Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tài liệu Vận dụng tư tưởng HCM trong sự nghiệp đổi mới pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.33 KB, 16 trang )

Đất nước ta đang đứng trước thời cơ và vận hội lớn, nhưng cũng chứa đựng
không ít những
thách thức, nguy cơ. Do vậy để bảo đảm đưa đất nước phát triển và giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Đảng ta phải kiên trì chủ nghĩa Mác- Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo
lý luận ấy vào công cuộc đổi mới của đất nước.
Đối với cán bộ, đảng viên học tập , quán triệt chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh là tự trang bị cho mình một năng lực nhận thức khoa học và
hành động cách mạng đúng đắn. Qua đó tu dưỡng, rèn luyện , phấn đấu cho lý
tửơng tất cả vì độc lập tự do của dân tộc vì hạnh phúc của nhân dân. Học tập,
trau dồi lý luận là trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh
thường xuyên nhấn mạnh tầm quan trọng của lý luận đối với thực tiễn. Theo
Người , lý luận “là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp
những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”. Vì vậy,
“lý luận như kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc
thực tế”. Do đó Đảng phải có trách nhiệm tổ chức để cán bộ, đảng viên có điều
kiện học tập nâng cao trình độ lý luận.
Học tập, vận dụng lý luận phải quán triệt quan điểm thực tiễn để ngăn ngừa
bệnh giáo điều cũng như bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Nếu lý luận xa rời thực
tiễn thì sớm muộn cũng dẫn đến giáo điều, sách vở hay theo cách nói của Hồ
Chí Minh là lý luận suông. Học tập, vận dụng lý luận phải gắn liền với đấu tranh
với những quan điểm sai trái, nhằm bảo vệ và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chính vì chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có sức mạnh to lớn đối
với sự nghiệp cách mạng cuả Đảng và nhân dân ta, do đó phải nêu cao cảnh
giác, đấu tranh không khoan nhượng với mọi quan điểm sai trái. Học tập đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh là noi gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô
tư, đặt lợi ích của đân tộc, của Đảng, của nhân dân, của tập thể lên trên lợi ích cá
nhân. Nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh là nói đến lý luận cách mạng hành động, lý
luận gắn chặt với thực tiễn, nói đi đôi với làm
Để đưa công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ngày
càng phát triển theo chiều sâu, đòi hỏi chúng ta phải quán triệt những quan điểm


mà Hồ Chí Minh đã nêu ra. Đó là phải dựa vào sức mạnh toàn dân, phát huy
được tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xa hội, lòng tự tôn dân tộc, ý chí thoát
khỏi nghèo nàn lạc hậu của mỗi người dân.Coi đại đoàn kết toàn dân là động lực
để phát triển kinh tế- xã hội. Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với thực hiện
công bằng xã hội. Thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước là nhiệm

Trang số 1
vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân. Phát triển kinh tế nhiều thành phần phải
đi đôi với củng cố kinh tế nhà nước đủ sức phát huy vai trò chủ đạo để nhà nước
định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Phát triển kinh tế phải đi đôi với phát
triển văn hoá, xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng. Tăng cường giáo dục đạo
đức Hồ Chí Minh, xây dựng chuẩn mực đạo đức xã hội trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nếp sống xã hội tốt đẹp, gia đình
văn hoá, lối sống tình nghĩa, đoàn kết , hoà hiếu. Xây dựng cái mới phải gắn liền
với cải tạo những thói hư tật xấu, đấu tranh không khoan nhượng với căn bệnh
có nguy cơ xói mòn bản chất tốt đẹp cuả chế độ xã hội chủ nghĩa. Để đấu tranh
hiệu quả với những căn bệnh đó đòi hỏi vai trò tiên phong gương mẫu của cán
bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao đạo đức cách mạng, quét
sạch chủ nghĩa cá nhân, đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết thảy lợi
ích cá nhân./.
Iii- Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng
minh tính đúng đắn của Cương lĩnh được thông qua tại Đại hội 7 của Đảng,
đồng thời giúp chúng ta nhận thức ngày càng rõ hơn về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Chúng ta một lần nữa khẳng định: Cương lĩnh là ngọn cờ
chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam từng bước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, định hướng cho mọi hoạt động của Đảng hiện nay và trong
những thập kỷ tới. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam
theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

ở đây nói rõ thêm một số vấn đề :
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, là một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; về lòng yêu nước
thương dân, về sức mạnh của nhân dân, lấy dân làm gốc; về sản xuất và tiết
kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu; về tăng cường quốc phòng - an ninh,
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về nền văn hóa dân tộc và hiện đại; về
đạo đức cách mạng; về đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh; xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân Tư tưởng Hồ Chí
Minh đã và đang soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi.
Đó là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng là sự tổng kết sâu sắc thực tiễn

Trang số 2
cách mạng và là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận
của Đảng ta.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự phát triển quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu,
kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa,
đặc biệt về khoa học - công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại. Đó cũng là thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về
chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, tất

yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình
thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống
xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ. Từ Đại hội 8, đất
nước ta đã chuyển sang chặng đường mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Trong
chặng đường hiện nay còn phải tiếp tục hoàn thành một số nhiệm vụ của chặng
đường trước.
Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành
phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, cho nên tất yếu còn mâu thuẫn
giai cấp và đấu tranh giai cấp; tuy nhiên cơ cấu, nội dung, vị trí của các giai cấp
trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã
hội.
Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu
tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cuộc đấu tranh giai cấp,
đấu tranh giữa hai con
đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa diễn ra trong những điều kiện mới,
với nội dung giai cấp và nội dung dân tộc gắn kết với nhau bằng những hình
thức mới. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong
mục tiêu chung: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nội dung chủ yếu của đấu tranh
giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước
nghèo, chậm phát triển, coi đó là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ; thực
hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc
phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái để giữ gìn trật tự, kỷ cương
xã hội; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế
lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội
chủ nghĩa giàu mạnh, phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.


Trang số 3
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn
dân tộc, của đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông
dân và trí thức, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy
mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại phải gắn liền với xây dựng quan hệ sản
xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và
phân phối.
Chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu là sản phẩm
của nền kinh tế phát triển với trình độ xã hội hóa cao các lực lượng sản xuất hiện
đại, từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội
được xây dựng xong về cơ bản. Xây dựng chế độ đó là một quá trình phát triển
kinh tế - xã hội lâu dài qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao. Phải từ
thực tiễn tìm tòi, thử nghiệm để xây dựng chế độ sở hữu công cộng nói riêng và
quan hệ sản xuất mới nói chung với bước đi vững chắc. Tiêu chuẩn căn bản để
đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa
là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện
công bằng xã hội.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nói gọn là nền kinh
tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển
lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Sử dụng cơ chế thị trường, áp
dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để
kích thích sản xuất, phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động,
giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển nền
kinh tế đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo;
kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có sự quản lý của Nhà
nước. Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước thật sự của dân, do
dân, vì dân, quản lý nền kinh tế theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch,
phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường,
bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.

Trang số 4
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng
góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi
xã hội.
Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước phát triển.
Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa
Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần
của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người phát triển toàn
diện, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
Chủ trương của Đảng xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về
sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và bài học mẫu mực của Cách
mạng Tháng Mười Nga, vấn đề độc lập dân tộc của Việt Nam được Hồ Chí
Minh chỉ rõ: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường

nào khác con đường cách mạng vô sản"
(2)
. Nhờ có quan điểm đúng về sự gắn
bó và chi phối lẫn nhau giữa hai nhiệm vụ và hai giai đoạn cách mạng này mà sự
nghiệp độc lập dân tộc của cách mạng Việt Nam mới giành thắng lợi triệt để và
trọn vẹn.
Sau 20 năm đổi mới, bài học đầu tiên được Đảng ta rút ra cũng chính là vấn
đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Một sự thật khách quan là, quan điểm
chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
soi sáng cách mạng Việt Nam hơn 77 năm qua, xuất phát trực tiếp từ tư tưởng
Hồ Chí Minh, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Một lần nữa khắc sâu bài
học về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, khi chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đã
thuộc về nhân dân ta hơn 30 năm, công cuộc đổi mới qua 20 năm, càng khẳng
định bản lĩnh chính trị đúng đắn, vững vàng của Đảng ta về kiên định mục tiêu
chiến lược của cách mạng Việt Nam, trong giai đoạn mới.
Công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta là tiếp tục sự nghiệp giải phóng dân
tộc theo con đường cách mạng vô sản, trong điều kiện mới. Độc lập dân tộc lúc
này, đối với chúng ta, chính là sự vươn lên để thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu,
khẳng định vị thế của Việt Nam bình đẳng với tất cả các quốc gia dân tộc khác
trên thế giới, ở mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điều kiện cơ bản để bảo vệ
nền độc lập dân tộc một cách thực tế, vững chắc trong hội nhập kinh tế quốc tế

Trang số 5
rất phức tạp và đầy rẫy nguy cơ mất còn hiện nay. Trong quá trình đổi mới,
Đảng ta đã sớm cảnh báo tới nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước
trong khu vực và trên thế giới sẽ ảnh hưởng không tốt tới an ninh quốc gia, chủ
quyền dân tộc và nền độc lập của đất nước.
Đổi mới để phát triển và phát triển để đổi mới mạnh mẽ và vững chắc hơn là
nhận thức căn bản và biện chứng về quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội và độc lập

dân tộc. Tập trung cho tăng trưởng mạnh kinh tế trong thời kỳ quá độ chính là
làm cho cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội ngày một nhiều hơn trên thực tế; do
đó, càng có điều kiện thuận lợi hơn trong công tác bảo vệ và giữ vững nền độc
lập dân tộc, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Định hướng xã hội chủ nghĩa
được Đảng ta xác định trong phát triển kinh tế thị trường có ý nghĩa căn bản
đảm bảo cho nền kinh tế vừa phát triển theo quy luật một cách đúng hướng vừa
làm điều kiện nền tảng giải quyết những vấn đề xã hội bền vững.
Thực tế 20 năm đổi mới, một lần nữa cho thấy, nền độc lập dân tộc càng
được bảo vệ vững chắc thì hiệu quả công cuộc xây dựng chế độ mới ngày càng
cao. Đến lượt nó, công cuộc xây dựng xã hội mới có hiệu quả càng là điều kiện
quan trọng thiết thực bảo vệ nền độc lập dân tộc vững vàng. Nhờ xác định đúng
mối quan hệ này và tổ chức thực hiện tốt trên thực tế nên cách mạng Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
trong cả đối nội và đối ngoại.
Bài học của Đại hội X về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, sau 20 năm
đổi mới, là sự trung thành và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng ta trong sự nghiệp cách mạng hiện
nay:
Càng đổi mới, chúng ta càng nhận thức đúng tư tưởng Hồ Chí Minh về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Về phát triển kinh tế, chuyển mạnh từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp
sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Về bản chất, đây
là sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
là thời kỳ tất yếu khách quan, nên Người chủ trương, sau khi hoàn thành cách
mạng dân tộc, dân chủ, chúng ta chọn con đường rút ngắn, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa, nhưng phải trải qua thời kỳ quá độ. Cách đi này được Hồ Chí Minh
chỉ rõ: "Miền Bắc nhất định phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mà đặc điểm to nhất
của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa

Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật
chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã
hội "
(3)
.

Trang số 6
Quan niệm tiến dần lên chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh thể hiện rõ nhận
thức rằng, thời kỳ quá độ là một chặng tiến gần và trực tiếp với chủ nghĩa xã
hội, nhưng nó là một giai đoạn độc lập tương đối. Đó là thời kỳ xã hội đang từ
bỏ những cái cũ, cái lạc hậu và bước đầu xây dựng những cái mới, cái tiến bộ.
Nó hoàn toàn chưa phải là thời kỳ hàm chứa toàn vẹn những đặc trưng của chủ
nghĩa xã hội. Người nói, ta bước vào thời kỳ quá độ tiến dần lên chủ nghĩa xã
hội, không qua con đường phát triển tư bản chủ nghĩa với nghĩa là bỏ qua một
phương thức sản xuất, một hình thái kinh tế - xã hội, một chế độ chính trị.
Theo Hồ Chí Minh, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là thời kỳ xây
dựng chế độ dân chủ mới, trong đó, về chính trị, mọi quyền lực đều thuộc về
nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng; về kinh tế, thực hiện nền kinh tế nhiều
thành phần.
Như vậy, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ phát triển kinh tế nhiều
thành phần. Quan điểm này đã được chúng ta thực thi từ khởi sự đổi mới (1986)
và ngày một hoàn thiện nó. Đại hội X khẳng định trên cơ sở ba chế độ sở hữu
(toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và năm thành
phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận
hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
bình đẳng, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Ở đó, kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước
định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh
tế cùng phát triển; kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những
động lực của nền kinh tế. Hồ Chí Minh rất coi trọng các thành phần kinh tế tư

nhân, tư bản và xác định vị trí kinh tế - xã hội to lớn của nó trong thời kỳ quá
độ. Người cho rằng, nếu ta khéo lãnh đạo, khéo tổ chức thì giai cấp tư sản
cũng có thể theo chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội.
Về bản chất, đây là thời kỳ phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân. Muốn vậy, phải tập trung phát triển lực lượng sản xuất, giải phóng
triệt để sức sản xuất; quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất.
Đại hội đã làm sáng tỏ thêm một bước nội dung cơ bản của định hướng xã
hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường, thể hiện trên bốn tiêu chí
lớn:
- Về mục tiêu, nhằm làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất,
nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi
người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng
bước khá giả hơn.

Trang số 7
- Về cơ cấu, phát triển đồng bộ các thành phần và khẳng định vai trò chủ đạo
của kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
- Về định hướng xã hội và phân phối, phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế phải
gắn chặt và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải
quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.
- Về lĩnh vực quản lý, phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm
vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước là yếu tố quan trọng bảo
đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế hiện nay ở nước ta. Vận dụng

tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này, Đại hội X chỉ rõ Nhà nước phải tập trung
làm tốt các chức năng:
- Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ
chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường.
- Tạo môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các
nguồn lực xã hội cho phát triển.
- Hỗ trợ phát triển, chăm lo xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội quan trọng, hệ thống an sinh xã hội.
- Bảo đảm tính bền vững tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các
rủi ro và tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.
Về văn hóa xã hội, con người, một lần nữa, Đại hội X làm rõ và vận dụng
đúng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với năm quan điểm chỉ đạo cơ bản mang tính
chiến lược trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa nước nhà trong
thời kỳ quá độ. Đồng thời Đại hội X cũng xác định, phát triển văn hóa, nền tảng
tinh thần của xã hội là một trong những nhiệm vụ lớn của toàn Đảng, toàn dân
và toàn quân.
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng
Đại hội X khẳng định: Đảng ta "Kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng"
(4)
, với tư cách là nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa:

Trang số 8
- Kiên trì đường lối đổi mới, đổi mới toàn diện, có nguyên tắc và sáng tạo;
trong quá trình đổi mới, phải luôn luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, không đa nguyên, đa đảng. Đây chính
là bản lĩnh chính trị của Đảng trung thành với quan điểm của Hồ Chí Minh về
Đảng lãnh đạo cách mạng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng, và tổ chức, thường xuyên tự
đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; đổi mới
công tác xây dựng Đảng. Phát huy dân chủ trong Đảng, thực hiện đúng nguyên
tắc tập trung dân chủ, giữ vững kỷ cương, kỷ luật; thường xuyên tự phê bình và
phê bình; giữ gìn và tăng cường xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng,
đấu tranh kiên quyết với những phần tử cơ hội thực dụng Xây dựng hệ thống
tổ chức bộ máy trong sạch, vững mạnh, tinh gọn; xác định thẩm quyền, trách
nhiệm rõ ràng, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Coi trọng xây dựng tổ chức cơ
sở đảng. Đây là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm
quyền.
- Đảng chăm lo xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ bản lĩnh
chính trị, phẩm chất, trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn để hoàn thành nhiệm
vụ. Tạo sự chuyển biến thực sự và đồng bộ trong công tác cán bộ trên tất cả các
khâu đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán
bộ. Đặc biệt, coi trọng xây dựng hạt nhân lãnh đạo, trọng dụng nhân tài mà Hồ
Chí Minh hằng quan tâm.
- Tăng cường gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Xây dựng các thiết
chế mở rộng và phát huy dân chủ, bảo đảm các chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước đều có sự tham gia xây dựng của nhân dân, phản ánh ý chí, lợi ích
chính đáng của nhân dân, của quốc gia, dân tộc. Cán bộ, đảng viên và công chức
luôn thực sự là công bộc của nhân dân như Hồ Chí Minh đã dạy.
- Để làm trong sạch Đảng và bộ máy công quyền, tăng cường và nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát - chức năng và phương thức
lãnh đạo quan trọng của Đảng. Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện các nghị
quyết, quyết định của Đảng để phát huy ưu điểm, phòng ngừa và khắc phục kịp

thời mọi sai phạm, khuyết điểm; kiểm tra, giám sát kết quả công tác, năng lực và
phẩm chất của cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng tổ chức đảng, cơ quan nhà
nước và đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng trong sạch, vững mạnh.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo, nhất là phương thức lãnh đạo Nhà nước,
bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy hiệu
lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt
trận, các đoàn thể nhân dân. Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật.

Trang số 9
Quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
đã trở thành đường lối chiến lược, nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt
Nam hơn 77 năm qua. Bài học thứ nhất do Đại hội X của Đảng khẳng định
không chỉ thể hiện tính đúng đắn, mà còn thể hiện rõ sự vận dụng trung thành,
sáng tạo tư tưởng của Người trong công cuộc đổi mới vì chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.

Thực hiện chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh "Trung với nước, hiếu với
dân" cần quán triệt những nội dung của chủ nghĩa yêu nước trong giai
đoạn mới; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp
đổi mới đất nước, công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tư tưởng và phẩm chất đạo đức tiêu biểu của Hồ Chí Minh là tinh thần yêu
nước nồng nàn, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, toàn tâm,
toàn ý cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Từ quyết tâm " dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết
giành cho được tự do, độc lập", để rồi phấn đấu cho " đồng bào ta ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành", để nước ta " sánh vai với cường quốc
năm châu". Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta cần:
- Mỗi người cần nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những hy sinh to lớn của
ông cha để chúng ta có non sông, Tổ quốc Việt Nam độc lập, tự do, thống nhất

trọn vẹn hôm nay. Nâng cao tinh thần yêu nước, tự hào về truyền thống anh
hùng của dân tộc là lương tâm và trách nhiệm của mỗi người Việt Nam chân
chính. Trung với nước ngày nay là trung thành vô hạn với sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền văn hóa,
bảo vệ Đảng, chế độ, nhân dân và sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích của đất
nước.
Trung với nước, hiếu với dân ngày nay là luôn luôn tôn trọng, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân dưới cả ba hình thức: làm chủ đại diện, làm chủ
trực tiếp và tự quản cộng đồng; hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, giải quyết
kịp thời những yêu cầu, kiến nghị hợp tình, hợp lý của dân.
- Trung với nước, hiếu với dân ngày nay thể hiện ở ý chí vươn lên quyết tâm
vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, góp phần dựng xây đất nước phồn vinh, sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, theo kịp trình độ các nước phát triển
trong khu vực và thế giới; thực hiện bằng được mong ước của Bác Hồ kính yêu:
"xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn".
- Trung với nước, hiếu với dân là phải luôn luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết
toàn dân tộc, đoàn kết trong Đảng, trong cơ quan, đơn vị; kiên quyết đấu tranh
không khoan nhượng trước mọi mưu đồ của các thế lực thù địch, cơ hội hòng
chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, chia rẽ Đảng với nhân dân.
Đoàn kết là yêu nước, chia rẽ là làm hại cho đất nước.

Trang số 10
- Trung với nước hiếu với dân là phải có tinh thần trách nhiệm cao đối với
công việc, có lương tâm nghề nghiệp trong sáng; quyết tâm phấn đấu để thành
đạt và cống hiến nhiều nhất cho đất nước, cho dân tộc; quyết tâm xây dựng quê
hương giàu đẹp, văn minh. Phải có tinh thần ham học hỏi, phát huy truyền thống
hiếu học và quý trọng nhân tài của ông cha ta; biết vận dụng sáng tạo các tri
thức khoa học, công nghệ hiện đại, các sáng kiến trong sản xuất, công tác, hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
- Trung với nước, hiếu với dân yêu cầu mỗi chúng ta phải giải quyết đúng

đắn mối quan hệ cá nhân - gia đình - tập thể - xã hội; quan hệ giữa nghĩa vụ và
quyền lợi. Theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh, yêu nước là sẵn sàng phấn đấu hy
sinh cho lợi ích chung, việc gì có lợi cho dân, cho nước, cho tập thể thì quyết chí
làm, việc gì có hại thì quyết không làm.
Ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, cách mạng
đi đến tận cùng, giành thắng lợi triệt để. Tháng 8-1945, Cách mạng thánh Tám
thành công. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc
lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Có thể nói, Cách mạng
tháng Tám là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ đầu tiên đã chọc thủng một khâu
trọng yếu của hệ thống thuộc địa thế giới, đã giành thắng lợi bằng lực lượng vĩ
đại của chính mình, đã xây dựng nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
Tinh thần Cách mạng tháng Tám là “tinh thần độc lập, tự chủ, dựa vào sức
mình, chủ động, sáng tạo, quật khởi xông lên, xóa bỏ xích xiềng nô lệ, tự mình
thay đổi cuộc sống của mình”
(8)
. Chính vì thế, Cách mạng tháng Tám ở Việt
Nam đã nêu lên một tấm gương về tinh thần cách mạng, về con đường cách
mạng, và là thắng lợi đầu tiên mở đầu cho cao trào giải phóng dân tộc sau chiến
tranh thế giới lần thứ hai. Phối hợp với Cách mạng tháng Tám Việt Nam, nhân
dân Lào đã nổi dậy cướp chính quyền và ngày 12-10-1945, nước Lào tuyên bố
độc lập. Ở Campuchia, nhân dân Khmer cũng đứng lên đấu tranh mạnh mẽ đòi
độc lập dân tộc.

Trang số 11
Nhiệm vụ của sinh viên trong công cuộc xây dựng đất nước
Đảng ta xác định nhiệm vụ cách mạng nước ta trong giai đoạn mới là: Kiên
định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục đường
lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phấn đấu đến năm 2020,
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Trên cơ sở nhiệm vụ cách mạng của Đảng và thực tiễn công tác Đoàn và phong
trào thanh niên hiện nay, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VIII đã xác định nhiệm
vụ chính trị của thanh niên Việt Nam là: "Rèn luyện về lý tưởng, đạo đức cách
mạng, về trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp, về thể chất, xung kích đi
đầu tham gia phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ Tổ quốc; xây dựng Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh vững
mạnh, mở rộng mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên, góp phần xây dựng Tổ
quốc Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Khẩu hiệu hành động là: "Tuổi trẻ Việt Nam thi đua học tập, rèn luyện, lao động
sáng tạo, xung kích, tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Phong trào thi đua lớn là: "Thi đua, tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc",
với 4 nội dung:
1. Thi đua học tập, đi đầu xây dựng xã hội học tập và tiến quân vào khoa học
công nghệ.
Trong giai đoạn phát triển nhanh của khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức,
việc học tập để đáp ứng với sự phát triển đó trở thành yêu cầu và nhu cầu thiết
thân đối với mỗi thanh niên.
- Tinh thần và thái độ học tập của thanh niên phải là: Học để làm người, học để
phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân; học ở trường, học ở sách vở, học lẫn
nhau, học ở nhân dân, học suốt đời, thanh niên phải đi đầu trong một xã hội học
tập.
- Học tập toàn diện: Văn hoá, chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin
học… Tích cực nghiên cứu khoa học, tuyên truyền ứng dụng khoa học kỹ thuật,
hăng hái tham gia các hoạt động sáng tạo.
2. Thi đua lập nghiệp, lao động sáng tạo, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
cơ cấu lao động và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện mới.
- Thi đua lập thân, lập nghiệp, xoá đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu chính
đáng. Phát triển rộng rãi phong trào sản xuất, kinh doanh giỏi; đẩy mạnh phong
trào tiết kiệm, tích luỹ trong thanh niên.
- Đẩy mạnh hoạt động lao động sáng tạo với tri thức và công nghệ mới, với năng


Trang số 12
suất và chất lượng sản phẩm cao hơn trước. Đẩy mạnh hoạt động “Sáng tạo trẻ”,
phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới.
3. Tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng, xung kích thực hiện nhiệm vụ kinh tế -
xã hội. Đặc biệt ở những lĩnh vực, địa bàn và đối tượng khó khăn.
- Tổ chức và tích cực tham gia các phong trào tình nguyện. Tổ chức thường
xuyên các hoạt động tình nguyện tại chỗ, ngày thứ bảy tình nguyện, chủ nhật
xanh; thành lập các đội hình thanh niên tình nguyện đảm nhận các việc khó, việc
mới, những vấn đề bức xúc; tích cực tham gia bảo vệ môi trường, phòng chống
thiên tai. Tình nguyện giúp đỡ người già, gia đình chính sách, trẻ em có hoàn
cảnh khó khăn. Tích cực và gương mẫu tham gia xây dựng đời sống văn hoá ở
cơ sở.
- Xung kích thực hiện các chương trình dự án. Tham gia thực hiện các dự án
quốc gia về phát triển kinh tế biển đảo, xây dựng đường Hồ Chí Minh, xây dựng
cầu nông thôn mới và khu dân cư ở đồng bằng sông Cửu Long. Chủ động đề
xuất đảm nhận các dự án, các công trình, phần việc thanh niên tham gia phát
triển kinh tế – xã hội của địa phương.
4. Xung kích bảo vệ Tổ quốc, đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội.
- Hăng hái tham gia các hoạt động xây dựng nền quốc phòng toàn dân, gương
mẫu thực hiện luật nghĩa vụ quân sự, thường xuyên học tập nâng cao nhận thức
về tình hình, nhiệm vụ mới, ý thức cách mạng, nhận rõ âm mưu "diễn biến hoà
bình" của các thế lực thù địch.
- Tích cực tham gia các hoạt động giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội, giữ gìn an toàn giao thông, đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã
hội.
- Tham gia có hiệu quả phong trào "Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ
nguồn”, “Khoẻ để giữ nước” và cuộc vận động “Nghĩa tình biên giới, hải đảo".
- Trong thanh niên Quân đội, đẩy mạnh phong trào "Giành 3 đỉnh cao quyết
thắng" và cuộc vận động "Thanh niên Quân đội mẫu mực xây dựng chính qui”

với 5 nội dung: Mẫu mực về đạo đức, lối sống; mẫu mực về hành động theo điều
lệnh; mẫu mực về lễ tiết, tác phong quân nhân; mẫu mực về nội vụ vệ sinh; mẫu
mực về kỷ luật tự giác, nghiêm minh.
- Trong thanh niên Công an, thi đua thực hiện tốt phong trào "Thanh niên Công
an học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy" cụ thể là phong trào "2 thi đua, 2 tình
nguyện", với 4 nội dung là: Thi đua rèn đức, luyện tài; thi đua xung kích lập
công; tình nguyện tăng cường cho lực lượng trực tiếp chiến đấu, hướng về cơ
sở; tình nguyện chung sức cùng cộng đồng.

Trang số 13
Cơ hội:
- Sự nghiệp đổi mới của Đảng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; sự quan tâm của Đảng, N
Câu hỏi 4: Để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, mỗi đoàn viên, thanh niên cần
phải làm gì?
Trả lời:
Để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, người thanh niên thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá phải là người có lý tưởng và đạo đức cách mạng; có lối sống văn
hoá; có ý chí tự tôn, tự cường dân tộc, có trình độ học vấn, giỏi về chuyên môn,
nghề nghiệp; có sức khoẻ tốt; có năng lực, tiếp cận và sáng tạo công nghệ mới,
có ý chí chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, mỗi đoàn viên, thanh niên
cần phải:
- Trau dồi về lý tưởng, rèn luyện đạo đức. Sống có văn hoá, chấp hành
nghiêm chỉnh các chủ trương, chính sách của Đảng, luật pháp của Nhà nước.
Gương mẫu trong cộng đồng, làm tròn bổn phận của người công dân.
- Tích cực học tập nâng cao trình độ về chính trị, học vấn, chuyên môn,
nghiệp vụ. Ra sức nâng cao tay nghề, kỹ năng lao động, trình độ ngoại ngữ, tin
học. Vươn lên nắm vững khoa học, kỹ thuật, công nghệ.
- Hăng hái tham gia các hoạt động tình nguyện, ngày thứ bảy tình nguyện;

tham gia các đội hình thanh niên tình nguyện, sẵn sàng đảm nhận việc khó, việc
mới, những vấn đề bức xúc; chủ động tham gia phát triển kinh tế - xã hội, giữ
gìn quốc phòng, an ninh ở mỗi địa phương, đơn vị.
- Phấn đấu nâng cao chất lượng của người đoàn viên; tích cực tham gia các
hoạt động của Đoàn, Hội, Đội; mỗi đoàn viên gắn hoạt động của mình với hoạt
động của tập thể thanh niên nơi mình sinh sống hoặc công tác.
Người đoàn viên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trước
hết phải là:
Người công dân tốt;
Người bạn tốt của thanh niên;
Là tấm gương tốt của thiếu nhi;
Là người có uy tín trong tập thể thanh niên và cộng đồng dân cư.

Quan trọng nhất của giáo dục không chỉ là tri thức, mà còn là cách sống.
Theo tôi, giáo dục phổ thông là dạy làm người, còn giáo dục đại học là dạy
nghề.
Ông J. Dewey có một tư tưởng rất hay: Giáo dục chính là cuộc sống. Tôi cho
đây là tư tưởng cực hay. Dạy đứa trẻ chính là dạy nó sống. Nó không biết sống
cho đúng thì làm sao có đủ bản lĩnh trước cuộc đời.
Đã đến lúc phải xem lại toàn bộ chương trình giáo dục. Nhà trường quan trọng
trước hết phải dạy người ta sống. Chứ không phải chỉ cung cấp tri thức, dạy hiểu
biết, dạy tư duy, cho dù là tư duy sáng tạo."
Chứng minh cau 1

Trang số 14
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, điều cốt yếu đầu tiên mà Nguyễn Ái
Quốc yêu cầu cách mệnh cần phải có đó là đảng cách mệnh. Người viết: “Trước
hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài
thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản mọi nơi”.
Rõ ràng, muốn cách mạng thành công phải có Đảng lãnh đạo. Song nếu chỉ

dừng lại ở đó không thì chưa đủ, mà Đảng đó phải vững. Đảng muốn vững,
muốn mạnh phải có một lý luận soi đường. Lý luận đối với cách mệnh Đảng như
trí khôn đối với người, bàn chỉ nam đối với con tàu. Làm cách mạng mà không
có lý luận soi đường như đi trong đêm tối mà không có đuốc, phải mò mẫm rất
khó.
Để khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách
mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ: chỉ có Đảng cách mạng chân chính của
giai cấp công nhân, biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện
cụ thể của nước mình mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thắng
lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công.
Từ thực tiễn của các cao trào đấu tranh cách mạng giai đoạn 1930 -1945, giai
đoạn 9 năm trường kỳ kháng chiến chống Pháp và 21 năm chống Mỹ, thống
nhất nước nhà, đặc biệt từ khi đổi mới (năm 1986) đến nay, chúng ta càng không
thể phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Sự vĩ đại của Đảng càng thể hiện rõ hơn
hết là sau 20 năm lãnh đạo đất nước tiến hành đổi mới đã đưa nước ta thoát khỏi
những khủng hoảng về kinh tế - xã hội và đạt được những thành tựu rực rỡ: kinh
tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa phát triển,
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân
dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc
được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng an ninh
được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao.
Sức mạnh tổng hợp quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất
nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, phù
hợp với thực tiễn Việt Nam. Có được như vậy là do Đảng ta luôn không ngừng
nâng cao trình độ lý luận, đúc rút kinh nghiệm thực tiễn, từng bước bổ sung
hoàn thiện đường lối đổi mới một cách sáng tạo, khoa học và đúng đắn.
Câu 5: Bằng lý luận và thực tiễn, hãy chứng minh luận điểm: Cách mạng
giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động sáng tạo và có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở "chính quốc" là một sáng tạo lớn của Hồ

ChíMinh?
Trả Lời:
• Đây là một luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giũă giải
phóng dân tộc với cách mạng vô sản:
- Theo Mac- Ănghen: cách mạng vô sản ở chính quốc là cần thiết và được thực
hiên trước.
- Theo Lênin: cách mạng ở thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính
quốc.
- Còn theo Hồ Chí Minh: Cách mạng giải phóng dân tộc phai rđược tiến hành

Trang số 15
chủ động và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
• Cơ sở đưa ra luận điểm:
- Hồ Chí Minh vận dụng những nguyên lý mà C.Mác đưa ra: " Sự giải phóng
của giai cấp công nhân chỉ có thể thực hiện được bởi giai cấp công nhân" để đưa
đến khẳng định: " Công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng
sự nỗ lực của bản thân anh em".Vì thế nên công cuộc giải phóng các dân tộc
thuộc địa phải do chính các dân tộc đó thực hiện.
- Hồ Chí Minh nhận thấy sự tồn tại và phát triển của CNTB là dực trên sự bóc
lột giai cấp vô sản ở chính quốc và nhân dân các dân tộc thuộc địa vì vậy cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc phải kết hợp chặt chẽ với cuộc đấu
tranh của các dân tộc thuộc địa thì mới tiêu diệt được hoàn toàn CNTB. Hơn
nữatheo đánh giá của HCM trong giai đoạn ĐQCN sự tồn tại, phát triển của
CNTB chủ yếu dựa vào việc bóc lột nhân dân các nước thuộc địa vì vậy cuộc
CMVS ở chính quốc trước chẳng khác nào đánh rắn đằng đuôi.
- Theo HCM chính CMGPDT ở thuộc địa có sức bật thuận lợi hơn vì:
+ Chính sách khai thác thuộc địa hết sức tàn bạo của CNĐQ là mâu thuẫn giữa
nhân dân thuộc địa với CNĐQ ngày càng gay gắt vì vậy mà tiêm năng cách
mạng của các dân tộc bị áp bức là rất to lớn.
+ Tinh thần yêu nước và CNDT chân chính của các dân tộc thuộc địa là một sức

mạnh tiềm ẩn của CMGPDT. Sức mạnh đó nếu được chủ nghĩa Mac- Lênin giác
ngộ và soi đường thì CMGPDT ở các nước thuộc địa sẽ có một sức bật rất lớn
và có khả năng chủ động cao so với CMVS ở chính quốc.
+ Thuộc địa là khâu yếu của CNTB nên CMGPDT ở thuộc địa dễ dàng giành
chính quyền hơn.
• Ý nghĩa:
- Đây là luận điểm có ý nghĩa thực tiễn to lớn giúp CMGPDT ở Việt Nam không
thụ động, ỷ lại chờ sự giúp đỡ từ bên ngoài mà luôn phát huy tính độc lập tự
chủ, tự lực, tự cường nhờ đó mà CMVN giành thắng lợi vĩ đại.
- Góp phần định hướng cho phong trào GPDT ở các nước khác trên thế giới
trong thời kỳ đó.

Trang số 16

×