồi giáo. Đền Kaaba trở
thành thánh thất chính của Hồi giáo và Mecca thành thánh địa của Hồi giáo cho đến ngày
nay. Trong khi đó, nhờ những thỏa hiệp với Muhammad, những người giàu có ở Mecca
đã khơng hề gặp phải chút ảnh hưởng gì tới quyền lợi của họ. Ngược lại, họ nhanh chóng
nhận ra rằng cịn có kiếm thêm được một nguồn lợi đáng kể khi giờ đây Mecca lại trở
thành một trung tâm tín ngưỡng của một tơn giáo mới đang phát triển hết sức mạnh mẽ,
10


đạt được những điều kiện tốt nhất để phát triển cả về chính trị lẫn kinh tế. Ngồi ra, những
người Quraysh thuộc tầng lớp trên hồn tồn có thể trơng đợi vào phần chiến lợi phẩm mà
đội quân Hồi giáo mang lại cho họ sau khi tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược và mở
rộng lãnh thổ.
Với việc Muhammad trở thành lãnh tụ cả về tơn giáo lẫn chính trị ở bán đảo Arab,
cùng với sự ủng hộ của các quý tộc ở Mecca và Medina, cũng như từ các bộ lạc khác đã
dần hình thành nên giai cấp thống trị ở bán đảo Arab. Sự chinh phục Mecca của
Muhammad cũng đã góp phần thúc đẩy và tạo ra sự thuận lợi cho q trình Hồi giáo hóa
bán đảo Arab. Đến năm 632, về cơ bản, trên bán đảo Arab đã hình thành nên một nhà
nước thống nhất về lãnh thổ cũng như chính trị.

11


2.3. Quá trình phát triển của đế quốc Arab

2.3.1. Thời kì cai trị của bốn vị Khalifah Rashidun (632 - 661)
Năm 632, Muhammad qua đời, những người đứng đầu nhà nước và tơn giáo ở Arab
sau đó được gọi là Khalifah (nghĩa là người kế thừa của tiên tri). Thời kì từ năm 632 đến
661, trong khoảng 30 năm sau khi Muhammad chết là giai đoạn cai trị của bốn vị
Khalifah Rashidun, bao gồm: Abu Bkar (632 - 634); Omar bin Khattab (634 - 644);
Othman bin Affan (644 - 656) và Ali bin Abu Talib (656 - 661). Đây là các vị Khalifah
mà trước đó là con hoặc bạn chiến đấu cùng với nhà tiên tri Muhammad, được giai cấp
quý tộc bầu ra.
Vương triều của các Khalifah Rashidun là thời kì mở đầu cho sự phát triển của nhà
nước Arab. Các Khalifah đã sử dụng đạo Hồi như một công cụ để củng cố cơ cấu xã hội
trong nước cũng như chính sách chinh phục rộng lớn ra bên ngồi lãnh thổ Arab. Ngay từ
thời kì cai trị của Khalifah Abu Bkar, Arab đã bắt đầu tiến hành các cuộc chiến tranh xâm
lược đất đai của Đế quốc Đông La Mã cũng như của Ba Tư. Đến năm 636, Arab chinh
phục được Syria, sau đó lần lượt là Palestine năm 638, Ai Cập năm 642, Ba Tư năm 651.
Như vậy, ngay từ giữa thế kỉ VII, Arab không những đã thống nhất được lãnh thổ
của mình, mà cịn chinh phục được nhiều vùng đất xung quanh. Trong thời kì đỉnh cao
nhất của vương triều Rashidun, Arab kiểm soát phần lớn đất đai ở bán đảo Arab, vùng
Cận Đông, vùng Kavkaz ở phía Bắc và một phần ở Bắc Phi.
Tuy nhiên, trong thời kì đầu của nhà nước Arab thống nhất, việc xảy ra những mâu
thuẫn trong xã hội là điều không tránh khỏi. Trong khi các Khalifah đầu tiên của nhà nước
Arab là Abu Bkar hay Omar bin Khattab vẫn cố gắng duy trì các nguyên tắc về sự bình
đẳng trong xã hội cũng như giữa các tín đồ Hồi giáo. Thì đến giai đoạn trị vì của Khalifah
Othman bin Affan thuộc họ Umayyad, chính quyền Arab đã thể hiện tính chất chuyên chế
của giai cấp quý tộc một cách rõ rệt. Tất cả mọi chức vị cao cấp trong chính quyền đều rơi
vào tay của những người thân thích trong gia đình Othman, cịn lại những vai trị khác ít
quan trọng hơn cũng rơi vào tay các tù trưởng bộ lạc có liên hệ với Khalifah. Đồng thời,
cũng khuyến khích các quý tộc ở Arab ở Syria, Ai Cập và các nơi bị chinh phục khác
12



chiếm đoạt ruộng đất của cư dân bản địa. Điều này đã một lần nữa thổi bùng lên những
mâu thuẫn giữa quần chúng nhân dân và giai cấp thống trị.
Lợi dụng sự bất đồng trong quan hệ xã hội lúc bấy giờ, một bộ phận quý tộc thù ghét
Khalifah Othman bin Affan đã thành lập một đảng phái riêng biệt, mang tính chất chống
đối với sự cai trị của Othman. Nguyên tắc cơ bản của nhóm quý tộc này đó là thừa nhận
Ali bin Abu Talib, vốn là con chú và con rể của Muhammad cùng với dòng dõi của ông là
thủ lĩnh hợp pháp về tôn giáo và chính trị. Dần dần, ngày càng có nhiều những người bất
đồng với Khalifah Othman bin Affan tham gia theo phong trào này. Năm 656, phong trào
chống đối Othman đã đạt đến cực điểm, quần chúng nhân dân bao vây nơi ở và giết chết
Othman bin Affan. Sau đó đưa Ali bin Abu Talib lên làm Khalifah. Đây cũng là vị
Khalifah Rashidun cuối cùng.
Mặc dù Khalifah Ali bin Abu Talib được quần chúng nhân dân ủng hộ để đưa lên,
tuy nhiên, những người thuộc họ Umayyad lại khơng thừa nhận chính quyền của Khalifah
Ali bin Abu Talib. Đại biểu của nhà Umayyad là viên tổng đốc Mu’Awiya ở Syria đã gây
chiến với Ali. Mặc dù sau đó Ali bin Abu Talib đã chủ động thỏa hiệp với Mu’Awiya, tuy
nhiên điều này đã gây ra sự chia rẽ trong nội bộ dân chúng. Một số người trước đây từng
ủng hộ Ali bin Abu Talib đã thay đổi quan điểm, lập ra một giáo phái mới gọi là
Kharijites. Những người theo giáo phái Kharijites cho rằng các Khalifah phải do tồn thể
các tín đồ bầu lên, chứ không chỉ để giới quý tộc chọn lựa giữa những người bạn từng
chiến đấu với Nhà tiên tri Muhammad. Đồng thời họ cũng yêu cầu khôi phục lại những
nguyên tắc ban đầu của đạo Hồi như: tất cả mọi tín đồ đều được bình đẳng về địa vị xã
hội; ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà thờ; chế độ phân chia công bằng các chiến lợi
phẩm; … Để đạt được những yêu cầu trên, những người thuộc giáo phái Kharijites đã
nhiều lần nổi loạn, gây ra những cuộc chiến tranh với Khalifah. Điều này đã tạo ra những
sự bất ổn trong xã hội Arab thời kỳ đó, dần bước vào giai đoạn suy tàn của các Khalifah
Rashidun, mở ra thời kì mới trong lịch sử phát triển của Arab.

13



2.3.2. Vương triều Umayyad (661 - 750)
Năm 661, trong lúc tình hình xã hội đầy bất ổn, Khalifah Ali bin Abu Talib bị một
người thuộc giáo phái Kharijites giết chết. Viên tổng đốc Mu’Awiya ở Syria thuộc họ
Umayyad nhanh chóng tận dụng thời cơ, được các quý tộc ở Ai Cập và Syria lập lên làm
Khalifah, lấy hiệu là Mu’Awiya I. Sau khi lên ngôi, Mu’Awiya I đã hủy bỏ chế độ tuyển
cử Khalifah do giới quý tộc bầu ra, thành lập ra chính quyền chuyên chế, mở ra thời kì
của Vương triều Umayyad. Từ đó, ngơi Khalifah trở thành cha truyền con nối.
Triều đại Umayyad thu về nguồn lợi chính nhờ vào các q tộc chủ nơ và các
thương nhân, đặc biệt là quý tộc Hồi giáo Syria. Cũng chính vì thế mà Khalifah
Mu’Awiya I đã quyết định lựa chọn thành Damascus ở Syria là kinh đô của Vương triều
Umayyad. Và từ đó, tồn bộ bán đảo Arab cũng như một phần của Ai Cập được coi như
một thành bang của đế quốc Hồi giáo. Sau khi hoàn tất việc dẹp loạn ở Mecca và Medina
từ trước đó, triều đại Umayyad đã cho mở lại những cuộc chiến tranh bành trướng và mở
rộng ra bên ngồi.
Về phía Tây, người Arab tiếp tục tiến hành chiến tranh với Đế quốc Đông La Mã và
đã nhiều lần tấn công được vào kinh đô Constantinople của nước này. Năm 698, Arab
chiếm được Carthage, khiến cho lực lượng cịn lại của Đơng La Mã ở Bắc Phi bị tiêu diệt.
Cuộc chiến tranh giữa Arab và Đế quốc Đông La Mã tại Carthage đã khiến phần lớn cư
dân nơi đây là người Berber phải chạy trốn lên dãy Atlas. Những người Hồi giáo sau đó
đã phải mất đến hơn 70 năm để thuyết phục họ trở thành đồng minh cũng như theo đạo
Hồi. Năm 710, một lực lượng bao gồm cả người Arab và người Berber từ Tây Phi, vượt
qua eo Gibraltar, tấn công vào Tây Ban Nha của Vương quốc Visigoths. Mặc dù sau đó
đội quân của người Arab tiếp tục tiến đánh sâu vào châu Âu, tuy nhiên sau đó đã khơng
giành được bất kì kết quả gì. Vì vậy sự bành trướng xa nhất về lãnh thổ của đế quốc Arab
chỉ dừng lại ở bán đảo Tây Ban Nha.
Về phía Đơng, đế quốc Arab tiến hành những cuộc chiến tranh xâm lược tới Ấn Độ,
chiếm được Ấn Độ và một vùng rộng lớn ở Trung Á. Tại đây, người Arab thường xuyên
có những cuộc đối đầu với nhà Đường ở Trung Quốc vào khoảng cuối thế kỉ VII, đầu thế
kỉ VIII.
14



Trong suốt giai đoạn thống trị của triều đại Umayyad, Đế quốc Arab chiếm thêm
được một vùng lãnh thổ rộng lớn ở miền bắc châu Phi và bán đảo Tây Ban Nha và trải dài
đến Trung Quốc. Do đó, đến thế kỉ VIII, Arab trở thành một đế quốc rộng lớn, lãnh thổ
trải dài trên khắp cả ba châu lục là châu Á, châu Âu và châu Phi. Đây là triều đại sở hữu
phần lãnh thổ lớn nhất trong lịch sử Arab.
Mặc dù sở hữu một đội quân hùng mạnh và dễ dàng xâm chiếm một phần lãnh thổ
rộng lớn, tuy nhiên tình hình trong nước dưới triều đại Umayyad lại có khá nhiều biến
động. Đời sống nhân dân ở các vùng bị chiếm đóng vơ cùng cực khổ, vì vậy họ liên tục
nổi dậy, tiến hành các cuộc bạo động. Cùng với đó là việc có một lãnh thổ quá rộng lớn
khiến cho chính quyền trung ương ở Damascus khó có thể kiểm sốt tồn bộ. Từ đó dẫn
đến nhiều sự bất ổn trong nội bộ chính quyền, khơng đưa ra những quyết sách đúng đắn
trong việc lãnh đạo hay truyền bá Hồi giáo. Kéo theo sự ảnh hưởng về quyền lợi kinh tế
của các quý tộc. Cũng nhân cơ hội đó, nhiều lãnh chúa phong kiến khơng ngừng đánh
nhau để tranh giành quyền lợi và cướp ngôi Khalifah của nhà Umayyad. Những yếu tố
này cho thấy một sự thiếu ổn định và sự suy tàn của Triều đại Umayyad là điều tất yếu.
2.3.3. Triều đại nhà Abbas và sự suy vọng của đế quốc Arab (750 - 1258)
Vào những năm 20 của thế kỉ VIII, Abu al-Abbas - một địa chủ lớn ở Iraq và có họ
hàng với Nhà tiên tri Muhammad đã sáng lập ra phái Abbas. Phái Abbas có ý định lợi
dụng lực lượng quần chúng nhân dân với mục tiêu giành chính quyền. Hưởng ứng sự kêu
gọi của phái Abbas, người dân ở nhiều khu vực đã tham gia khởi nghĩa. Các cuộc nổi dậy
của nhà Abbas đã được hỗ trợ phần lớn bởi người Ả Rập, chủ yếu là những người định cư
ở Marw bị gây thiệt hại bởi các chính sách của nhà Umayyad cùng với sự hỗ trợ từ người
Yemen và người Mawali, những người theo đạo Hồi nhưng không phải là người Ả Rập.
Ý định khởi nghĩa để lật đổ Vương triều Umayyad của phái Abbas cũng nhận được sự
ủng hộ và đồng tình của nhiều địa chủ ở Ba Tư. Năm 747, khởi nghĩa của phái Abbas
cùng với phần đông quần chúng nhân dân nhằm chống lại chính quyền chuyên chế của
nhà Umayyad bùng nổ. Sau 3 năm đấu tranh, lực lượng quân sự của Umayyad bị đánh bại
hoàn toàn. Vị Khalifah cuối cùng của triều Umayyad là Marwan II phải bỏ chạy sang Ai


15


Cập và chết tại đó. Đây là thời điểm đánh dấu sự kết thúc của Vương triều Umayyad, mở
ra một thời kỳ mới nhưng cũng là triều đại Khalifah cuối cùng trong lịch sử Arab.
Ngay trong năm 750, Abu al-Abbas được lập nên làm Khalifah, thành lập nên triều
đại Abbas. Đến năm 762, Khalifah Abu al-Abbas đã cho dời kinh đô của đế quốc Arab từ
Damascus ở Syria sang thành Baghdad ở Iraq. Thời kỳ thống trị của Vương triều Abbas là
thời kì phát triển hưng thịnh nhất về mọi mặt của đế quốc Arab. Tuy nhiên đây cũng là
thời kỳ mà mâu thuẫn giai cấp với mâu thuẫn bộ tộc diễn ra hết sức gay gắt.
Mặc dù triều đại Umayyad đã chấm dứt ở trên lãnh thổ bán đảo Arab, tuy nhiên vẫn
còn một người thuộc dòng dõi cuối cùng của nhà Umayyad kịp chạy sang Tây Ban Nha,
thành lập nhà nước Arab Phương Tây, đặt kinh đô ở Córdoba (miền nam Tây Ban Nha).
Nhưng nhà nước này liên tục bị cư dân trong đế quốc, đặc biệt là cư dân ở những vùng bị
chinh phục nổi dậy và chống lại sự áp bức phong kiến và ách thống trị của dị tộc.
Đầu thế kỉ IX, một cuộc khởi nghĩa lớn nổ ra ở Azerbaijan, sau đó lan rộng sang
Armenia và một phần của Iran. Cuộc khởi nghĩa này được lãnh đạo bởi Barak, nhiều lúc
đã có quân số lên tới 30000 người và cũng đã nhiều lần đánh bại quân đội của các
Khalifah.
Sau nhiều cuộc khởi nghĩa thành công trên khắp lãnh thổ của Đế quốc Arab, đến thế
kỉ X, từ một đế quốc rộng lớn, có lãnh thổ trải dài trên khắp cả ba châu lục Âu, Á, Phi, giờ
đây lãnh thổ của Vương triều Abbas bị thu hẹp lại rất nhiều, chỉ còn tập trung ở một vùng
xung quanh Baghdad. Đến năm 945, Baghdad bị nhà Buyid, những người thống trị ở
miền Tây Iran đánh chiếm. Vào thời điểm này, chính quyền Khalifah ở Baghdad vẫn cịn
tồn tại trên danh nghĩa thủ lĩnh tơn giáo. Trên thực tế, Khalifah đã bị nhà Buyid khống
chế. Đến đầu thế kỉ XI, đội quân của người Seljuk do vua Toghrul Bey sau khi chiếm toàn
bộ vùng Trung Á đã tiến vào xâm lược Iran và tấn công thành Baghdad. Khalifah AlQa’im nhận thấy không đủ khả năng để chống trả lại đội quân hùng mạnh của người
Seljuk nên đã nhanh chóng đầu hàng. Người Seljuk dễ dàng chiếm được thành Baghdad
vào năm 1055. Nhưng vì người Seljuk cũng theo đạo Hồi, nên Toghrul Bey đã yêu cầu

Khalifah Al-Qa’im phong cho mình danh hiệu Sultan (nghĩa là người có uy quyền), cịn
vẫn cơng nhận các Khalifah là thủ lĩnh của Hồi giáo.
16


Năm 1132, nhân lúc thế lực của người Seljuk đang suy yếu, Khalifah Al-Mustarshid
đã khơi phục lại được chính quyền ở Baghdad, tuy nhiên giờ đây lãnh thổ của người Arab
còn bị thu hẹp lại hơn trước. Đến giữa thế kỉ XIII, đội quân hùng mạnh của Đế chế Mông
Cổ, đang tung hồnh vó ngựa xâm lược nhiều nơi trên thế giới, chinh phục được Iran. Đến
năm 1258, quân Mông Cổ chiếm được thành Baghdad, Khalifah cuối cùng của Vương
triều Abbas cũng như của Đế quốc Arab là Al-Mustasim bị xử tử. Đánh dấu sự diệt vong
của Vương triều Abbas và Đế quốc Arab sau 6 thế kỉ tồn tại.

17


PHẦN III
NHỮNG THÀNH TỰU CỦA NỀN VĂN MINH ARAB
Do là một nền văn minh ra đời sau, xung quanh lại có những quốc gia sự tiến bộ về
văn hóa và công nghệ như Ai Cập, Lưỡng Hà, La Mã, Ấn Độ, Ba Tư, … Người Arab đã
tiếp thu toàn bộ những thành tựu của những quốc gia láng giềng trong q trình bành
trướng lãnh thổ. Từ đó, hình thành nên một nền văn hóa mang bản sắc dân tộc của người
Arab, nhưng xen lẫn trong đó là sự kết hợp của nhiều yếu tố dân tộc của các quốc gia
khác lân cận. Ngoài ra, do nằm trên con đường giao thương buôn bán giữa châu Á, châu
Âu và châu Phi, bán đảo Arab cũng trở thành nơi giao thương của các nền văn hóa khác
nhau. Những tác phẩm triết học, văn học của Hy Lạp và La Mã; cách làm giấy, thuốc
súng, la bàn của người Trung Quốc; kỹ nghệ dệt vải, lụa, thảm, làm vũ khí, thuộc da, làm
đường của Syria; nhiều thứ cây nông nghiệp như chà là, mía hay các cây cơng nghiệp như
bóng, dâu của Ba Tư, Ai Cập … đều đi qua bán đảo Arab và truyền tới những khu vực
khác.

3.1. Hồi giáo
Mặc dù đế quốc Arab chỉ tồn tại đến thế kỉ XIII, tuy nhiên sức ảnh hưởng của Hồi
giáo vẫn hết sức to lớn cho đến tận ngày nay. Sự ra đời của Hồi giáo đã mở ra một thời kì
lịch sử mới trên bán đảo Arab, thời kì thống nhất và phát triển. Hồi giáo là tôn giáo nhất
thần tuyệt đối. Vị thần duy nhất được các tín đồ Hồi giáo tơn thờ đó là thánh Allah. Tín
đồ Hồi giáo tin rằng ngồi thánh Allah ra khơng cịn vị thần nào khác. Tất cả mọi thứ ở
trên trời dưới đất đều thuộc về thánh Allah. Còn Muhammad là người được Allah giao
cho sứ mệnh truyền bá tôn giáo nên chỉ là sứ giả của Allah và là tiên tri của những tín đồ.
Hồi giáo đã tiếp thu nhiều quan niệm của các tôn giáo khác, nhất là của Do Thái như
truyền thuyết về sáng tạo thế giới, thiên đường địa ngục, thiên thần, quỷ Satan. Đạo Hồi
cũng dựa vào những nghi thức của các tôn giáo khác để sáng tạo ra những nghi thức tơn
giáo riêng. Cùng với đó là sự sao chép về một số nghi thức của đạo Do Thái như rửa mặt
và tay trước khi cầu nguyện; khi cầu nguyện phải hướng về thánh địa Mecca và phải phủ
phục trán chạm đất; cấm ăn thịt lợn, thịt chó, thịt các con vật chết vì bệnh tật, thịt đã cúng
18


thần và cấm uống rượu. Sự khác biệt lớn nhất của đạo Hồi so với các tơn giáo khác đó là
không thờ ảnh hay tượng của thánh Allah. Đạo Hồi quan niệm rằng thánh Allah tồn tại
khắp mọi nơi, không có một hình tượng nào có thể thể hiện hay tái hiện lại Allah. Bởi vậy
bên trong thánh thất Hồi giáo chỉ trang trí bằng các chữ cái Arab chứ không thờ tượng hay
tranh ảnh.
Đặc điểm của giáo lý Hồi giáo là rất đơn giản nhưng tồn tại những luật lệ và lễ nghị
hết sức phức tạp, ngoài ra cũng hết sức nghiêm khắc và trong một số trường hợp thì có vẻ
q khắt khe. Kinh thánh của đạo Hồi là kinh Qur’an, bao gồm 30 quyển, 114 chương, là
những đoạn thơ ghi lại những lời nói của nhà tiên tri Muhammad. Tuy nhiên theo các tín
đồ Hồi giáo thì kinh Qur’an ghi chép những lời phán bảo của Allah. Kinh Qur’an đề cập
đến nhiều vấn đề thuộc nhiều lĩnh vực, do đó, đối với người Arab, kinh Qur’an ngồi
những ngun tắc tơn giáo cịn là một bản tổng hợp mọi tri thức khoa học, mọi nguyên tắc
pháp luật và đạo đức. Sau này nhà nước Arab cũng dựa phần lớn vào bộ kinh này để đưa

vào pháp luật và đặt ra các nguyên tắc xã hội.
Cùng với quá trình mở rộng lãnh thổ của đế quốc Arab dưới triều đại các Khalifah
Rashidun và Umayyad, đạo Hồi đã truyền bá khắp khu vực Tây Á, Trung Á, Bắc Phi và
Tây Ban Nha. Trong quá trình ấy, Hồi giáo đã chia thành hai giáo phải chính là Sunni và
Shiite. Dịng Hồi giáo Sunni chiếm từ 75% đến 90% số người theo đạo Hồi. Cịn lại từ
khoảng 10% đến 20% các tín đồ là theo dòng Shiite. Hồi giáo dòng Shiite bao gồm nhiều
nhánh nhỏ khác, lớn nhất là Twelvers, tập trung phần lớn ở Iran, Iraq, Bahrain, Ấn Độ,
Pakistan và Liban. Tiếp sau đó là nhánh Zaidis và Ismaili. Cịn lại là các nhánh nhỏ hơn
bao gồm Bohra và Druze, cùng với đó là Alawites và Alevi.
Như vậy, Hồi giáo là niềm tin vào thánh Allah và vị tiên tri Muhammad của ngài,
đọc những kinh cầu nguyện đã chỉ định, bố thí cho người nghèo, nhịn ăn trong tháng
Ramadan và hành hương đến thánh địa Mecca. Đây là bốn bổn phận của tín đồ Hồi giáo,
cùng với lịng tin vào thánh Allah và tiên tri Muhammad thành năm trụ cột của Hồi giáo.
Hiện nay, có khoảng hơn 900 triệu tín đồ Hồi giáo trên khắp thế giới, ở hơn 50 quốc
gia trên khắp các châu lục, tập trung chủ yếu ở các nước nằm tại khu vực Trung Đông
cũng như bán đảo Arab, ở một số nước vùng Trung Á và cả khu vực Đông Nam Á.
19



×