Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HCM VỀ TƯ TƯỞNG NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN RONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (269.08 KB, 24 trang )

BỘ NỘI VỤ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

TÊN ĐỀ TÀI: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TƯ
TƯỞNG NHÀ NƯỚC CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN
DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM

BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN

Học phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh

Hà Nội – 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài......................................................................................1
2. Mục đích và yêu cầu nghiên cứu.............................................................1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...........................................................1
4. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................2
1. Cơ sơ hình thành tư tưởng Hồ Chính Minh về nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân....................................................................2
1.1. Cơ sở lý luận........................................................................................2
1.2. Cơ sở thực tiễn.....................................................................................2
2. Tư tưởng Hồ Chính Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân....................................................................................................2
2.1. Xây dựng nhà nước thể hiện quyền là chủ và làm chủ của nhân dân. .2
2.1.1. Nhà nước của nhân dân.................................................................3
2.1.2. Nhà nước do nhân dân...................................................................5
2.1.3 Nhà nước vì nhân dân.....................................................................5


2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giứa bản chất giai cấp cơng
nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước................................6
2.2.1. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước..................................6
2.2.2. Bản chất giai cấp cơng nhân thống nhất với tính nhân dân, tính
dân tộc của Nhà nước..............................................................................8


2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một Nhà nước có hiệu lực pháp
lý mạnh mẽ..................................................................................................9
2.3.1. Xây dựng một nhà nước hợp hiến, hợp pháp...............................10
2.3.2. Hoạt động quản lý nhà nước bằng Hiếp pháp, pháp luật và chú
trọng đưa pháp luật vào cuộc sống........................................................11
2.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong sạch, vững
mạnh, hoạt động có hiệu quả....................................................................12
2.4.1. Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và đủ tài..12
2.4.2. Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà
nước.......................................................................................................15
2.4.3. Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh
giáo dục đạo đức cách mạng.................................................................16
3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam..........................16
3.1. Nhà nước bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân...................17
3.2. Kiện toàn bộ máy hành chính Nhà nước............................................17
3.3. Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước..........18
KẾT LUẬN............................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................20


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, vấn đề cơ bản của mọi cuộc
cách mạng là vấn đề chính quyền nhà nước. Xuất phát từ nhu cầu giải phóng
dân tộc trên nền tảng yêu nước, Hồ Chí Minh Đã tiếp nhận chủ nghĩa MácLênin -lý luận tiêu biểu nhất của mọi thời đại. Cùng với cách mạng tháng
mười Nga thành lập nhà nước xô viết của nhân dân lao động làm chủ. Bác đã
vận dụng một cách khoa học sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh của nước nhà.
Đưa đất nước thoát khỏi ách thống trị của thực dân phong kiến. Tư tưởng xây
dựng nhà nước của nhân dân do nhân dân và vì nhân dân thơng qua một số
câu nói của Bác như:
“Dễ trăm lần khơng dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu cũng xong"
Đề tài này sẽ giúp ta hiểu hơn về tư tưởng của Bác về nhà nước của
nhân dân do nhân dân và vì nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích và yêu cầu nghiên cứu
Nghiên cứu và nắm vững những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân.
 Phạm vi: Sách giáo trình, những tài liệu liên quan.


4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp cụ thể được sử dụng trong việc nghiên cứu đề tài là
kết hợp phương pháp nghiên cứu, phân tích, lịch sử, chứng minh, tư duy
logic,… được áp dụng linh hoạt vào từng nội dung và yêu cầu.
NỘI DUNG
1. Cơ sơ hình thành tư tưởng Hồ Chính Minh về nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
1.1. Cơ sở lý luận
Học thuyết của Chủ nghĩa Mác-Lênin về Nhà nước.

1.2. Cơ sở thực tiễn
Kế thừa những tư tưởng tiến bộ về xây dựng Nhà nước trong lịch sử
dân tộc Việt Nam.
2. Tư tưởng Hồ Chính Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân
2.1. Xây dựng nhà nước thể hiện quyền là chủ và làm chủ của nhân dân
Hồ Chí Minh có quan điểm nhất quán về xây dựng một nhà nước mới
ở Việt Nam – một Nhà nước do nhân dân làm chủ – quan điểm cơ bản nhất
của Người về xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Quan điểm
này xuyên suốt, chi phối tồn bộ quá trình hình thành và phát triển Nhà nước
cách mạng Việt Nam.
Dân chủ được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực trong xã hội Việt Nam.
Trong đó, nổi bật nhất, quan trọng nhất và biểu hiện tập trung trong các hoạt
động của Nhà nước là ở lĩnh vực chính trị, bởi vì quyền lực của nhân dân
được thể hiện với tư cách nhân dân có quyền lực tối cao. Trên cơ sở vận
dụng, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh nghiệm cách mạng thế giới vào


điều kiện thực tiễn của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: Chính
quyền Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nhân dân bầu ra, tổ chức nên
bộ máy nhà nước cũng như toàn bộ hệ thống chính trị thay mặt mình thi hành
chính quyền ấy , cơ sở xã hội là toàn dân tộc, nền tảng là liên minh cơng –
nơng, lao động trí óc.
Quan niệm dân chủ còn được thể hiện ở phương thức tổ chức xã hội.
Khẳng định một chế độ dân chủ ở nước ta là lợi ích đều vì dân, quyền hành và
lực lượng đều ở dân. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ muốn là một nước dân chủ thì
phải cấu tạo quyền lực xã hội mà ở đó người dân, cả trực tiếp lẫn gián tiếp
qua dân chủ đại diện, một hệ thống chính trị do dân cử ra và tổ chức nên.
Hồ Chí Minh vạch rõ nguồn gốc, lực lượng tạo ra quyền hành và lực
lượng của xã hội đó là nhân dân. Đây là quan điểm gốc để Người coi cách

mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân; công cuộc đổi mới, xây dựng,
kháng chiến kiến quốc là trách nhiệm và công việc của nhân dân. Ý nghĩa của
dân chủ không chỉ được Người coi là một giá trị chung, là sản phẩm của văn
minh nhân loại, mà cịn xem nó như là lý tưởng phấn đấu của các dân tộc.
Dân chủ không chỉ dừng lại với tư cách như là một thiết chế xã hội của một
quốc gia mà nó cịn có ý nghĩa biểu thị mối quan hệ quốc tế, hịa bình giữa
các dân tộc, đó là: dân chủ, bình đẳng trong mọi tổ chức quốc tế, là nguyên
tắc ứng xử trong các quan hệ quốc tế của Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam.
Quan điểm xây dựng Nhà nước kiểu mới của Hồ Chí Minh đã kế thừa
và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin về Nhà nước Cách mạng. Hiểu một cách
tổng quát nhất quan điểm về Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, chúng ta thấy trong tư tưởng Hồ Chí Minh những nội dung như sau:


2.1.1. Nhà nước của nhân dân
Xác lập tất cả mọi quyền lực trong Nhà nước và xã hội đều thuộc về
nhân dân là quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh. Quan điểm này được Hồ
Chí Minh thể hiện qua bản Hiến pháp năm 1946 và năm 1959 do Người lãnh
đạo soạn thảo.
 “Tất cả quyền bính trong nước đều là của tồn thể nhân dân Việt
Nam, khơng phân biệt giống nịi, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tơn giáo” 1.
“Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc
quyết”2. Nhân dân có quyền làm chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội,
bầu ra Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thể hiện quyền tối
cao của nhân dân. Nhân dân làm chủ Nhà nước thì nhân dân cũng có quyền
kiểm sốt Nhà nước, cử tri bầu ra các đại biểu, ủy quyền cho các đại biểu đó
bàn và quyết định những vấn đề quốc tế dân sinh. Đây thuộc về chế độ dân
chủ đại diện bên cạnh chế độ dân chủ trực tiếp.
 Nhân dân có quyền kiểm soát Nhà nước, bảo đảm quyền kiểm soát
của nhân dân đối với đại biểu được bầu ra. Các cơ quan Nhà nước phải dựa

vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của
nhân dân. Vì vậy, bộ máy nhà nước được nhân dân bầu ra, tổ chức nên phải
lấy mục tiêu là phục vụ và vì lợi ích của nhân dân.
 Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân
nếu những đại biểu đó khơng xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Theo
Hồ Chí Minh, cử tri và đại biểu do cử tri bầu ra phải có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau, và khi đại biểu đó khơng hồn thành nhiệm vụ thì cử tri có quyền
bãi miễn tư cách đại biểu.
 Luật pháp là cơng cụ quyền lực của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh,
luật pháp tronh Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam phải phản ánh được ý nguyện
vào bảo vệ quyền lợi của dân chúng. Luật pháp là của nhân dân, là công cụ


thực thi quyền lực của nhân dân , là phương tiện để kiểm soát quyền lực Nhà
nước.
Bằng thiết chế dân chủ, nhà nước phải có trách nhiệm tạo cho nhân
dân thực thi quyền làm chủ của nhân dân trong hệ thống quyền lực xã hội và
được đặt ở vị trí tối thượng. Điều này nhắc nhở, người lãnh đạo, đại diện của
nhân dân làm đúng chức trách, vị thế, không được quên rằng mình được bầu
ra để làm việc cho nhân dân. Ngày 2/9/1945 Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nhà nước
tiến bộ chưa từng có trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc ta bởi vì đó là
Nhà nước của nhân dân, nhân dân có vai trị quyết định mọi cơng việc của đất
nước.
2.1.2. Nhà nước do nhân dân
Nhà nước do nhân dân lập nên, ủng hộ, làm chủ. Do vây, Hồ Chí Minh
nhấn mạnh nhiệm vụ phải làm cho dân hiểu, giác ngộ để nâng cao trách
nhiệm làm chủ, ý thức trách nhiệm chăm lo xây dựng Nhà nước. Hồ Chí
Minh khẳng định: “Việc nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách
nhiệm ghé vai gánh vác một phần”. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng

Nhà nước mới, nhân dân có đủ điều kiện cả về pháp luật và thực tế để tham
gia qurn lý nhà nước. Người cũng nêu rõ quyền của nhân dân, Nhà nước do
nhân dân tạo ra tham gia quản lý là ở chỗ:
 Toàn bộ công dân bầu ra Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất của
Nhà nước và duy nhất có quyền lập pháp.
 Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Hội
đồng Chính phủ (hay gọi là Chính phủ).
 Hội đồng Chín h phủ là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước,
thực hiệ các Nghị quyết của Quốc hội và chấp hành pháp luật.


 Mọi công việc của bộ máy nhà nước trong việc quản lý xã hội đều
thực hiện ý chí của nhân dân (thông qua Quốc hội do nhân dân bầu ra).
2.1.3 Nhà nước vì nhân dân
Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân
làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngồi ra khơng có bất cứ một
lợi ích nào khác. Đó là một nhà nước trong sạch, khơng có bất kỳ một đặc
quyền, đặc lợi nào, cần kiệm liêm chính. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: mọi
đường lối, chính sách đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi cho nhân dân; việc gì có
lợi cho nhân dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho nhân dân dù
nhỏ cũng cố gắng tránh. Dân là gốc của nước; phải làm cho dân có ăn, có
mặc, có chỗ ở, được học hành.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, một nhà nước vì dân là từ Chủ tích
nước đến cơng chức bình thường đều phải làm công bộc, đầy tớ cho nhân dân
chứ không được đè đầu cưỡi cổ nhân dân. Đối với cương vị Chủ tịch nước,
Hồ Chí Minh cũng quan niệm là do dân ủy thác, vậy nên phải phục vụ cho
nhân dân, làm đầy tớ cho nhân dân.
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giứa bản chất giai cấp
cơng nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước
2.2.1. Bản chất giai cấp cơng nhân của Nhà nước

Với tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cọng hòa
được coi là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân nhưng khơng
phải là “Nhà nước tồn dân”, hiểu theo nghĩa là nhà nước phi giai cấp. Nhà
nước bao giờ và ở đâu cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định. Nhà
nước Việt Nam mới, mang bản chất của giai cấp cơng nhân, theo tư tưởng Hồ
Chí Minh. Bản chất đó được thể hiện trên các phượng diện sau:
Một là, Nhà nước do Đảng Cộng sản cầm quyền và lãnh đạo


 Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước giữ vững và tăng
cường bản chất giai cấp công nhân. Một vấn đề rất cơ bản của Hiến pháp đó
là việc xác định bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước. Lời nói đầu của
Hiến pháp năm 1959 khẳng định: “Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân
dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp cơng nhân lãnh đạo”3.
Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh nịng cốt của nhân dân là liên minh cơng – cơng –
trí, do giai cấp cơng nhân lãnh đạo – với đội tiên phong là Đảng Cộng sản
Việt Nam, ngay trong tư tưởng của Người về Nhà nước thể hiện tính nhân dân
rộng rãi, xây dựng một Nhà nước do nhân dân là người chủ nắm quyền.

 Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp. Nói đến
phương thức cũng có nghĩa là nói về cách lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước trong từng thời kỳ. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối Nhà nước ta
thời kỳ sau này khác hẳn so với thời kì Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước. Thời
kỳ đó, nước ta vừa phải kháng chiến chống giặc ngoại xâm, giải phóng dân
tộc, bảo vệ Tổ quốc, vừa phải xây dựng Nhà nước chế độ mới. Tuy nhiên,
trong tư tưởng của Hồ Chí Minh vẫn có những vấn đề cơ bản về phương thức
lãnh đạo của Đảng chung cho các thời kỳ:
+ Đảng lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà nước
thể chế hóa thành pháp luật, chính sách, kế hoạch.
+ Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng hoạt động của các tổ chức đảng và

đảng viên của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước.
+ Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra.
Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước thể hiện ở tính định hướng xã
hội chủ nghĩa trong sự phát triển đất nước. Điều này được thể hiện trong tư
tưởng của Hồ Chí Minh ngay từ khi Người đọc bản Tuyên ngon Độc lập khai
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa vào ngày 2/9/1945. Mục tiêu cách
mạng nhất quán của Hồ Chí Minh đó là đưa nước ta tiến lên xã hội chủ nghĩa


và chủ nghĩa cộng sản. Để giai cấp công nhân và nhân dân lao động có được
một tổ chức mạnh mẽ, thực hiện mục tiêu nói trên thì phải giành lấy chính
quyền, lập nên Nhà nước Việt Nam mới.
Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thể hiện ở
nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân
chủ. Hồ Chí Minh ln chú ý đến tính dân chủ trong tổ chức, hoạt động của
tất cả bộ máy, cơ quan nhà nước, nhấn mạnh sự cần thiết việc phát huy cao độ
dân chủ, cao độ tập trung, Nhà nước phải tập trung thống nhất quyền lực để
tất cả quyền lực thuộc vào tay của nhân dân.
2.2.2. Bản chất giai cấp cơng nhân thống nhất với tính nhân dân, tính
dân tộc của Nhà nước
Hồ Chí Minh là người giải quyết thành công mới quan hệ giữa vấn đề
giai cấp – dân tộc trong cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng của Người về
xây dựng Nhà nước Việt Nam mới người đã giải quyết hài hòa, thống nhất
giữa bản chất giai cấp cơng nhân với tính nhân dân, dân tộc của Nhà nước.
Một là, Nhà nước ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài,
gian khổ của rất nhiều thế hệ người Việt Nam. Giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX
đến đầu thế kỷ XX, nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu
nước và giai cấp lãnh đạo. Các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc dưới hệ tư
tưởng phong kiến và dân chủ tư sản đã diễn ra rất oanh liệt, tô thắm cho
truyền thống yêu nước, tinh thần đấu tranh kiên cường của dân tộc ta. Tuy

nhiên, các cuộc đấu tranh đều lần lượt thất bại, dân tộc ta vẫn chưa được giải
phóng, độc lập, tự do vẫn chưa trở thành hiện thực. Tháng 2/1930, Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời, sự lớn mạnh của giai cấp công nhân, đã vượt qua được
tất cả các khó khăn, hạn chế và đã lãnh đạo dân tộc giành thắng lợi Cách
mạng Tháng 8/1945, giành chính quyền, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân
đầu tiên ở Đông Nam Á.


Hai là, Nhà nước ta bảo vệ quyền lợi, lợi ích của nhân dân, lấy quyền
lợi, lợi ích của dân tộc làm nền tảng. Quyền lợi, lợi ích cơ bản của giai cấp
công nhân, của nhân dân lao động và của tồn dân tộc là một được Hồ Chí
Minh khẳng định là bản chất của vấn đề này. Nhà nước Việt Nam mới là
người đại diện, bảo vệ, đấu tranh, thể hiện ý chí khơng chỉ cho quyền lợi, lợi
ích của giai cấp cơng nhân mà cịn của nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt
Nam.
Ba là, trong thực tế, Nhà nước ta đã đứng ra làm nhiệm vụ của cả
dân tộc giao phó, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để
bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ Quốc, xây dựng một nước Việt Nam hịa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự
phát triển tiến bộ của thế giới. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đi đến
chủ nghĩa cộng sản là con đường Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam
đã xác định, cũng là sự nghiệp của chính Nhà nước ta.
2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một Nhà nước có hiệu lực
pháp lý mạnh mẽ
Ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã thấy được tầm quan trọng của Hiến
pháp và pháp luật trong quản lý xã hội. Vì vây, vấn đề xây dựng nền tảng
pháp lý luôn cho Nhà nước Việt Nam mới luôn được Người chú trọng. Bản
“Yêu sách của nhân dân An Nam” do Người thay mặt Hội những người An
Nam yêu nước tại Pháp gửi đến Hội nghị Véc-xai đã thể hiện rõ. Yêu cầu của
bản yêu sách là “Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người

bản xứ cũng sẽ được hưởng quyền bảo đảm về mặt luật pháp như người Âu
châu; xóa bỏ hồn tồn các tịa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và
áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam”; “Thay thế chế độ ra
các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật” 4. Hồ Chí Minh đã chuyển bản Yêu
sách thành “Việt Nam yêu cầu ca”, trong đó có những câu:


“Hai xin phép luật sửa sang,
Người Tây người Việt hai phương cùng đồng.

Bảy xin hiến pháp ban hành,
Trăm đều phải có thần linh, pháp quyền”5.
Hồ Chí Minh càng quan tâm sâu sắc hơn việc xây dựng và điều hành
Nhà nước một cách hiệu quả bằng pháp quyền khi mà Người trở thành người
đứng đầu Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Hồ Chí Minh đã chú ý xây
dựng một Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ thể hiện như sau:
2.3.1. Xây dựng một nhà nước hợp hiến, hợp pháp
Sau một ngày Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm
thời đã diễn ra. Trong phiên họp đó, Người đã đề nghị xây dựng một hiến
pháp dân chủ, tổ chức Tổng tuyển cử để lập ra Quốc hội, Chính phủ và các cơ
quan, bộ máy chính thức của Nhà nước mới càng sớm càng tốt mặc dù đất
nước ta đang đứng trước mn vàn khó khăn. Như vậy, nước ta muốn có cơ
sở pháp lý vững chắc để làm việc với quân Đồng minh, có quan hệ quốc tế
bình đẳng, thiết lập được một cơ chế quyền lực hợp pháp theo đúng thông lệ
của một Nhà nước pháp quyền hiện đại thì phải có được một Nhà nước hợp
hiến, thể hiện được quyền lực tối thượng của nhân dân.
Ngày 6/1/1946, cuộc Tổng tuyển cử được tiến hành thắng lợi với chế
độ phổ thơng đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Tất cả mọi người dân
không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, dân tộc, đảng phái,… từ 18 tuổi trở lên

đều được đi bỏ phiếu bầu những đại biểu của mình tham gia Quốc hội, tượng
trưng cho khối đoàn kết toàn dân tộc. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử hàng


nghìn năm của dân tộc ta cũng như ở Đông Nam Á, nhân dân ta được thực
hiện quyền công dân, bầu những đại biểu chân chính của mình vào cơ quan
quyền lực cao nhất của Nhà nước. Ngày 2/3/1946, Quốc hội khóa I nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hịa đã họp phiên đầu tiên. Quốc hội đã xác nhận thành
tích của Chính phủ lâm thời, lập ra các tổ chức, bộ máy và các chức vụ chính
thức của Nhà nước. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp
đầu tiên. Đây là Chính phủ hợp hiến đầu tiên do nhân dân bầu ra, có đầy đủ tư
cách pháp lý để giải quyết một cách hiệu quả các vấn đề đối nội và đối ngoại
ở nước ta. Ngày 9/11/1946, Bản Hiến pháp đầu tiền của nước ta được Quốc
hội thông qua.
Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử chứng tỏ lòng tin mãnh liệt mãnh
liệt của nhân dân đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đối với lực lượng cách mạng
và niềm tin sâu sắc của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào nhân dân. Đặc
biệt đã chứng tỏ ý thức sâu sắc của Người về tầm quan trọng của Chính phủ
hợp pháp, hợp hiến và quyết tâm biến CHính phủ đó từng bước thành một
chính quyền của nhân dân vững mạnh.
2.3.2. Hoạt động quản lý nhà nước bằng Hiếp pháp, pháp luật và chú
trọng đưa pháp luật vào cuộc sống
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước quản lý bằng bộ máy và bằng
nhiều biện pháp khác nhau, nhưng quan trọng nhất là quản lý bằng hệ thống
luật, trong đó quan trọng bậc nhất là Hiến pháp – đạo luật cơ bản của Nhà
nước. Ở cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã 2 lần tham gia lãnh đạo
sọan thảo Hiến pháp (Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959) đã để lại
dấu ấn đậm nét những quan điểm của Người về bản chất, thiết chế và hoạt
động của Nhà nước mới; đồng thời Người đã ký lệnh công bố 16 đạo luật,



613 sắc lệnh trong đó có 243 sắc lệnh về quy định tổ chức Nhà nước và pháp
luật và nhiều văn bản dưới dạng luật khác.
Hồ Chí Minh chú trọng đưa Hiến pháp và pháp luật vào trong cuộc
sống để xã hội sẽ khơng bị rối loạn. Dân chủ đích thực bao giờ cũng đi liền
với kỷ cương, phép nước cũng là đi liền với thực thi Hiến pháp và pháp luật.
Để bảo đảm quyền thực sự làm chủ của nhân dân, Người luôn luôn chú trọng
xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa trong suốt thời kỳ giữ trong
trách Chủ tịch nước. Các cơ quan, tổ chức của Nhà nước phải nghiêm túc
chấp hành một cách nghiêm chỉnh Hiến pháp – pháp luật để làm gương. Và
một tấm gương sáng về sống và làm việc theo Hiến pháp – pháp luật đó chính
là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người tự giác khép mình vào kỷ luật, vào việc
gương mẫu chấp hành, sống và làm việc theo Hiên pháp – pháp luật đã trở
thành nề nếp, thói quen, lối ứng xử tự nhiên của Người.
“Thần linh pháp quyền” là sức mạnh do con người và vì con người. Vì
vậy, Hồ Chí Minh ln nêu gương việc khuyến khích nhân dân phê bình,
giám sát công việc của nhà nước, đồng thời bao giờ cũng đòi hỏi mọi người
phải hiểu biết và tuyệt đối chấp hành pháp luật, bất kể giữ cương vị nào.
Người cũng cho rằng, công tác giáo dục pháp luật cho mọi người, nhât là thế
hệ trẻ - tương lai của đất nước, trở nên cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng
một Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý, bảo đảm mọi quyền lợi và
nghĩa vụ của công dân được thực thi trong cuộc sống. Người chú trọng đến
vấn đề nâng cao dân trí, phát huy tích cực tính chính trị của nhân dân, làm cho
nhân dân có ý thức chính trị vào việc tham gia công việc của Nhà nước, do
vậy, việc thực thi pháp luật có quan hệ rất lớn đến trình độ dân trí của nhân
dân.


Trong việc thực thi Hiến pháp – pháp luật, Hồ Chí Minh bao giờ cũng
chú ý bảo đảm tính nghiêm minh và hiệu lực. Điều đó địi hỏi pháp luật phải

đúng và phải đủ; tích cực tuyên truyền, giáo dục pháp luật để mọi người hiểu
và nghiêm túc chấp hành; người thực thi luật pháp phải thật sự công tâm và
nghiêm minh, bảo đảm luật pháp trở thành cán cân cơng lý đối với tất cả mọi
người, khơng có bất cứ trường hợp nào ngoại lệ; bất kỳ một ai vi phạm pháp
luật cũng đều bị trừng trị nghiêm khắc, đúng người, đúng tội.
2.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong sạch, vững
mạnh, hoạt động có hiệu quả
2.4.1. Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và đủ tài
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền trong sạch, vững mạnh, Hồ Chí
Minh ln ln đề cao vị trí, vai trị của đội ngũ cán bộ, công chức. Người coi
“cán bộ là cái gốc của mọi công việc” 6, “muôn việc thành công hay thất bại
đều do cán bộ tốt hay kém” 7. Vì vậy, Người đặc biệt quan tâm, chú trọng vấn
đề xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức; phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng
nhằm hình thành một đội ngũ có trình độ văn hóa, am hiểu sâu về pháp luật,
thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là phải có đạo đức cần kiệm liêm
chính, chí cơng vơ tư, một tiêu chuẩn cơ bản của người cầm cán cân công lý.
Về yêu cầu đối với đội ngũ này, theo Hồ Chí Minh, đó là những người vừa có
đức, vừa có tài, trong đó đức là gốc; đội ngũ này phải được tổ chức hợp lý, có
hiệu quả. Cụ thể như sau:
Một là tuyệt đối trung thành với Đảng, với cách mạng. Đây là yêu cầu
đầu tiên cần có. Đội ngũ cán bộ, công chức suốt đời phấn đấu cho lợi ích của
cách mạng, vì mục tiêu lý tưởng của Đảng. Đội ngũ này là những người kiên
cường bảo vệ Nhà nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh nhấn
mạnh lịng trung thành khơng phải những điều trừu tượng, chung chung mà


phải được thực hiện hằng ngày, hằng giờ, trong mọi lĩnh vực công tác, trong
kết quả thực tế công tác, đặc biệt là trong những lúc đất nước gặp khó khăn,
thử thách, chuyển giai đoạn.
Hai là, hăng hái, thành thạo cơng việc, giỏi chun mơn, nghiệp vụ.

Chỉ với lịng nhiệt tình là chưa đủ, cùng lắm chỉ phá được cái xấu, cái cũ mà
không xây được cái tốt, cái mới. Phải hiểu biết công việc, biết quản lý nhà
nước, là yêu cầu tối thiểu đối với đội ngũ cán bộ, công chức, do vậy, phải
được đào tạo chuyên sâu và phải ln ln tự học hỏi. Đó là tính chuyên
nghiệp của đội ngũ công chức, phải chuyên sâu nghiệp vụ, luôn luôn học tập
không ngưng nghỉ, học mọi lúc, mọi nơi, học tập suốt đời. Hồ Chí Minh chính
là một tấm gương điển hình của việc tự học. Người tự học những kiến thức về
nhà nước trong cả cuộc đời.
Ba là, phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Xuất phát từ nhận
thức chỉ có trí tuệ và lịng dân mới có thể làm cho Nhà nước trở nên vững
mạnh và sáng suốt, Hồ Chí Minh ln ln chủ trương xây dựng mối quan hệ
tự nhiên, gắn bó, bền chặt giữa đội ngũ cán bộ, công chức với nhân dân. Đội
ngũ này là những người hưởng lương từ nguồn ngân sách nhà nước do nhân
dân đóng góp. Vì thế, Người luôn nhắc nhở mọi cán bộ, công chức khơng
được lãng phí của cơng; phải sẵn sàng phục vụ, nêu cao đạo đức cách mạng,
sẵn sàng hy sinh quyền lợi cá nhân phục vụ cho Tổ quốc, lấy phục vụ quyền
lợi chính đáng của nhân dân làm mục tiêu cho hoạt động của mình. Đặc biệt,
đội ngũ này phải chống tham ơ, lãng phí, quan liêu; phải ln gần nhân dân,
hiểu nhân dân và vì nhân dân. Đội ngũ này xa dân, quan liêu, hách dịch, cậy
quyền cậy thế,… đối với nhân dân sẽ dẫn đến nguy cơ làm Nhà nước bị suy
yếu, bị biến chất vì đã vi phạm một điều có tính chất cốt tử của cấu tạo quyền
lực nhà nước là tất cả mọi quyền thuộc về nhân dân.


Bốn là, cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám
quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là trong tình huống khó khăn, “thắng
khơng kiêu, bại khơng nản”. Đội ngũ này là những người có ý thức sẵn sàng
làm “đầy tớ”, làm “trâu ngựa” cho nhân dân; là những người cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư, làm việc với tinh thần đầy sáng tạo. Hồ Chí Minh ln
địi hỏi cán bộ, cơng chức phải ln tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng,

có chí tiến thủ, luôn luôn học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt, học ở
trường, ở trong cuộc sống, trong công tác, ở thầy, ở bạn.
Năm là, phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, ln ln có ý
thức và hành động vì sự lớn mạnh, trong sạch của Nhà nước. Đội ngũ cán bộ,
công chức với chức trách là những người phục vụ nhân dân thì phải tận tụy,
tận trung với nước, tận hiếu với dân. Hồ Chí Minh nhấn mạnh đội ngũ này
phải thường xuyên tự phê bình và phê bình để giữ vững phẩm chất đạo đức
cách mạng và năng lực công tác; đồng thời, phải chăm lo xây dựng bộ máy
nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
2.4.2. Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà
nước
Việc làm Nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh không bao giờ tách rời
với xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân – việc này
luôn thường trực trong tâm lý và hoạt đọng của Hồ Chí Minh. Giai đoạn mà
Người chú ý hơn bao giờ hết đến việc bảo đảm sự trong sạch, vững mạnh của
Nhà nước, các cấp chính quyền đó là khi đất nước vừa giành được độc lập,
chính quyền cách mạng cịn non trẻ, cách mạng đang chuyển giai đoạn. Bởi
vì, càng những lúc đó, đất nước, cách mạng đứng trước những khó khăn, thử
thách thì chính những tiêu cực sẽ rất dễ trở thành nguy cơ làm biến chất Nhà
nước ta.


Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những tiêu cực và nhắc nhở mọi người đề phòng
và khắc phục, trong suốt quá trình lãnh đạo xây dựng Nhà nước mới.
Đặc quyền, đặc lợi. Địi hỏi phải tẩy trừ những thói cậy mình là người
trong cơ quan chính quyền để cậy quyền, hách dịch với dân, vơ vét tiền của
làm lợi cho bản thân, sa vào chủ nghĩ cá nhân.
Tham ô, lãng phí, quan liêu. Hồ Chí Minh chỉ ra đây là ba thứ giặc nội
xâm còn nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Lãng phí được xác định là lãng phí
lao động, thời gian, tiền của. Nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến tham ơ,

lãng phí chính là bệnh quan liêu. Bệnh quan liêu khiến các cấp lãnh đạo có
mắt mà khơng thấy suốt, có tai mà khơng nghe thấu, có chế độ mà khơng giữ
vững, có kỷ luật mà khơng nắm vững,… Vậy nên, bệnh quan liêu là bệnh gốc,
đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Muốn trừ khử tham ơ,
lãng phí thì trước hết phải tẩy sạch bệnh quan liêu.
Tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Hồ Chí Minh kịch liệt lên án tệ kéo bè, kéo
cánh, lôi bà con hữu mình không tài năng gì cũng kéo vào những chức vụ
trong cơ quan Nhà nước, đẩy những người có đức, có tài nhưng khơng vừa ý
ra ngoài; bênh vực lớp này, chống lại lớp khác; cậy thế kiêu ngạo; … Những
hành động trên gây mất đồn kết, gây rối cho cơng tác, làm mất uy tín của
Chính phủ.
2.4.3. Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh
giáo dục đạo đức cách mạng
Hồ Chí Minh đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa quản lý xã hội bằng pháp
luật với phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam được hình
thành từ bao đời nay – kết hợp nhuần nhuyễn cả “đức trị” và “pháp trị”.


Với cương vị là Chủ tịch nước, trong việc thực thi trách nhiệm và
quyền hạn, Hồ Chí Minh ln là một người sáng suốt, thống nhất hài hịa giữa
lý trí và tình cảm, nghiêm khắc, bao dung, nhân ái nhưng tuyệt đối không bao
che cho những sai lầm, khuyết điểm của bất kỳ một ai. Kỷ cương, phép nước
thời nào cũng luôn được đề cao và áp dụng cho tất cả mọi người. Hồ Chí
Minh yêu cầu đối với những kẻ bất liêm, bất kỳ ở địa vị nào, nghề nghiệp gì
thì pháp luật phải thẳng tay trừng trị; dùng uy tín sức mạnh để cảm hóa những
người có lỗi lầm, mắc khuyết điểm đi với cách mạng, tránh phạm pháp.
3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam
Với việc đinh hướng xây dựng và hoàn thiện Nhà nước kiểu mới ở Việt
Nam,tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân

dân, vì nhân dân có giá trị to lớn, sâu sắc về lý luận và thực tiễn. Hiện nay,
tồn Đảng, tồn dân ta đang tích cực thực hiện việc này dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
những điều kiện thực tế hiện nay của thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, thời kỳ mở cửa, hội nhập
quốc tế đây là nền tảng để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
3.1. Nhà nước bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân
Đây chính là một nội dung cơ bản trong yêu cầu xây dựng Nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc vận
dụng tư tưởng này đòi hỏi phải chú trọng bảo đảm và phát huy quyền làm chủ
thật sự của nhân dân trên tất cả mọi lĩnh vực. Việc mở rộng dân chủ phải đi
đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa rất quan trọng. Do
vậy, quyền làm chủ của nhân dân phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp –



×