Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT MAY NHẰM THOẢ MÃN TỐT HƠN NHU CẦU NGƯỜI TIÊU DÙNG Ở NHÁNH VĂN HOÁ NGƯỜI KINH.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.09 KB, 31 trang )

Lời giới thiệu
Ngày nay, khi đề cập đến bất bất kì một vấn đề gì, đặc biệt là trong lĩnh
vực sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Ngời ta cần phải quan tâm trớc hết đến
yếu tố con ngời về những đặc trng tâm lý của họ. Các đặc trng này không tách
rời khỏi mối quan hệ với lẽ sống, nếp sống và chất lợng cuộc sống. Hơn nữa,
yếu tố sinh học trong mỗi con ngời là khác nhau tác động của môi trờng xung
quanh đến con ngời cũng khác nhau. Điều này có ảnh hởng tới mọi hoạt động
tiêu dùng của con ngời.
Thực tế cho thấy, chất lợng cuộc sống chỉ đợc nâng cao hơn và phát triển
khi nó ngắn liền với lao động và tiêu dùng giao lu quốc tế. Ngày nay, mỗi dân
tộc dù phát triển hay đang phát triển trong đó có Việt Nam chúng ta đều ví
chất lợng cuộc sống nh là cái đỉnh, cái mục tiêu cần hớng tới. Nói nh vậy
không có nghĩa là chúng ta không quan tâm đến việc phát triển trình độ của
các dân tộc, trình độ dân chí, đạo đức, quan tâm đến nghiên cứu, thị hiếu và
thói quen luôn thay đổi của ngời. Sản xuất không phải là mục đích tự thân, sản
xuất để tiêu dùng muốn tiêu dùng phải sản xuất. Sản xuất càng phát triển thì
tiêu dùng càng gia tăng. Sự đa dạng về phong phú về tiêu dùng trong thời đại
chúng ta đang trở thành động lực mạnh mẽ cho sự phát triển cha từng thấy cuả
sản xuất. Sự đa dạng và phong phú đó đợc bắt nguồn vừa từ truyền thống, tập
quán tiêu dùng của dân tộc vừa từ quá trình quốc tế hóa, sự giao lu văn hoá và
hội nhập các dân tộc. Hơn bao giờ hết, hiện nay quá trình hội nhập đang diễn
ra mạnh mẽ, vì vậy chúng ta cần có phơng hớng phát triển đúng đắn nhu cầu
và cách tiêu dùng nói chung để góp phần làm đẹp cho chất lợng cuộc sống
của mỗi con ngời.
Đất nớc chúng ta đang thời kỳ phát triển, việc xác định xu hớng và tìm ra
những giải pháp để các ngành nghề kinh doanh trong đó có ngành dệt may là
cần thiết. Do dới hạn về kiến thức về khả năng của mình mà nội dung đề tài
của em không thể nghiên cứu riêng lẻ từng ngành nghề, từng ngời một đợc mà
chỉ xét một cách tổng quát những nét duy nhất đặc trng tiêu biểu của nhánh
văn hoá ngời kinh với hành vi tiêu dùng sản phẩm may mặc thuộc ngành dệt
may. Qua đó, muốn tìm hiểu kỹ hơn và sâu hơn về thực trạng ngành dệt may


hiện nay nhằm đa ra một vài xu hớng biện pháp để có thể đa ngành dệt nớc ta
phát triển hơn vững bớc trên con đờng hội nhập của thế kỷ 21.
1
Ch ơng I .
Nhánh văn hoá ngời kinh và hành vi ngời
tiêu dùng của nhánh văn hoá này đối
với sản phẩm maY mặc
1. Các khái niệm về văn hoá của các nhà nghiên cứu các nhà hoạt động
xã hội và các tổ chức
Cha bao giờ văn hoá đợc đề cập, suy nghĩ nhiều nh thời gian gần đây.
Một điều mà hầu nh những ai quan tâm cũng nhận thấy rằng: Càng đi sâu
nghiên cứu tìm hiểu văn hoá ngời ta càng thấy sự đa dạng phong phú của nó
trong hình thức biểu hiện và các tác động ảnh hởng của nó tới đời sống sinh
hoạt của con ngời, đôi khi có những cái thật khó hiểu. Nh vậy, vấn đề về văn
hoá vẫn đang còn là một dấu hỏi, một khoảng không vô tận cần phải tìm hiểu
và khám phá. Nh học giả J.Derida đã từng nói: văn hoá là cái tên mà chúng ta
đặt cho điều bí ẩn không cùng đối với những ai ngày nay đang tìm cách suy
nghĩ về nó . Đành rằng cách nói này của ông ta thấy có phần bất khả tri, song
về điều đó chúng ta không có ý định khai thác. Và ý tởng của ông về sự vô
cùng tận của văn hoá thì đáng để chúng ta phải khám phá và chiêm nghiệm.
Cha một ai có thể xác định đợc văn hoá xuất hiện từ khi nào? Vì vậy, việc đa
ra đáp án cho câu hỏi đó mới là những dự đoán dựa trên những nghiên cứu
khoa học của các nhà khảo cổ học. Cũng nh cha có ai có thể đa ra đợc một
cách định nghĩa đầy đủ và chính xác nhất. Vì vậy, đã có rất nhiều định nghĩa
khác nhau về văn hoá. Ngời ta đã từng định nghĩa về văn hoá nh sau: Văn hóa
là một hệ thống hữu cơ các giá trị (vật chất và tinh thần, tĩnh và động, vật thể
và phi vật thể ) do con ng ời tạo ra và tích luỹ trong quá trình hoạt động thực
tiễn trong sự tơng tác với môi trờng tự nhiên và xã hội của mình. Khái niệm
này đợc xây dựng trên cơ sở 4 đặc trng của văn hoá là tính nhân sinh, tính giá
trị, tính hệ thống và tính lịch sử. Đây là những đặc trng cần và đủ cho phép

phân biệi văn hoá và những khái niệm có liên quan. Nó có khả năng bao quát
rất nhiều các cách tiếp cận khác nhau, cách hiểu khác nhau về văn hoá mà còn
có thể cho phép chúng ta nhận diện một hiện tợng văn hoá và phân biệt chúng
với những hiện tợng không phải là văn hoá. Trong khái niệm này, có đề cập
đến giá trị vật chất và tinh thần, theo đó ngời ta cũng chia văn hoá thành văn
hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Văn hoá vật chất bao gồm toàn bộ những
sản phẩm vật chất do hoạt động sản xuất của con ngời tạo ra nh đồ ăn, đồ mặc,
nhà cửa, đồ sinh hoạt hàng ngày, công cụ sản xuất, phơng tiện đi lại Còn
2
văn hoá tinh thần bao gồm toàn bộ những sản phẩm do hoạt động sản xuất
tinh thần của con ngời sáng tạo ra nh t tởng, tín ngỡng, tôn giáo, nghệ thuật, lễ
hội, phong tục, đạo đức, ngôn ngữ, văn chơng Tuy nhiên, sự phân chia này
mới nhìn tởng nh khá rõ và hiển nhiên, song nhìn kĩ sẽ thấy xuất hiện hàng
loạt trờng hợp phức tạp khó có thể phân biệt ví nh các hoạt động, các quan hệ
sản xuất thì xếp vào văn hoá vật chất hay văn hoá tinh thần? Không ít các sử
dụng sinh hoạt hàng ngày (bằng vật chất) lại có giá trị nghệ thuật rất cao
(bằng tinh thần) ví dụ nh cái muôi múc canh thời Đông Sơn có gắn hình ngời
ngồi thổi kèn, chiếc ngai vàng đợc chạm chỗ công phu; ngợc lại, các sản phẩm
tinh thần thờng tồn tại dới dạng vật chất hoá ví nh pho tợng, quyển sách
Trong thực tế, văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần luôn gắn bó mật thiết với
nhau và có thể chuyển hoá cho nhau. Không phải ngẫu nhiên mà CMác nói
rằng: T tởng sẽ trở thành những lực lợng vật chất khi nó đợc quần chúng hiểu
rõ. Bởi vậy tuỳ theo những mục đích khác nhau, việc phân biệt văn hoá vật
chất và văn hoá tinh thần phải dựa vào các tiêu chí khác nhau. Nhng dù vật
chất hay tinh thần cũng phải đợc chuyển thành hiểu biết đợc mọi thành viên
trong cộng đồng văn hoá chia sẻ, những hiểu biết này sẽ chi phối cách sinh
hoạt, hoạt động ứng xử, giao tiếp của mỗi ngời trong cộng đồng. Chúng là căn
cứ để đánh giá hành vi của ai đó có phù hợp với văn hoá cộng đồng hay
không? Chúng cũng là nội dung của giáo dục văn hoá, là nội dung chuyển
giao giữa các thế hệ đảm bảo cho tính đồng nhất, tính truyền thống của một

nền văn hoá nhất định.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về văn hoá, ngời ta có thể hiểu theo nghĩa
rộng hoặc theo nghĩa hẹp. Văn hoá theo nghĩa hẹp đợc giới hạn theo chiều sâu
hoặc theo chiều rộng theo không gian hoặc theo thời gian Giới hạn theo
chiều sâu văn hoá đợc hiểu là những giá trị tinh hoa của nó (nếp sống văn hoá,
văn hoá nghệ thuật), giới hạn theo chiều rộng văn hoá đợc dùng để chỉ những
giá trị trong từng lĩnh vực (văn hóa giao tiếp, văn kinh doanh) giới hạn theo
không gian văn hoá đợc chỉ những giá trị đặc thù của từng vùng (văn hoá Tây
Nguyên, văn hóa Nam Bộ ) giới hạn theo thời gian văn hoá đ ợc dùng để chỉ
những giá trị trong từng giai đoạn (văn hoá Hoà Bình, văn hoá Đông Sơn )
theo nghĩa rộng văn hoá thờng đợc xem là tất cả những gì do con ngời sáng
tạo ra.
Hồ Chí Minh đã viết trong bản thảo nhật kí trong tù: vì lẽ sinh tồn cũng
nh mục đích cuộc sống loài ngời đã sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, đạo
đức, pháp luật khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phơng thức sử dụng sinh hoạt cùng
3
với những biểu hiện của nó mà loài ngời đã sản sinh ra nhằm thích ứng những
nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.
Cũng theo Federico Mayo TGĐ UNESCO đã viết trong tạp chí ngời đa tin
UNESCO (số 11 năm 1989) nh sau: đối với một số ngời, văn hoá chỉ gồm
những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực t duy và sáng tạo, đối với những
ngời khác văn hoá chỉ gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân
tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất đến những phong tục tập
quán tín ngỡng, lối sống và lao động.
Còn theo nghị quyết trung ơng bộ chính trị khoá VI đã nhấn mạnh: văn
hoá là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần của xã hội, thể hiện trình độ
phát triển chung của một đất nớc, một thời đại, là lĩnh vực sản xuất tinh thần
tạo ra những giá trị văn hoá những công trình nghệ thuật đợc lu truyền từ đời
này sang đời khác, làm giàu đẹp thêm cuộc sống con ngời nh vậy, văn hoá

không phải là một hoạt động phi sản xuất, một lĩnh vực ăn theo các lĩnh vực
hoạt động khác. Càng ngày thế giới càng nhận ra rằng: Sự phát triển chỉ thực
sự bền vững nếu đặt trong nền tảng văn hoá, đời sống con ngời chỉ thực sự
mang tính ngời nếu nó có đầy đủ một nguồn năng lợng tối thiểu là các giá trị
văn hoá. Nh vậy, xét đến cùng con ngời có nhu cầu về văn hoá không kém gì
các nhu cầu vật chất và tơng lai nhu cầu về văn hoá (tức là hởng thụ tiêu dùng
văn hoá) sẽ còn tăng lên gấp bội.
Cho đến tận hôm nay, số lợng các định nghĩa về văn hoá đã có đến hàng
trăm, thậm chí có học giả còn cho rằng đã có trên một nghìn định nghĩa về văn
hoá. Những con số đợc nêu đều có những căn cứ nhất định về mặt thống kê.
Các định nghĩa đang đợc sử dụng, trên thực tế, cũng vẫn là những định nghĩa
có tính chất quy ớc nhằm đi tới một khái niệm thỏa thuận để tiện sử dụng.
Việc định nghĩa văn hoá vẫn xem nh là điều thách thức. Những định nghĩa
xuất phát từ những cách nhìn khác nhau tiếp tục xuất hiện.
Nh vậy, văn hoá là một đối tợng của sự khảo cứu mà cái đợc biểu đạt trong
đó, trong không ít trờng hợp, lại quá tinh tế hoặc quá xác định. Khái niệm văn
hoá dùng để biểu đạt một tính chất (một thuộc tính, một khía cạnh một phơng
diện) tồn tại trong mọi sự vật hiện tợng, mọi quá trình có mối liên hệ với
con ngời, bất kể sự vật hiện tợng trong quá trình đó thuộc về vật chất hay
thuộc về t duy, cái gì đụng đến con ngòi tức là có ảnh hởng đến con ngời hoặc
đợc con ngời tìm hiểu, nhận thức tác động cũng đều có khía cạnh văn hoá
trong nó .
Nhợc điểm lớn nhất của nhiều định nghĩa về văn hoá lâu nay là ở chỗ coi
văn hoá nh là là một phép cộng đơn thuần của những tri thức bộ phận. Định
4
nghĩa văn hoá trong các loại từ điển, các công trình nghiên cứu thờng mở đầu
bằng câu văn hoá là một tập hợp hoặc một phức hợp của các giá trị quan
niệm cảm tính này là sản phẩm của lịch sử của thời kỳ chia tách văn hoá khi
mà văn hoá cha đợc coi là một đối tợng khoa học độc lập.
Kinh nghiệm lịch sử của xã hội loài ngời cho thấy rằng: Chỉ hoạt động

trong cái quỹ đạo của văn hoá, con ngời cá thể và cộng đồng mới có khả
năng trở thành chủ chân chính của hoàn cảnh. Nói một cách khác, nếu biết
chú ý một cách đúng mức đến vai trò của văn hoá trong việc khẳng định đặc
thù nhân tính của hoạt động ngời, thì hoàn cảnh tự nhiên và xã hội có cơ
may đợc bảo toàn trong quỹ đạo của cái văn hoá, có khả năng không biến
thành nơi bất hạnh của con ngời.
Nh vậy, bản chất của văn hoá nằm ở thái độ và cách thức hoạt động của
con ngời. Đó là hai mặt của một thuộc tính của mối quan hệ giữa con ngời với
thế giới bên trong và thế giới bên ngoài của nó. Có thể hình dung thuộc tính
đó nh một lát cắt đi qua toàn bộ mối quan hệ phong phú và phức tạp của con
ngời và hiện thực .
2. Các đặc trng tiêu biểu của nhánh văn hoá tiêu dùng ngời kinh
Nh đã đề cập ở trên , văn hoá vật chất bao gồm tất cả những gì do hoạt
động sản xuất của con ngời tạo ra trong quá trình sống và lao động. Còn văn
hoá tinh thần do toàn bộ hoạt động tinh thần của con ngời sáng tạo ra. Trong
mục này, chúng ta sẽ tìm hiểu một cách cụ thể hơn về các khái niệm này.
a, Văn hoá vật chất :
Về nơi c trú, khảo cổ học cha tìm thấy một cách chắc chắn của các nền
nhà. Nhng một số cho rằng đã có những ngôi nhà nhỏ cho gia đình và những
ngôi nhà lớn cho sinh hoạt cộng đồng. Nhà sàn là phổ biến, dựa vào những
dấu vết những thanh gỗ còn lại cũng nh các hình khắc trên trống đồng.
Về ăn uống, đã hình thành tập tục ăn cùng mâm ngồi cùng chiếu trong
gia đình, mà không có điều kiện chia cắt ăn từng khẩu phần riêng. Gạo nếp,
gạo tẻ đều đợc dùng, chỗ đồ xôi tìm đợc khắp nơi. Hẳn là đã có nhiều thứ
bánh đợc làm từ gạo nếp và bột gạo. Nhìn chung, thức ăn thực vật có giá trị
lớn hơn thức ăn động vật. Thịt gia súc chủ yếu chỉ dùng cho lễ cúng tổ tiên.
Nguồn thức ăn đạm động vật chủ yếu là đạm thuỷ sản. Cá có một vị trí vô
cùng quan trọng. Có thể nói, đặc trng văn hoá ăn Việt Nam là cơm cá và cơm
canh. Bát canh rau cũng có vị chí quan trọng trong bữa ăn của ngời Việt Nam,
canh là thức ăn nhng cũng là thức uống, ăn cùng với cơm, trộn với cơm. Điểm

này khác với nhiều dân tộc.
Ngoài ra ngời Việt còn làm mắm, muối da và nói chung các phơng thức
làm thức ăn dựa vào vi sinh vật ra đời khá sớm ở Việt Nam cũng nh ở Đông
Nam á, do điều kiện khí hậu nóng ẩm ở vùng này. Có ngời nói rằng: nghề
5
chăn nuôi sớm nhất và phổ biến ở Đông Nam á đó là nghề chăn nuôi vi sinh
vật. Đã có rợu do ủ men, nh rợu nếp, rợu các thứ nớc quả cũng đã có sớm.
Về văn hoá mặc, thì váy cho phụ nữ và khố cho đàn ông là đặc trng cơ
bản. Những yếu tố này còn tồn tại cho đến cách mạng tháng tám. Quần có lẽ
là yếu tố xuất hiện muộn và đợc du nhập từ phơng Bắc, áo không đợc coi
trọng vì ở xứ nóng. Đã có yếm cho phụ nữ còn đàn ông cởi trần. Trong khi đó
đồ trang sức lại đợc đặc biệt a chuộng. Có đủ loại đồ trang sức với nhiều kiểu
khác nhau bằng đá quí, bằng thuỷ tinh hay bằng đồng, nh vòng tay, vòng
cánh tay, vòng cổ, vòng chân, hoa tai, chuổi hạt Cả nữ lẫn nam đều dùng
trang sức. Sau này, nh ta thấy việc sử dụng đồ trang sức có phần giảm đi ở dân
tộc kinh, có lẽ do ảnh hởng của nho giáo.
b. Về văn hoá tinh thần :
C dân Việt Nam ở thời Đông Sơn cũng đã tạo ra bộ mặt riêng, khởi nguồn
cho những đặc điểm văn hoá Việt Nam sau này. Về hội họa và điêu khắc, ngời
Đông Sơn đã có những phong cách riêng, không thể trộn lẫn với bất cứ văn
hoá nào trong khu vực. Tuy cũng là miêu tả hiện thực, nhng nghệ thuật tạo
hình Đông Sơn chú trọng đến thần thái chung, ít chú ý đến chi tiết. Đến giai
đoạn muộn, tính cách điệu và tợng trng đã bộc lộ. Nghệ thuật Đông Sơn mở
đầu cho hình thái tạo hình mang đậm trang trí phát triển ở các thời kì sau.
Trong hoa văn trang trí, ngời thời đó đã phát hiện ra nhiều kiểu đối xứng khác
nhau. Về âm nhạc vũ đạo, từ thời Đông Sơn đã có nhiều yếu tố gần gũi với
dân tộc Mờng và dân tộc Tây Nguyên ngày nay.
Nhạc cụ gõ phát triển hơn nhiều nhạc cụ khác. ở phía Bắc, tiêu biểu là
trống đồng; trong khi ở phía Nam, đàn đá phổ biến, có thể đã có trống da. Các
loại khèn giống với khèn Mèo, khèn Thái sau này cũng đã đợc sử dụng. Nhiều

loại đàn dây mà ta có ngày nay thì đợc du nhập từ phơng Bắc về sau.
Về tín ngỡng, thờ cúng tổ tiên là một tín ngỡng đã đợc hình thành từ rất
sớm và xuyên suốt qua mọi thời kì lịch sử Việt Nam cho đến ngày nay. Tín
ngỡng phồn thực, gắn liền với các lễ cầu mùa, cũng rất phổ biến. Và cuối
cùng, sự sùng bái nữ thần với Nguyên lý Mẹ trở thành một cơ tầng vững chắc
cho tín ngỡng dân gian Việt Nam. Sau này phật giáo hay đạo giáo, một khi
truyền nhập vào Việt Nam, đều kết hợp với tín ngỡng sùng bái nữ thần. Thờ
Mẫu vẫn là một tín ngỡng bình dân mạnh mẽ tận hôm nay.
Nhìn chung, từ buổi đầu của văn minh Việt Cổ đã hình thành những đặc
điểm văn hoá riêng nhng vẫn rất gần gũi với các nền văn hoá Đông Nam á.
Có thể nói, văn hoá Việt Nam thời sơ sử là nằm trong nền cảnh Đông Nam á.
Về sau, do tiếp xúc với văn hoá Hán văn hoá Việt Nam mới mang thêm những
6
sắc thái Đông á, tuy nhiên nó không che lấp phủ kín lên nhau mà quện lẫn
vào nhau, đôi khi việc tách lớp không dễ. Tất cả đều góp phần hình thành nên
nền văn hoá Việt Nam đậm đà và phong phú nh ngày hôm nay.
3. Vai trò của văn hoá trong đời sống con ngời.
Mỗi một dân tộc đều đợc đặc trng bởi nền văn hoá riêng và nó có ảnh h-
ởng rất lớn tới đời sống, cách sinh hoạt của mỗi con ngời trong các dân tộc đó.
Vì lẽ gì mà văn hoá các dân tộc lại khác nhau nh vậy, vì rằng cách sinh hoạt
các dân tộc là không giống nhau, hơn nữa, điều kiện tự nhiên về địa lý cũng
khác nhau với các dân tộc khác nhau.
Khi xét mối quan hệ tơng tác giữa con ngời và văn hoá, con ngời luôn đ-
ợc xem xét là chủ nhân sáng tạo ra toàn bộ sản phẩm văn hoá, những sản
phẩm nhân tạo này hợp thành một thế giới văn hoá phân biệt với thế giới tự
nhiên, và đặt trong mối quan hệ với cuộc sống con ngời thì cái thế giới nhân
tạo đợc coi là hệ sinh thái văn hoá. Cùng với hệ sinh thái tự nhiên, hệ sinh thái
văn hoá thờng xuyên tác động đến con ngời, nó bồi dỡng tâm hồn, rèn luyện ý
chí và tôi luyện nên nhân cách con ngời. Trong quan hệ qua lại giữa con ngời
và văn hoá bộc lộ 3 khía cạnh quan trọng:

Con ngời - chủ thể thế giới văn hoá.
Con ngời - sản phẩm thế giới văn hoá đó.
Con ngời - đại biểu mang các giá trị văn hoá do chính con ngời tạo ra.
Văn hoá là một sản phẩm của hoạt động con ngời, nó không là cái gì khác
tự nó tồn tại bên trong cộng đồng nhân loại mà là toàn bộ những sản phẩm,
hoạt động chứa đựng vốn kinh nghiệm xã hội tạo thành "môi trờng văn hoá"
nuôi dỡng đời sống tinh thần con ngời. Hoạt động văn hoá thờng diễn ra trong
thế liên tục, muốn cho hoạt động này khỏi bị đứt đoạn thì mỗi thế hệ một phải
thờng xuyên làm công việc giáo hoá đối với thế hệ tơng lai. Chức năng giáo
dục của văn hoá đợc thể hiện ra nh là sự kế thừa của lịch sử.
Con ngời mới sinh ra phải tiếp nhận ảnh hởng của môi trờng tồn tại: Thế
giới vật thể nhà nớc pháp luật, tôn giáo, khoa học, nghệ thuật, phong tục và
các sinh hoạt tinh thần khác. Văn hoá và con ngời là hai khái niệm không thể
tách rời nhau, con ngời xuất hiện từ khi nào thì văn hoá xuất hiện từ khi đó. Vì
con ngời là chủ thể sáng tạo văn hoá nên trong suốt quá trình lịch sử hình
thành và phát triển của mình con ngời luôn cố gắng sáng tạo không ngừng để
làm nên các giá trị văn hoá. Một trong số những giá trị văn hoá đợc con ngời
sáng tạo ra ấy chính là bản thân con ngời con ngời có văn hoá.
Với t cách là sản phẩm của văn hoá con ngời là vật mang văn hoá tiêu
biểu. Các giá trị văn hoá vật chất có thể mất đi nhng nếu con ngời vật mang
7
văn hoá còn tồn tại thì văn hoá vẫn tồn tại và phát triển. Đối với mỗi cá nhân
vai trò của văn hoá lại càng đợc thể hiện rõ. Một đứa trẻ khi lọt lòng mẹ sẽ đ-
ợc nhúng vào môi trờng văn hoá có sẵn và phải học tập để nắm vững các kiểu
mẫu hoạt động, các mệnh lệnh, phơng thức ứng xử, mô hình thiết chế thế giới
đó. Bởi vừa ra đời, nó còn là một cơ thể sinh học đợc phú cho hàng loạt thuộc
tính tiềm năng và trong quá trình phát triển giáo dục của xã hội sẽ phát triển
các thuộc tính tiềm năng ấy.
Nếu sau khi ra đời, đứa trẻ bị đa vào rừng bị bứt khỏi cái nôi văn hoá, nó
sẽ lớn lên nh một con thú, thực tế đã có nhiều trờng hợp nh vậy, ngời ta đã

phát hiện nhiều đứa trẻ đợc bầy thú nuôi từ nhỏ. Khi đợc trở về với cuộc sống
loài ngời nhng vẫn không quên đợc những gì thuộc cách sinh hoạt của loài
thú, ban đêm chúng thờng hú lên và cuộc sống của chúng cũng rất ngắn ngủi.
Hay nh hai em bé trai 12 tuổi và A và B, em A sinh ra ở một thành phố Châu
Âu phát triển do vậy em có thể biết đợc ý nghĩa của các dấu hiệu đờng ô tô,
bảng điện, và thuộc lịch sử của dân tộc mình Còn em B sinh ra ở EtSkimô -
Alat Xca, em có khả năng sử dụng xiên cá, biết điều khiển xe chó, đi trong
đêm tối có bão tuyết, giải thích hiện tợng sấm chớp, nhật nguyệt thực theo các
quan niệm mà thế hệ cha ông đã truyền lại cho em. Hoặc là một đứa trẻ do bà
mẹ Việt Nam sinh ra và đợc lớn lên ở Việt Nam nó mang trong mình dòng
máu Việt Nam. Nhng nếu lại đợc nuôi dỡng trong gia đình Mỹ và sống ở Mỹ
nó hấp thụ nền văn hoá Mỹ và rất có thể sẽ trở thành ngời Mỹ.
Đây chính là kết quả giáo dục của hai nền văn hoá khác nhau. Các quá
trình sinh lý xác lập cơ sở sinh học của việc học tập ở hai em này tơng tự
nhau, nhng hai em bé này sống ở hai hệ thống kinh tế khác nhau gia đình
chúng kiếm sống theo các phơng thức khác nhau, các cộng đồng xã hội và văn
hoá của hai xã hội rất khác nhau. Vì vậy, tri thức tức là vốn văn hoá của hai
đứa trẻ hoàn toàn khác nhau, giữa chúng có những tiêu chuẩn khác nhau về
giá trị, phong tục khác nhau, những quy tắc ứng xử và phản ứng đối với cách
ứng xử của ngời khác hoàn toàn khác nhau. Chẳng hạn B hiểu rằng cuối đầu
trớc ngời khác tức là kính trọng họ còn theo A thì đó là sự mặc niệm họ. Đây
là quá trình hình thành nhân cách hai đứa trẻ làm cho nó thích ứng với cuộc
sống cộng đồng, là quá trình học tập và tiếp cận với văn hoá của đứa trẻ, tạo
cho nó những khả năng hiểu biết về nền văn hoá này và tự giác hoạt động
trong phạm vi văn hoá ấy. Nhờ quá trình văn hoá này mà hình thành nên
những thành viên mới của xã hội, dạy cho họ cần phải ứng xử nh thế nào và
cần phải làm gì để đạt đợc mục đích trong cuộc sống.
8
Nh vậy, mỗi một nền văn hoá có một phơng thức văn hoá hoá cá nhân
riêng của nó, từ đó mà hình thành nên những kiểu nhân cách khác nhau từ

trong mỗi nền văn hoá đó.
Ngày nay, khi xã hội đã phát triển đến một mức độ nhất định, sự giao lu
quốc tế và thông thờng giữa các quốc gia trở nên dễ dàng. Do đó mà sự xâm
nhập của các nền văn hoá khác nhau cũng trở nên phổ biến. Lúc này, vai trò
của văn hoá đợc thể hiện rõ ràng hơn bao giờ hết, nó giúp con ngời ta tồn tại
đúng với thực chất con ngời của mình, không bị pha tạp đến với con ngời
khác. Hơn nữa, nếu nh trong cuộc sống thiếu đi vai trò của văn hoá, cuộc sống
trở nên tẻ nhạt và vô hồn. Văn hoá không phải ngày một ngày hai hay tự nhiên
mà có, nó là cả một quá trình sáng tạo tích cóp cùng với lịch sử phát triển loài
ngời. Vì vậy, chúng ta cần giáo dục cho các tầng lớp nhân dân, trớc hết là
thanh thiếu niên lòng tự hào dân tộc không mặc cảm, tự ti với văn hoá dân tộc
và sùng bá văn hoá Âu - Mỹ mang nặng tính thực dụng và hởng thụ, coi nhẹ
tính nhân văn. Sự giao lu văn hoá với bên ngoài phải dẫn đến kết quả làm giàu
nền văn hoá dân tộc, làm sao ta vẫn là ta, vẫn giữa đợc cốt lõi bản sắc dân tộc.

9
CHƯƠNG II
Thực trạng hành vi ngời tiêu dùng sản phẩm may
mặc của nhánh văn hoá ngời kinh .
1. Xã hội Việt Nam và vấn đề trang phục trong giai đoạn trớc chuyển đổi.
a, Khái quát chung về tình hình kinh tế xã hội và lịch sử phát triển trang
phục Việt Nam.
Xã hội Việt Nam đợc hình thành và phát triển từ một cộng đồng ngời với
chặng đờng lịch sử lâu dài. Bề dày của lịch sử không ngừng đợc bồi đắp trong
quá trình đấu tranh với tự nhiên và kẻ thù xâm lợc để sinh tồn, phát triển. Với
khoảng 60 triệu dân, ngời Việt là dân tộc có số dân đông nhất. Đợc tập trung
chủ yếu ở vùng đồng bằng, vùng duyên hải và có mặt ở khắp mọi miền đất n-
ớc từ Lạng Sơn đến Minh Hải từ Cao Nguyên phía Tây đến Hải Đảo phía
Đông, phía Nam, với nhiều sắc thái văn hoá khác nhau.
Nhiều thành tựu khoa học mới về ngành khảo cổ học, sử học đã

chứng minh rằng: Ngời Việt là c dân bản địa của nớc ta, họ là c dân nông
nghiệp trồng lúa nớc, có thể nói văn minh ngời Việt là văn minh lúa nớc.
Trên nền tảng kinh tế lúa nớc, các giá trị văn hoá xã hội phát triển và đã
đợc kiểm chứng, sàng lọc qua rất nhiều thời kỳ.
Thời kỳ nguyên thủy giai đoạn sơ khai của xã hội loài ngời, chúng ta
cũng đã tổ chức đời sống mang tính cộng đồng cao, mọi ngời đã biết lao động
nh săn bắt, hái lợm, trồng cấy để phục vụ cho đời sống. Các nghề thủ công nh
đan lát, mộc, dệt cũng nảy sinh và phát triển. Riêng với nghề dệt, khảo cổ
học đã tìm thấy dọi xe chỉ bằng đất nung. Đây là cơ sở để ngời ta xác định
ngành dệt. thời kì này kéo dài vài chục vạn năm, lịch sử xã hội phát triển chậm
chạp nhng vẫn theo xu thế đi lên. Kinh tế nguyên thuỷ ở nớc ta chủ yếu là
kinh tế hái lợm, trồng trọt. Nó diễn ra trong phạm vi hẹp mang tính chất tự
nhiên tự cấp tự túc. ở đó, ngời ta trao đổi với thiên nhiên hơn là đối với xã hội,
tình trạng này khiến phân công lao động xã hội diễn ra yếu ớt chậm chạp, kinh
tế hàng hoá không có điều kiện phát sinh.
Sang đến thời kì bắt đầu dựng nớc ở Việt Nam cách đây khoảng 4 nghìn
năm lịch sử từ khi kĩ thuật luyện kim xuất hiện, cuộc sống cũng đã trở nên có
tổ chức hơn, ngời dân sống thành gia đình và đã định c thành từng làng xã,
bên cạnh quan hệ huyết thống là quan hệ láng giềng. Việc công cụ bằng kim
loại xuất hiện lại sống định c đã tạo điều kiện tập trung phát triển trồng trọt và
10
chăn nuôi. Với trồng trọt, bên cạnh việc trồng cây lơng thực, con ngời còn
trồng các loại cây thực phẩm, hoa quả, cây lấy sợi. Trồng trọt đã trở thành
nguồn sống chủ yếu của con ngời. Trong hoạt động canh tác việc sử dụng
công cụ bằng đồng và sắt cùng với việc bớc đầu sử dụng trâu bò đã góp phần
mở rộng diện tích trồng trọt, con ngời còn biết tận dụng nguồn nớc bên sông
để tới lúa. Bên cạnh đó, con ngời còn biết chăn nuôi các gia súc, gia cầm và
nó mang tính chất là nghề phụ trong gia đình. Ngoài ra, nghề thủ công nghiệp
cũng phát triển, kĩ thuật luyện kim đúc đồng cũng đạt tới một đỉnh cao mới.
sản phẩm của nó khá đa dạng thể hiện rõ nhất là trống đồng, nó đợc coi là một

kì công trong nền văn hoá dân tộc. Trong nghề dệt ngời dân còn trồng dâu
nuôi tằm, trồng các loại cây lấy sợi và dệt vải. Căn cứ vào y phục của nam nữ
in trên trống đồng chứng tỏ rằng nghề dệt đã có những tiến bộ nhất định.
Ngoài ra, nó còn cho thấy ở thời kì này dân tộc Việt Nam đã hoà nhập cùng
nhiều dân tộc khác trên thế giới, bớc vào ngỡng cửa của thời đại văn minh.
Thời kì phong kiến trung quốc đô hộ (938) cũng là một thời kì dài đợc
bắt nguồn từ phong kiến Trung Quốc, với các chính sách nô dịch và bóc lột
của phong kiến, đã tạo nên một trở ngại trên con đờng phát triển của của xã
hội Việt Nam. Nhiều cuộc đấu tranh chống áp bức để sinh tồn đã nổ ra, đây là
yếu tố quyết định tạo điều kiện mở đờng cho công thơng nghiệp có những
chuyển biến. Trong nông nghiệp, trồng trọt đã trở thành nguồn sống chủ yếu
của con ngời. Kĩ thuật trồng trọt có nhiều tiến bộ, công cụ bằng sắt và trâu bò
kéo cày đợc sử dụng phổ biến trong canh tác, hệ thống đê điều đợc hình thành
giữa các sông lớn vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Ngời dân đã biết
dùng phân bón để bón ruộng, biết triết cành cây để trồng. Trải qua quá trình
lâu dài trong canh tác ngời Việt Nam đã tiến tới trồng lúa trong hai vụ chiêm
mùa. Chăn nuôi gắn liền chặt chẽ với trồng trọt trong hoạt động kinh tế gia
đình. Ngoài nuôi vật nh lợn, gà để làm thực phẩm, các ngành nghề khác trong
nớc cũng tiếp tục phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu thông thờng về ăn, ở,
mặc, trong nhân dân, nhu cầu về giao lu văn hoá với nớc ngoài. Các ngành
nghề mới xuất hiện nh nghề khai thác mỏ luyện kim, nghề gốm Tất cả đều
thể hiện đờng nét hoa văn nghệ thuật rất tinh xảo. Riêng nghề dệt vẫn tiếp tục
phát triển, kĩ thuật dệt nhuộn đợc cải tiến. Nghề dệt đã cho những sản phẩm
nổi tiếng nh lụa, lĩnh, the, vóc, nhiễu với màu sắc họa tiết đẹp, đa dạng. Nh
vậy, thời kì phong kiến Trung Quốc đô hộ Việt Nam các ngành thủ công
nghiệp đã có sự phát triển nhng vẫn giữ đợc bản sắc dân tộc, ngoài ra các hoạt
động giao lu trao đổi trong nớc cũng nh nớc ngoài cũng đã đợc hình thành
trong nhu cầu ngời dân, ngời Việt đã tiếp thu đợc kinh nghiệm, kĩ thuật sản
11
xuất mới đa dạng bổ xung thêm vào ngành nghề thủ công nghiệp dân tộc.

Cũng nhờ có hoạt động giao lu mà giao thông vận tải cũng phát triển, mạng l-
ới giao thông thuỷ bộ nối liền các vùng trong nớc với nhau, nhiều loại thuyền
mảng đã có thể đi lại trên sông, biển; trên bộ thì voi ngựa đợc sử dụng để vận
chuyển đồ vật và kéo xe chở đồ tạo cơ sở hoạt động cho ngoại thơng. Nh vậy,
kinh tế Việt Nam cũng đã có sự phát triển trong thời kì này, tuy nhiên vẫn bị
ngăn cản bởi chế độ phong kiến Trung Quốc.
Đến thời kì phong kiến dân tộc chủ, hầu nh các triều đại phong kiến đều
sử dụng chính sách kinh tế dĩ nhân vi bản từ đó đi đến chính cách trọng
nông ức công thơng, ruộng đất rất đợc coi trọng và luôn là vấn đề trọng tâm
của các mối quan hệ kinh tế xã hội. Tuy nhiên, ruộng đất luôn trong tình trạng
biến động và tồn tại dới hai hình thức. Thứ nhất là ruộng đất của nhà nớc
chiếm đại bộ phận và thứ hai là ruộng đất của t nhân. Vì vậy, câu nói đất của
vua chùa của làng đã sớm đi vào tiềm thức ngời nông dân.
Về mặc, nghề dệt cũng không ngừng phát triển, ngay từ thời Lí ngoài
khung dệt trong mỗi gia đình để tự cung vải mặc nhà nớc đã cố những cơ sở
dệt lụa và vải nh vải bong, lụa, lĩnh, sa, the, nái sồi đoạn, gấm vóc, vải gai
Cho đến thế kỉ XVIII nghề dệt truyền thống nớc ta đã sử dụng 4 nguyên liệu
chính gồm tơ chuối, tơ đay gai, tơ tằm và sợi bông. Sự phát triển nghề dệt đã
thúc đẩy sự phát triển các trang phục, nhng quá trình này ở nông thông diễn ra
chậm chạp do tập quán làm ăn và tâm lí tiêu dùng ăn chắc mặc bền . Thời kì
này đã có sự phân hoá tầng lớp trong xã hội rõ, giữa các bộ phận dân c ở
thành thị, nông thôn và những ngời tu hành. Ngợc với lớp ngời ở nông thôn
tầng lớp thấp nhất là tầng lớp cao nhất bao gồm vua quan phong kiến và thị
dân, y phục của họ biến đổi khá mạnh, nhạy bén với việc tiếp thu những ảnh
hởng bên ngoài, đặc biệt là của phong kiến Trung Quốc. Từ thời Lê trở đi khi
mà nhà nớc tập quyền phát triển, nho giáo trở thành chỗ dựa của nhà nớc
thống trị, về nhiều phơng diện trong đó có phơng diện ăn mặc, mặc dù phải
chịu nhiều cỡng bức song y phục vẫn phát triển khá đa dạng về kiểu loại và
màu sắc, nhà nớc còn có những qui định tỉ mỉ và chặt chẽ về ăn mặc của binh
lính, của quan lại triều đình và của nhân dân ta. Nhà vua ra lệnh nhân dân

không đợc ăn mặc theo kiểu nhà Minh, ngời phụ nữ ăn mặc gọn ghẽ với chiếc
váy ngắn, yếm cổ xây không ăn mặc áo ngoài và cánh tay để trần thắt lng để
múi phía trớc. Trong những dịp trang trọng đã thấy phụ nữ mặc áo bên ngoài
yếm giống áo tứ thân sau này, tiền thân của chiếc áo dài truyền thống của phụ
nữ Việt Nam. áo dài tứ thân buông vạt để lộ áo cánh, bên trong là yếm. Tay
áo dài, chặt, thắt lng vải buộc mối múi xõa mối. Bộ y phục phụ nữ Kinh thời
12
nay đã đạt đến mức độ hoàn chỉnh, tuy có sự khác nhau về kiểu cách, màu sắc
giữa các miền; ở Miền Bắc, phụ nữ mặc yếm, áo cánh ngắn không cài khuy
khi cần còn mặc ngoài áo tứ thân mớ ba mớ bảy, a màu đậm, còn Miền Nam
mặc đơn giản hơn mặc áo bà ba, khi trang trọng hơn thì mặc áo dài màu sáng
hay kiểu áo năm thân và thích màu đen. Sự khác biệt này không làm mất đi vẻ
đẹp cơ bản của phụ nữ Kinh mà càng làm cho diện mạo mỗi miền thêm phong
phú. Nói chung ở thời kì phong kiến, kinh tế Việt Nam còn phát triển chậm,
ngời dân quanh năm phải làm lụng vất vả bán mặt cho đất bán lng cho trời,
nghề dệt cũng vậy, tiến hành chủ yếu theo phơng pháp thủ công với quy mô
hẹp, sản phẩm làm ra là để tự phục vụ mình.
Đến thời kì pháp thuộc, dân ta phải chịu một cổ hai tròng áp bức đã
làm không đủ ăn, lại phải đóng siêu cao thuế nặng. Hơn nữa, xã hội lúc bấy
giờ là tự cung tự cấp, sinh hoạt cộng đồng chỉ khép kín sau lũy tre làng, trong
điều kiện lam lũ vất vả ấy, làm đã không đủ ăn thì nhu cầu về mặc chỉ là thứ
yếu, tuy ở thời đó ngành dệt có sự phát triển hơn, một số nhà máy sợi, dệt đợc
Pháp xây dựng đã mọc lên nhng chủ yếu là nhằm mục đích phục vụ cho việc
khai thác của pháp và nhu cầu đã đợc cách tân của ngời thành thị, còn ở nông
thôn cách ăn mặc về cơ bản là không có gì thay đổi. ở thành thị, nam giới tiếp
thu kiểu mặc của ngời Châu Âu với complê, áo sơ mi, quần âu, áo vettông,
caravat Còn phụ nữ lại nặng về cải tiến theo phong tục tập quán truyền
thống điển hình là xu hớng cách tân chiếc áo dài truyền thống thành áo dài
kiểu tân thời và sau này trở thành chiếc áo dài đặc trng của ngời phụ nữ
Việt Nam. Ngoài chiếc áo dài, các thứ trang phục khác cũng đợc cải tiến theo

khuynh hớng đổi mới chứ không chỉ theo Âu hoá, ở các thành thị phía Bắc
chiếc quần âu đã thay cho chiếc váy, không chỉ quần đen mà cả quần lụa
trắng, áo mặc trong nhà cũng đổi theo kiểu đơng thời, nhấn thêm eo, cửa tay
và cổ áo mở rộng hơn. Các thành thị phía Nam chiếc áo bà ba truyền thống th-
ờng may bằng thứ vải mộc màu đen nay cũng cải tiến theo hớng may bằng vải
đẹp và có nhiều hoạ tiết hoa lá sặc sỡ, thân áo cũng đợc thu hẹp bó sát hơn, cổ
và tay áo có kiểu dáng đa dạng.
Từ khi hòa bình lặp lại 1954, kinh tế vẫn không có gì sáng sủa hơn những
tàn d hà khắc mà thực dân Pháp và phong kiến áp đặt vẫn còn ảnh hởng không
nhỏ tới cách làm ăn của ngời dân. Đất nớc tạm thời bị chia cắt làm hai miền .
Miền Bắc tuy đợc hoà bình, nhng kinh tế lại bị tàn phá nặng nề sau 15 năm
chiến tranh với một nền nông nghiệp lạc hậu, chủ yếu dựa vào sản xuất nhỏ
cá thể, cơ sở sản xuất kinh tế t bản chủ nghĩa hết sức kém cỏi và non yếu .
Công nghệ mới phôi thai, nền công nghiệp và thủ công nghiệp có tính chất
13
phân tán, chiếm đại bộ phận trong nền kinh tế quốc dân, lại đang phải tiến
hành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Miền Nam trở thành thuộc địa
kiểu mới của Mỹ, nền kinh tế dân tộc dân chủ nhân dân đợc thiết kế trong thời
kì kháng chiến chống Pháp bị xoá bỏ để thiết lập lại quan hệ sản xuất phong
kiến, xây dựng nền kinh tế thị trờng mở nằm trong sự khống chế của đế quốc
Mỹ, tạo điều kiện chủ nghĩa t bản phát triển mạnh ở Miền Nam. Nông nghiệp
giữ nguyên tình trạng lạc hậu, độc cạnh phát triển chậm, bấp bênh nh trong
thời kì thực dân Pháp thống trị. Sản lợng lúa giảm so với năm 1945 và không
ổn định. Công nghiệp ngày càng bị phụ thuộc vào nớc ngoài .
Trong may mặc, cũng có những bớc tiến mới, sự giao lu văn hoá giữa các
nớc khác nhau đã làm cho quan điểm may mặc có sự thay đổi, việc thay thế
váy bằng quần, áo tứ thân bằng áo sơ mi đã phần nào nói lên đợc điều đó. Hơn
nữa, do có sự khác nhau về điều kiện kinh tế chính trị xã hội nên xu hớng
cung cách ăn mặc hai miền có sự khác nhau. Nếu ở Miền Bắc sự biến đổi
trong ăn mặc thể hiện sự đồng đều, xoá nhòa dần ranh giới giữa nông thôn và

thành thị, giữa các tầng lớp xã hội, tiết kiệm giản dị hơn thì ở thành thị phía
Nam chạy theo mốt nớc ngoài với nhịp độ mạnh mẽ hơn, khoảng cách ăn mặc
giữa các giai cấp, giữa thành thị nông thôn ngày càng cách biệt hơn. ở Miền
Bắc chỉ có bà già ở nông thôn còn mặc váy còn đa số, chị em thanh niên và
trung niên đã chuyển sang mặc quần may kiểu chân quê. ở thành thị, nhiều
nữ thanh niên mặc quần âu thay cho quần đen. Chiếc áo cánh của phụ nữ đợc
cải tiến nhiều nh cắt sát eo hơn chứ không rộng và thẳng nh trớc, vạt áo lợn
vòng, hạ thấp tà, triết li trớc ngực và sau lng. Cổ áo cũng đa dạng, cổ vuông
tròn, hình trái tim . Màu sắc cũng phong phú, màu nâu, gụ, xanh, trắng, vải
hoa. Khi kiểu áo mới này thịnh hành thì yếm cổ truyền không còn nữa. Nó đ-
ợc thay thế bằng áo lót nịt ngực tiếp thu từ Châu Âu góp phần làm tô thêm vẻ
đẹp hình thể của phụ nữ. Trong những năm chống chiến tranh phá hoại miền
Bắc, hình ảnh cô dân quân mặc quần đen, áo cánh nâu bó sát thân, thắt lng to
bản, đầu chịt khăn vuông mỏ quạ, chân đi dép cao su đen cắt từ lốp ô tô, vai
khoác súng trờng là hình ảnh tiêu biểu cho phụ nữ Việt Nam thời kì vừa sản
xuất vừa chiến đấu chống Mỹ cứu nớc. ở Miền Nam, hơn 20 năm sống dới
chế độ thực dân mới của Mỹ Ngụy, về cơ bản y phục dân tộc vẫn đợc bảo
lu và cải tiến theo hớng kết hợp dân tộc với hiện đại. Ngay bộ quần áo bà ba
truyền thống không ngừng đợc cải tiến. Từ chiếc màu đen may bằng vải rẻ
tiền dần biến đổi thành loại bà ba nhiều màu sắc may sát eo hơn. Bên cạnh đó,
vào những năm 60-70 ở các thành thị Miền Nam đặc biệt là ở Sài Gòn đã dấy
lên phong trào mặc các kiểu quần áo âu hiện đại nh váy mini, quần bò jean với
14

×