Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

GIỚI, BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI VÀ PHÁT TRIỂN: NGUYÊN NHÂN VÀ THỰC TRẠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.86 KB, 32 trang )

Trường đại học Ngoại Thương
Khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế
Tiểu luận môn Kinh tế phát triển
GIỚI, BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI VÀ PHÁT TRIỂN: NGUYÊN
NHÂN VÀ THỰC TRẠNG
Giáo viên hướng dẫn: Th.s Lương Thị Ngọc Oanh
Sinh viên thực hiện: Nhóm 7 lớp Nhật 3 – K45E
1, Nguyễn Tường Anh
2, Phan Thị Thuỳ Dương
3, Nguyễn Thị Hiền Hậu
4, Nguyễn Thị Minh
Hằng
5, Lê Thị Bích
6, Bùi Thị Thu Giang
7, Nguyễn Thanh Phương
8, Nguyễn Thị Quỳnh
Oanh
9, Đào Thị Thu Thuỷ
10,Văn Hồng Quân
11, Mai Thị Thắng
12, Nguyễn Đức Thiện
Hà Nội ngày 11 tháng 3 năm 2009
Mục lục
Lời mở đầu
I. Khái quát về bất bình đẳng giới 4
1. Một số khái niệm 4
2. Hình thái bất bình đẳng giới về nguồn lực 6
3. Chỉ số bất tương đồng về việc làm theo giới: chỉ số Duncan 8
II. Thực trạng và nguyên nhân của bất bình đẳng giới 10
1. Thực trạng 10
1.1. So sánh vấn đề bình đẳng giới giữa các nước phát triển và đang


phát triển 10
1.2. Mối quan hệ giữa bất bình đẳng giới và phát triển 15
2. Nguyên nhân 23
2.1 Nguyên nhân lịch sử, văn hóa và tín ngưỡng 23
2.2. Nguyên nhân kinh tế của bất bình đẳng giới 25
III. Những đề xuất nhằm nâng cao bình đẳng giới 27
1. Vai trò của chính phủ trong việc thúc đẩy bình đẳng giới 27
2. Vai trò của các tổ chức đoàn thể quần chúng và cộng đồng quốc tế27
3. Chiến lược 3 phần để nâng cao sự bình đẳng giới 28
3.1. Cải cách thể chế tạo lập quyền và cơ hội bình đẳng cho phụ nữ
và nam giới 28
3.2. Đẩy nhanh phát triển kinh tế nhằm khuyến khích tham gia và
phân bổ nguồn lực bình đẳng hơn 29
3.3. Thực hiện những biện pháp thiết thực nhằm khắc phục sự bất
bình đẳng giới dai dẳng trong việc làm chủ các nguồn lực và tiếng
nói 29
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Lời mở đầu

Mới đây tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hợp quốc
(UNESCO) đưa ra trong thông cáo báo chí của tổ chức này nhân ngày
Phụ nữ quốc tế 8/3: Bình đẳng giới sẽ là ưu tiên toàn cầu trong chiến lược
trung hạn 2008-2013. Thông cáo của UNESCO khẳng định việc đặt bình
đẳng giới thành ưu tiên trên toàn cầu là điều cấp thiết bởi 3/5 trong số 1
tỷ người nghèo nhất thế giới là phụ nữ và các bé gái, và 2/3 trong số 960
triệu người lớn mù chữ trên thế giới là phụ nữ. UNESCO cũng nhấn
mạnh phát triển bền vững, bảo vệ quyền con người và hòa bình trên phạm
vi toàn cầu, khu vực và địa phương chỉ có thể đạt được nếu nữ giới và
nam giới có sự lựa chọn rộng rãi và bình đẳng, có điều kiện và khả năng

sống trong tự do, và được tôn trọng. Sự phát triển kinh tế mở ra nhiều con
đường để tăng cường bình đẳng giới về lâu dài. Nhiều bằng chứng vững
chắc khắp nơi trên thế giới khẳng định nhận định này. Do đó chúng em
đã nghiên cứu đề tài : GIỚI, BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI VÀ PHÁT
TRIỂN: NGUYÊN NHÂN VÀ THỰC TRẠNG trong khi học tập môn
kinh tế phát triển để có cái nhìn sâu hơn về mối quan hệ giữa giới và phát
triển.
Trong quá trình nghiên cứu do hạn chế về thời gian cũng như tầm hiểu
biết chúng em còn có những thiếu sót mong cô giáo và các bạn chỉ bảo
thêm.
Chúng em xin được gửi lời cảm ơn đến cô giáo hướng dẫn đã giúp
chúng em hoàn thành bài tiểu luận này.
3
I. Khái quát về bất bình đẳng giới
1. Một số khái niệm
Giới là một thuật ngữ chỉ vai trò xã hội, hành vi ứng xử xã hội và những
kỳ vọng liên quan đến nam và nữ. Nó được coi là một phạm trù xã hội có vai
trò quyết định chủ yếu đến cơ hội cuộc sống của con người, xác định vai trò
của họ trong xã hội và trong nền kinh tế.
Bình đẳng giới là khi phụ nữ và nam giới có địa vị, quyền và nghĩa vụ
như nhau. Bình đẳng giới là khi mọi người có quyền tự do phát triển khả năng
cá nhân và tự do lựa chọn mà không bị hạn chế bởi vai trò đã được xã hội xác
định theo giới và sự khác biệt về hành vi, nguyện vọng và nhu cầu của nam và
nữ cần được coi trọng như nhau. Theo cách này bình đẳng giới có xét đến sự
khác biệt thuộc về bản chất từ khi sinh raà nghiêng về bình đẳng về cơ hội.
Bình đẳng giới nhìn từ góc độ kinh tế là sự bình đẳng về cơ hội học tập, về sự
tiếp cận và sử dụng nguồn lực, về cơ hội có việc làm và thu nhập tương xứng,
về quyền ra quyết định trong gia đình
Như vậy có thể suy ra rằng bất bình đẳng giới là sự phân biệt trên cơ sở
giới tính mà sự phân biệt này ảnh hưởng đến sự tham gia, đóng góp và thụ

hưởng các nguồn lực của xã hội và quá trình phát triển của con người. Sự phân
biệt đối xử thường thấy ở bốn lĩnh vực: giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, tiếp cận
với các cơ hội kinh tế, tham gia vào lãnh đạo và tham chính. Sự phân biệt đối
xử này xuất phát từ quan niệm dập khuôn cho rằng phụ nữ có ít quyền tự quyết
hơn, có ít nguồn lực để sử dụng hơn và ít có ảnh hưởng đối với quá trình ra
quyết định có liên quan tới xã hội và cuộc sống riêng của họ.
Bất bình đẳng giới được định đo bằng các chỉ tiêu khác nhau. Trong báo
cáo phát triển con người của chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) đã
đưa ra hai chỉ số:
Chỉ số phát triển giới (GDI):
4
Trong khi HDI đo thành tựu trung bình thì GDI điều chỉnh thành tựu
trung bình để phản ánh bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới về các độ đo
sau:
- Một cuộc sống khỏe mạnh và lâu dài – đo bằng tuổi thọ.
- Kiến thức – đo bằng tỉ lệ biết chữ ở người lớn và tổng tỉ lệ đi học kết
hợp ở cả tiểu học, trung học và đại học.
- Mức sống hợp lý – đo bằng thu nhập kiếm được ước tính (PPP USD)
Việc tính GDI gồm 3 bước.
Bước 1: Tính từng chỉ số độ đo cho từng giới:
Công thức chung: Chỉ số độ đo = (giá trị thực-giá trị min)/(giá trị max-giá trị min)
- Về tuổi thọ TB : I
H
Chỉ số tuổi thọ của nữ giới: I
HF
= (tuổi thọ BQ của nữ giới nước đó-27,5)/(87,5-27,5)
Chỉ số tuổi thọ của nam giới: I
HM
= (tuổi thọ BQ của nam giới nước đó-22,5)/(87,5-22,5)
- Về giáo dục: I

E
Chỉ số giáo dục của nữ giới:
I
EF
= 2/3*(Tỉ lệ người lớn là nữ giới biết chữ/100)+1/3*(tỉ lệ nữ nhập học ở các cấp/100)
Chỉ số giáo dục của nam giới:
I
EM
= 2/3*(Tỉ lệ người lớn là nam giới biết chữ/100)+1/3*(tỉ lệ nam nhập học ở các cấp/100)
- Về thu nhập: I
I
I
IF
= [log(thu nhập thực tế của nữ giới theo ngang giá sức mua)-log(100)]/[log(40000)-
log(100)]
I
IF
= [log(thu nhập thực tế của nam giới theo ngang giá sức mua)-log(100)]/[log(40000)-
log(100)]
Bước 2: Tính chỉ số phân bổ đồng đều theo công thức:
(Tỉ lệ nữ trong dân số/chỉ số độ đo của nữ giới+tỉ lệ nam trong dân số/chỉ số độ đo của nam
giới)
-1
Khi đó ta được các chỉ số phân bổ đồng đều:
I
H
:chỉ số tuổi thọ phân bổ đồng đều
I
E
: chỉ số giáo dục phân bổ đồng đều

I
I
: chỉ số thu nhập phân bổ đồng đều
5
Bước 3: Tính GDI bằng cách lấy trung bình cộng của 3 chỉ số phân bổ đồng
đều ở trên. Trong mỗi nước, nếu giá trị và thứ hạng của GDI càng gần với HDI
thì sự khác biệt theo giới tính càng ít. Nếu thứ hạng GDI thấp hơn thứ hạng
HDI cho thấy sự phân phối không bình đẳng về phát triển con người giữa nam
và nữ và ngược lại
Thước đo vị thế giới (GEM):
Thước đo này tập trung xem xét cơ hội của phụ nữ chứ không phải là khả
năng của họ. Nó chỉ ra sự bất bình đẳng giới trên 3 khía cạnh.
- Tham gia hoạt động chính trị và có quyền quyết định - được đo bằng tỷ
lệ có ghế trong quốc hội của phụ nữ và nam giới.
- Tham gia hoạt động kinh tế và có quyền quyết định - được đo bằng tỷ
lệ các vị trí lãnh đạo, quản lý do phụ nữ và nam giới đảm nhiệm và tỷ lệ các vị
trí trong ngành kỹ thuật, chuyên gia do phụ nữ và nam giới đảm nhiệm.
- Quyền đối với các nguồn lực kinh tế - đo bằng thu nhập ước tính của
phụ nữ và nam giới (PPP-USD).
Cách tính GEM dựa vào tỉ lệ phần trăm tương đương phân bố đồng đều
EDEP được tính cho từng độ đo trong số này theo công thức chung sau:
{[Tỉ trọng dân số là nữ (chỉ số phụ nữ
-1
)]+[Tỉ trọng dân số là nam (chỉ số nam giới
-1
)]}
-1
Đối với sự tham gia chính trị và kinh tế và quyền quyết định. EDEP sau
đó được tính bằng cách chia cho 50. Lý do cho cách tính này là: trong một xã
hội lý tưỏng, với sự trao quyền bình đẳng cho cả hai giới. biến GEM sẽ tương

đương 50% - tức là tỉ trọng của phụ nữ và tỉ trọng của nam giới bằng nhau đối
với từng biến. Khi giá trị chỉ số của phụ nữ hay nam giới bằng 0, EDEP theo
công thức trên không xác định được. Tuy nhiên, giới hạn của EDEP là 0 khi chỉ
số tiến gần tới 0, trong những trường hợp này giá trị của EDEP đặt là bằng 0.
GEM được tính đơn giản bằng trung bình của cả 3 chỉ số EDEP đã tính.
2. Hình thái bất bình đẳng giới về nguồn lực
6
2.1. Bất bình đẳng giới về dịch vụ giáo dục chia theo giới
- Nam nữ bất bình đẳng về độ tuổi đi học, đào tạo, bồi dưỡng.
- Nam nữ bất bình đẳng trong việc lựa chọn ngành, nghề học tập, đào
tạo.
Hiện nay, bình đẳng giới trong tỷ lệ đi học và số năm đi học trung bình
đã có bước cải thiện, trong đó tỷ lệ đi học của bé gái tăng nhanh hơn bé trai
nhưng sự phân biệt giới và tốc độ thu hẹp khoảng cách giới trong giáo dục thì
lại rất khác nhau. Giáo dục là nền tảng để phát triển các kĩ năng linh hoạt vốn
rất cần thiết để tham gia các hoạt động kinh tế có hàm lượng chất xám cao.
Những ai không có điều kiện tiếp cận đến giáo dục cơ sở có nguy cơ bị loại bỏ
khỏi những cơ hội mới, và những nơi mà khoảng cách giới dai dằng trong giáo
dục vẫn còn tồn tại thì phụ nữ sẽ có nguy cơ ngày càng cao là bị tụt hậu đằng
sau nam giới trong khả năng tham gia vào quá trình phát triển.
2.2 Bất bình đẳng giới trong việc làm và thu nhập
Từ trước tới nay nam giới có tỉ lệ tham gia lực lượng lao động cao hơn
phụ nữ và hình thái này vẫn đang tiếp diễn. Nhưng mức độ tham gia lực lượng
lao động của phụ nữ khác nhau rất nhiều giữa các vùng đang phát triển, trong
đó tỉ lệ này chiếm 25% ở Trung Đông và Bắc Phi năm 1995 đến khoảng 45% ở
Châu Âu, Trung Á Đông Á và vùng Thái Bình Dương. Xu hướng của từng
vùng cũng rất khác nhau.
Trong lực lượng lao động phụ nữ và nam giới thường thực hiện các
nhiệm vụ khác nhau và làm việc trong các ngành nghề khác nhau. Ví dụ, phụ
nữ chiếm đa số trong công nhân dệt may trên toàn thế giới. Có sự phân chia

nghề nghiệp theo giới từ trước tới nay ở cả nước phát triển lẫn nước đang phát
triển, trong đó phụ nữ hiện diện ít trong những công việc thù lao cao của khu
vực chính thức và có mặt rất nhiều trong những ngành nghề không được trả
lương ở vực phi chính thức. Hơn nữa, nhìn chung, việc làm của phụ nữ thường
ít được bảo đảm hơn việc làm của nam giới, trong đó phụ nữ thường tham gia
7
nhiều trong các hoạt động thầu phụ, tạm thời hoặc công việc thất thường và
những việc làm trong gia đình.
Một thước đo việc phân chia nghề nghiệp theo giới đã chia tỷ lệ số lao
động nữ làm trong 1 ngành nghề cụ thể cho số lao động nam làm việc trong
ngành nghề đó. Vì thế, nếu tỷ số này lớn hơn 1 có nghĩa là phụ nữ hiện diện
nhiều trong ngành đó, nếu nhỏ hơn 1 thì phụ nữ ít tham gia ngành nghề đó. Khi
áp dụng thước đo này vào số liệu của các nước thì rất nhiều khía cạnh khác
nhau của việc phân chia nghề nghiệp đã hiện rõ. Ví dụ, phụ nữ hiện diện nhiều
trong các ngành nghề dịch vụ, công việc chuyên môn và kĩ thuật, công việc văn
phòng và bán hàng. Còn nam giới thì có mặt cực kì nhiều trong các công việc
sản xuất cùng như các vị trí hành chính và quản lý được trả lương hậu. Phụ nữ
vẫn tiếp tục nhận mức thù lao thấp hơn nam giới.
3. Chỉ số bất tương đồng về việc làm theo giới: chỉ số
Duncan
Chỉ số này có thể sử dụng để phân tích sự khác biệt trong việc làm giữa 2
nhóm người lao động. Chỉ số này hiện nay đang giảm đi trên toàn thế giới.
Trong đó:
m
i
= M
i
/M: tỉ lệ nam giới làm nghề thứ i trong tổng nam(Σm
i
=1)

f
i
= F
i
/F: tỉ lệ nữ giới làm nghề thứ i trong tổng nữ (Σf
i
=1)
I : chỉ số Duncan thường được tính ra phần trăm, nhận các giá trị từ 0 đến 1
-Khi I=0 tức m
i
=f
i
thì không có sự bất tương đồng về việc làm, thể hiện sự phân
công lao động đồng nhất giữa các ngành hoặc các nhóm nghề nghiệp
-Khi I=1 thì có sự bất tương đồng hoàn toàn về mọi việc làm
Ví dụ:
Nhà văn(74) Ngươi bán xúc xích(55) Người photo(88) Tổng
Nữ 4 15 81 100
8

=
−=
n
i
ii
fmI
1
2
1
Nam 70 40 7 117

Khi đó:
9






−+−+−=






−+−+−=






−=

=
100
81
117
7
100

15
117
40
100
4
117
70
5.0
5.0
5.0
33
2211
3
1
F
F
M
M
F
F
M
M
F
F
M
M
F
F
M
M

S
i
ii
{ }
{ }
{ }
{ }
%02.757502.
5004.15.0
7502.01919.05583.05.0
7502.01919.05583.05.0
81.00598.015.03419.004.05983.05.0
==
=
++=
−++=
−+−+−=
Sor
S
II. Thực trạng và nguyên nhân của bất bình đẳng giới
1. Thực trạng
1.1. So sánh vấn đề bình đẳng giới giữa các nước phát triển và
đang phát triển
Mặc dù tại nhiều hội nghị và cuộc họp quốc tế kể từ năm 1975, chính
phủ các nước, các tổ chức xã hội, dân sự và các cơ quan của Liên hợp quốc đã
cam kết sẽ làm việc với phụ nữ và vì phụ nữ, với những mục tiêu và kết quả cụ
thể trong đó gần đây nhất là các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs)
năm 2000, thế nhưng bất bình đẳng vẫn còn rất phổ biến và ăn sâu vào tiềm
thức của nhiều nền văn hóa. Mới đây nhất, Quỹ dân số Liên hợp quốc
(UNFPA) trong Báo cáo tình trạng dân số thế giới 2008 đã chỉ ra rằng, 3/5

trong số 1 tỉ người nghèo nhất là phụ nữ và trẻ em gái; 2/3 trong số 960 triệu
người lớn không biết đọc là phụ nữ; 70% trong số 130 triệu trẻ em không được
đến trường là các bé gái. Một số nền văn hóa có các phong tục tập quán mà có
lẽ chẳng bao giờ chấm dứt được bạo hành giới, và cả nam giới và phụ nữ đều
có thể ngoảnh mặt làm ngơ hoặc thừa nhận nó như một chuyện bình thường.
Thậm chí một số phụ nữ còn đứng ra bảo vệ cho những cơ chế xã hội đàn áp
họ.
Để có thể so sánh tình trạng bất bình đẳng giữa các nước với nhau không
phải là vấn đề đơn giản. Mỗi nước có một nền văn hóa riêng và có những điều
kiện khác nhau để cải thiện tình trạng bất bình đẳng giới, thêm vào đó mỗi cách
tiếp cận khác nhau lại chỉ ra nhứng khía cạnh khác nhau. Chẳng hạn như Quỹ
dân số Liên hợp quốc (UNFPA) nghiên cứu vấn đề bất bình đẳng giới trên cơ
sở tiếp cận các nền văn hóa. Trong khuôn khổ bài tiểu luân này chỉ tập trung
10
vào các số liệu được Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) sử dụng
qua những Báo cáo phát triển con người thường niên.
11
Bảng 1- Các chỉ số phát triển liên quan tới giới (GDI) một số nước chọn lọc
năm 2005
(Nguồn:
Tổng
hợp từ
“Báo cáo
phát
triển con
người
2008”
của
UNDP)
Có thể

nhận
thấy
qua
những
nghiên cứu mới đây nhất của UNDP về bất bình đẳng giới, hầu hết các nước
phát triển đều có thứ hạng cao, điển hình như Na Uy, Nhật, Mỹ và những thứ
hạng thấp nhất giành cho các nước đang phát triển kém phát triển. Qua các chỉ
số thành phần để hình thành nên GDI 2005 có thể nhận thấy sự chênh lệch ở
các chỉ số giữa nam và nữ. Đặc biệt là chỉ số thu nhập phân bổ đồng đều, hầu
hết các quốc gia đều có sự chênh lệch rất lớn về thu nhập giữa nam giới và nữ
giới. Tuy nhiên để đánh giá sự phân phối mất cân đối một cách rõ rệt nhất cần
Tên quốc
gia
Các chỉ số
phát triển liên
quan tới giới
(GDI)
Tuổi thọ
(tuổi)
2005
Tỷ lệ biết chữ
của người
lớn(% người từ
15 tuổi trở lên)
1995-2005
Tỷ lệ nhập
học gộp các
bậc giáo dục
tiểu học,
trung học và

đại học(%)
2005
Thu nhập ước
tính kiếm được
(USD PPP)
2005
Xếp
hạng
Giá
trị
Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam
Iceland
1 0,962 83,1 79,9 99 99 101 90 28637 40000
Na Uy
3 0,957 82,2 77,3 99 99 103 95
3074
9
40000
Nhật
13 0,942 85,7 78,7 99 99 85 87 17802 40000
Mỹ
16 0.937 80.4 75,2 99 99 98 89 25005 40000
Thái Lan 71 0,779
74,
5
65,5 90,5 94,9 72 71 6695 10732
Trung
Quốc
73 0,776
74,

3
71,0 86,5 95,1 69 70 5220 8213
Thổ Nhĩ

79 0,763 73,9 69,0 79,6 95,3 64 73 4385 12368
Việt
Nam
91 0,732 75,7 71,9 86,9 93,9 62 66 2540 3604
Senegal
135 0,492
64,
4
60,4 29,2 51,1 37 42 1256 2346
Nigeria
139
0,45
6
47,
1
46,0 60,1 78,2 51 61 652 1592
Angola
142
0,43
9
43,
3
40,1 54,2 82,9 24 28 1787 2898
Ethiopia
149 0,393 53,1 50,5 22,8 50,0 36 48 796 1316
12

sử dụng đến chỉ số phát triển con người HDI trong mối quan hệ với chỉ số phát
triển giới GDI.
Bảng 2 – So sánh giá trị và xếp hạng theo HDI và GDI một số nước chọn lọc
năm 2005
Tên nước
HDI GDI Xếp hạng HDI
trừ đi xếp hạng
GDI
Giá trị
Xếp
hạng
Giá trị
Xếp
hạng
Iceland 0,986 1 0,962 1 0
Na Uy 0,986 2 0,957 3 -1
Úc 0,962 3 0,960 2 1
Nhật 0,953 8 0,942 13 -5
Mỹ 0,951 12 0.937 16 -4
Lucxămbua 0,944 18 0,924 23 -5
Thái Lan 0,781 78 0,779 71 0
Trung Quốc 0,777 81 0,776 73 1
Việt Nam 0,733 105 0,732 91 3
Nam Phi 0,674 121 0,667 107 -1
Campuchia 0,598 131 0,594 114 1
Ca mơ run 0,532 144 0,524 126 0
(Nguồn: tổng hợp từ “Báo cáo phát triển con người 2008” của UNDP)
Qua bảng số liệu có thể nhận thấy ở các nước trong khối hợp tác và phát
triển kinh tế có giá trị HDI gần với giá trị của GDI, thậm chí có nước còn có
thứ hạng GDI cao hơn như Na Uy, Luc Xam bua, đều đó cho thấy một sự phân

phối bình đẳng hơn về phát triển con người. Ngược lại, các nước đang phát
triển như Việt Nam, Camơrun, Campuchia có thứ hạng GDI thấp hơn thứ hạng
HDI, ở đó tồn tại sự phân phối không bình đẳng và phát triển giữa nam và nữ.
Mặt khác, nếu xét bình đẳng giới trong hoạt động kinh tế, ở các quốc gia
đang phát triển tỷ lệ nữ giới trong hoạt động kinh tế là 52.4% , các quốc gia
OECD là 52,8% trong khi tỷ lệ đó của thế giới là 52,5%.
Thực trạng này cho thấy, bất bình đẳng giới tồn tại trong mỗi quốc gia, nhưng
thể hiện với các mức độ khác nhau. Và có thể nói, sự bất bình đẳng về giới ở
những nước đang phát triển nhiều hơn, sự chênh lệch về phân phối sự phát triển
giữa nam và nữ cao hơn so với các nước đang phát triển. Nhận thấy một thực tế
13
rằng, các nước phát triển, có tiềm lực về kinh tế, có sự đầu tư tốt hơn, tạo điều
kiện để nâng cao chất lượng cuộc sống hay phát triển con người cao hơn. Còn
những nước đang phát triển, kinh tế khó khăn, thêm vào đó là văn hóa, chính
trị, xã hội vẫn tồn tại những hạn chế , hay nói cách khác bất bình đẳng giới vẫn
chưa suy giảm. Ở đó, sự chêch lệch về việc làm, về thu nhập, về giáo dục giữa
nam giới và nữ giới còn cao, vị thế của phụ nữ trong xã hội vẫn chưa được cải
thiện. Một số biểu đồ so sánh về bất bình đẳng giới các nước trên thế giới
1. Bản đồ phân biệt đối xử giới tính trên thế giới
Nguồn:
/>14
2.Biểu đồ so sánh các tỷ lệ nữ so với nam giữa các nước
Nguồn: Báo cáo "Đưa vấn đề giới vào phát triển" của Ngân hàng thế giới 2000
1.2. Mối quan hệ giữa bất bình đẳng giới và phát triển
1.2.1 Mối quan hệ giữa bất bình đẳng giới và đói nghèo:
Như chúng ta đã xem xét các hình thái của bất bình đẳng giới ở phần
trên, trong phần này chúng ta cũng sẽ chỉ xem xét mối quan hệ giữa đói nghèo
và bất bình đẳng giới về khía cạnh giáo dục, việc làm và thu nhập. Bất bình
đẳng giới tồn tại cả trong nhóm người giàu và nghèo nhưng dường như có xu
hướng gay gắt hơn trong nhóm người nghèo.

Trước tiên chúng ta sẽ xem xét về mặt giáo dục. Năm 1999, Filmer đã
tiến hành phân tích sự khác biệt trong tỷ lệ đến trường ở độ tuổi 6 đến 14 bằng
việc sử dụng kết quả điều tra nhân khẩu của hơn 41 nước trong các vùng Trung
Á, Nam Á và Đông Nam Á, châu Phi và hạ Sahara, châu Mỹ Latinh và vùng
Caribê. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự phân biệt giới về tỷ lệ đi học trong
nhóm người nghèo có xu hướng lớn hơn trong nhóm người giàu. Sự phân biệt
15
giới trong tỷ lệ đi học ở độ tuổi 6 đến 14 được Filmer thể hiện bằng tỷ số giữa
tỷ lệ số nam sinh chia cho tỷ lệ số nữ sinh. Filmer đã phân ra làm 2 nhóm quốc
gia, trong đó khoảng cách về giáo dục trong nhóm nghèo cao hơn trong nhóm
giàu. Trong 1 phân nhóm sự bất bình đẳng giới ở mức thấp hoặc vừa phải trong
nhóm giàu( tỷ lệ của nam so với nữ nhỏ hơn 1,5) và ở mức vừa phải trong
nhóm nghèo (tỷ lệ này là 1,1 đến 1,5). Trong nhóm thứ 2 thì sự bất bình đẳng
thấp và vừa phải trong nhóm giàu( tỷ lệ dưới 1,5) nhưng lại lên tới trên 1,5
trong nhóm nghèo. Còn theo Todaro (2006), ở hầu hết các quốc gia đang phát
triển, trẻ em gái được học hành ít hơn trẻ em trai. Trong những năm gần đây,
66 trong số 108 quốc gia được nghiên cứu có tỷ lệ trẻ em gái nhập học cấp tiểu
học và trung học thấp hơn trẻ em nam ít nhất khoảng 10%. Nếu tính trung bình
cho tất cả các quốc gia đang phát triển, tỷ lệ phụ nữ biết chữ thấp hơn 29% so
với nam giới, số năm đến trường trung bình thấp hơn 45% so với nam giới và
tỷ lệ nhập học tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông của nữ thấp hơn
tương ứng là 9%, 28% và 49% so với nam.
Theo số liệu thống kê cho thấy phụ nữ có ít quyền hơn đối với một loạt
các nguồn lực thuận lợi, bao gồm giáo dục, đất đai, thông tin, và tài chính. Ở
Nam Á, trung bình thời gian phụ nữ được đến trường chỉ bằng khoảng một nửa
thời gian của nam giới, và tỉ lệ học sinh nữ nhập học ở cấp trung học vẫn chỉ là
1/3 so với tỉ lệ nam học sinh. Nhiều phụ nữ không có quyền sở hữu đất đai, và
những người có quyền thì thường sở hữu ít đất hơn so với nam giới. Ở phần lớn
các nước đang phát triển, các công ty do phụ nữ điều hành có xu hướng thiếu
vốn, tiếp cận kém hơn tới máy móc, phân bón, mở rộng thông tin, và tín dụng

so với các công ty do nam giới điều hành. Những bất bình đẳng như thế, dù
trong lĩnh vực giáo dục hay trong các nguồn lực thuận lợi khác, làm suy giảm
khả năng tham gia vào quá trình phát triển của người phụ nữ và góp phần nâng
cao mức sống cho gia đình họ.
Mặc dù các thành quả về giáo dục cho phụ nữ có tăng, họ vẫn bị trả
lương thấp hơn so với nam giới trong thị trường lao động – dù họ có cùng bằng
16
cấp và thâm niên làm việc như nam giới. Phụ nữ ở các nước đang phát triển
thường bị giới hạn ở một số loại nghề nghiệp và hầu như bị loại trừ ra khỏi các
chức vụ quản lí trong các ngành nghề chính thống. Ở các nước công nghiệp
phát triển, phụ nữ làm trong các ngành nghề được trả lương có thu nhập trung
bình bằng 77% so với thu nhập của nam giới; ở các nước đang phát triển, co số
này là 73%. Chỉ 1/5 khoảng cách về thu nhập là có thể giải thích được bằng sự
khác biệt giới trong giáo dục, kinh nghiệm làm việc và đặc điểm nghề nghiệp.
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), năm 2006 có 1,2 tỉ trong số 1,9 tỉ
người lao động trên toàn thế giới là phụ nữ. Ngày càng có nhiều phụ nữ tham
gia vào thị trường lao động ở khu vực Đông Á, Đông Nam Á. Song, trong
khoảng 10 năm trở lại đây, tỉ lệ cơ cấu lao động là nữ đã không tăng, thậm chí
còn có xu hướng giảm ở nhiều khu vực. Rõ nét nhất là ở Nam Á, chỉ có 3 trong
số 10 phụ nữ có việc làm. Đặc biệt tỉ lệ phụ nữ thất nghiệp ngày càng tăng, lên
tới 22,7% so với năm 1996. Có một thực tế nữa là phụ nữ thường phải làm
những công việc thu nhập thấp. Nhiều khi thu nhập ấy không đủ để có thể vực
chính bản thân họ và gia đình thoát khỏi sự nghèo đói. ILO đã tính được rằng
trong năm 2006, có tới 60% sốphụ nữ có việc làm là những công việc có thu
nhập thấp. Nhiều phụ nữ làm việc dưới dạng "thành viên làm việc trong gia
đình không được trả lương". Khoảng 21% số phụ nữ có việc làm ở khu vực
Đông Á và 37% số PN có việc làm ở khu vực Đông Nam Á làm việc trong điều
kiện trên.
1.2.2 Mối quan hệ giữa bất bình đẳng giới và năng suất, tăng trưởng:
Ta nhận thấy bất bình đẳng giới còn giảm năng xuất lao động ở các nông

trại và các doanh nghiệp và như vậy hạ thấp triển vọng xoá đói nghèo và bảo
đảm tăng trưởng kinh tế. Bất bình đẳng giới còn làm cho việc điều hành đất
nước yếu kém do đó giảm hiệu quả của các chính sách phát triển. Mặc dù các
thành quả về giáo dục cho phụ nữ có tăng, họ vẫn bị trả lương thấp hơn so với
nam giới trong thị trường lao động – dù họ có cùng bằng cấp và thâm niên làm
việc như nam giới. Phụ nữ ở các nước đang phát triển thường bị giới hạn ở một
17
số loại nghề nghiệp và hầu như bị loại trừ ra khỏi các chức vụ quản lí trong các
ngành nghề chính thống.
Nếu chúng ta giả định rằng, trẻ em trai và gái có khả năng thiên bẩm như
nhau và những đứa trẻ có khả năng hơn sẽ được học tập và đào tạo nhiều hơn,
thì việc thiên vị trẻ em trai có nghĩa là những trẻ em trai có tiềm năng thấp hơn
trẻ em gái lại được học hành nhiều hơn. Quan trọng hơn là điều đó làm khả
năng thiên bẩm trung bình của những đứa trẻ được học hành sẽ thấp hơn so với
những trường hợp cả trẻ em trai và trẻ em gái cùng có cơ hội học tập như nhau.
Và vì thế, chất lượng nguồn nhân lực trong nền kinh tế sẽ thấp hơn mức có thể
đạt được và kìm hãm tiềm năng tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, nếu chúng ta giả
định rằng, lao động nam và nữ trong một số ngành không thể là đầu vào thay
thế hoàn hảo cho nhau tức là đầu tư nhiều hơn cho giáo dục đối với nam giới
đồng nghĩa với việc đầu tư nhiều hơn cho chất lượng đầu vào của ngành sử
dụng nhiều lao động nam và ngược lại đối với ngành sử dụng nhiều lao động
nữ. Theo quy luật, năng suất cận biên giảm dần, hiệu quả của một đơn vị vốn
đầu tư thêm cho giáo dục đối với ngành sử dụng nhiều lao động nam sẽ giảm
dần và tổng hiệu quả trong nền kinh tế sẽ cao hơn, nếu chúng ta chuyển một
phần kinh phí đầu tư đó sang cho việc đào tạo nữ lao động trong ngành sử dụng
nhiều lao động nữ.
Khi mức độ bất bình đẳng giới trong giáo dục giảm đi, tức là ở mỗi cấp đào
tạo, tỷ lệ nữ so với nam tăng lên và khi trình độ và nhận thức của phụ nữ trong
gia đình được cải thiện, số lượng và chất lượng đầu tư cho giáo dục đối với con
cái sẽ được cải thiện trực tiếp thông qua sự dạy dỗ của người mẹ cũng như khả

năng thuyết phục hoặc quyền của người mẹ trong việc đầu tư nhiều hơn cho
giáo dục đối với con cái. Ngoài ra, trình độ của người mẹ cao hơn, đóng vai trò
quyết định trong việc chăm sóc và dinh dưỡng đối với con cái. Trong các gia
đình có cùng mức thu nhập, số trẻ em chậm phát triển trong các gia đình với
trình độ của người mẹ cao hơn đã giảm hơn hẳn. Điều này đặc biệt có ý nghĩa
khi các nghiên cứu chỉ ra rằng, sự gia tăng về thu nhập của gia đình không
18
không phải lúc nào cũng dẫn đến sự cải thiện sức khỏe và giáo dục cho các
thành viên trong gia đình (Todaro, 2006).Tuy nhiên, trong dài hạn, các tác động
này sẽ làm cho chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện và năng suất lao động
trung bình của toàn xã hội sẽ được nâng lên.
Bất bình đẳng giới được thể hiện thông qua sự tiếp cận hạn chế của phụ nữ
đối với các nguồn tín dụng, hoặc hạn chế quyền sử dụng các tài sản thế chấp để
vay vốn hoặc không có quyền quyết định việc phân bổ đầu vào trong các hoạt
động sản xuất. Do đó, các đầu vào được tập trung hầu hết cho các hoạt động
sản xuất của nam giới. Theo quy luật, năng suất cận biên của các đầu vào giảm
dần, tổng sản lượng sẽ tăng lên khi tổng đầu vào được phân chia đều hơn cho
cả các hoạt động sản xuất của cả nam và nữ.
Bằng việc cản trở tích tụ tư bản con người trong việc nhà và trên thị trường
sức lao động, bằng việc loại trừ một cách có hệ thống phụ nữ hoặc nam giới
khỏi sự tiếp cận với nguồn lực, với các dịch vụ xã hội, hoặc với các hoạt động
có lợi, phân biệt đối xử về giới làm giảm khả năng tăng trưởng và khả năng
nâng cao mức sống của một nền kinh tế.
• Các thiệt hại trong đầu ra là kết quả của sự phân bố không hiệu quả các
nguồn lực thuận lợi giữa nam giới và phụ nữ trong phạm vi hộ gia đình.Trong
các hộ gia đình ở Burkina Faso, Cameroon, và Kenya, sự kiểm soát đầu vào và
kiểm soát thu nhập từ nông nghiệp của phụ nữ và nam giới công bằng hơn sẽ
tăng sản lượng nông nghiệp thêm 1/5 của sản phẩm đầu ra hiện nay.
• Đầu tư thấp đối với giáo dục cho phụ nữ cũng giảm sản phẩm đầu ra nói
chung của đất nước. Một cuộc khảo sát dự báo rằng nếu các nước ở Nam Á,

vùng cận Sa ha ra của Châu Phi, Trung đông và Bắc phi bắt đầu giảm khoảng
cách về giới trong chỉ số thời gian đi học trung bình như các nước Đông Á đã
tiến hành trong năm 1960, và nếu họ thu hẹp khoảng cách giới trong chỉ số nói
trên với tốc độ như các nước Đông Á đã đạt được trong giai đoạn 1960-1992,
thì thu nhập bình quân đầu người của họ đã tăng thêm 0,5-0,9% mỗi năm - một
mức tăng đáng kể vào tỉ lệ tăng trưởng thực tế. Một nghiên cứu khác dự đoán
19
rằng thậm chí đối với các nước thu nhập khá và thu nhập cao có mức dân trí
khởi đầu cao hơn, tỉ lệ phụ nữ được giáo dục trung học tăng 1% đồng nghĩa với
tỉ lệ thu nhập bình quân đầu người tăng 0,3%. Cả hai cuộc nghiên cứu nói trên
đều có các biến đối chứng thường được nói đến trong các nghiên cứu tăng
trưởng.
Các phân tích trên cho thấy, bất bình đẳng giới trong giáo dục và quyền
quyết định đối với các hoạt động kinh tế, hoặc hạn chế trong việc tiếp cận các
nguồn lực đầu vào của quá trình sản xuất đối với phụ nữ đều hạn chế tăng
trưởng kinh tế. Điều đó càng khẳng định, bình đẳng giới không chỉ đơn thuần
là mục tiêu phát triển mang tính chuẩn tắc, mà còn là động lực thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế trong cả ngắn hạn và dài hạn.
1.2.3 Mối quan hệ giữa bất bình đẳng giới và phát triển con người
Giữa bất bình đẳng giới và sự phát triển con người có mối quan hệ rất
chặt chẽ với nhau, đặc biệt là trong thời đại hiện nay, khi vai trò của người phụ
nữ trong xã hội ngày càng được coi trọng. Và tại báo cáo phát triển con người
năm 1995, Human Development Report - HDR (báo cáo thường niên của
chương trình phát triển Liên Hợp Quốc – UNDP), lần đầu tiên chỉ số phát triển
liên quan đến giới, Gender-related Development Index – GDI và chỉ số trao
quyền giới, Gender Empowerment Measure - GEM được đưa ra. GDI và GEM
được sử dụng như các công cụ kiểm tra cho các phân tích và các thảo luận
chính sách về tình hình phát triển con người có liên quan đến giới. Chừng đó
cũng đủ để nhận thấy tầm quan trọng giữa bình đẳng giới với sự phát triển con
người nói chung

Chỉ số phát triển liên quan tới giới GDI phản ánh những bất bình đẳng về
thành tựu giữa phụ nữ và nam giới, một dạng thức của HDI về giới. Theo báo
cáo phát triển của Liên Hợp Quốc hàng năm thì chỉ số GDI của Việt Nam ngày
càng được cải thiện đáng kể, đặc biệt theo báo cáo mới nhất năm 2008 thì Việt
Nam đứng thứ 90 trên tổng số 156 nước được nghiên cứu với chỉ số GDI là
0,732. Điều đó được thể hiện cụ thể hơn qua bảng sau
20
Bảng 3 - So sánh giữa GDI và HDI – một thước đo của sự bất bình đẳng (2008)
Tỉ lệ % giữa
GDI và HDI
Tỉ lệ % tuổi thọ
của nữ giới so với
nam giới
Tỉ lệ % người trên
15 tuổi biết chữ
của nữ giới so với
nam giới
Tỉ lệ trẻ em nhập
học của nữ giới
so với nam giới
1. Maldives
(100,4%)
1. LB Nga
(123,1%)
1. Lesotho
(122,4%)
1. Các tiểu vương
quốc Ả Rập
(126.0%)
…………… ……………… ……………… ……………

7. LB Nga
(99,8%)
138. Isarel
(105.4%)
85. Zimbabwe
(93.0%)
144. Syria
(93.9%)
8. Bulgaria
(99,8%)
139. New Zealand
(105,3%)
86. Malaysia
(92.8%)
145. Swaziland
(93.7%)
9. Việt Nam
(99,8%)
140. Việt Nam
(105,3%)
87. Việt Nam
(92.5%)
146. Việt Nam
(93.5%)
10. Latvia
(99,8%)
141. Yemen
(105,2%)
88. Indonesia
(92.3%)

147. Bolivia
(93.3%)
11. Estonia
(99,8%)
142. Cu Ba
(105,2%)
89. Macao (92,1%) 148. Vanuatu
(92.8%)
Khi mức độ bất bình đẳng giới trong giáo dục giảm đi, tức là ở mỗi cấp
đào tạo, tỷ lệ nữ so với nam tăng lên và kiến thức của người phụ nữ cũng sẽ
được nâng cao. Khi đó, người phụ nữ sẽ có thể tự mình thiết lập cho mình một
cuộc sống đầy đủ với một mức sống tương đối bằng những kiến thức của mình.
Họ cũng có thể chăm lo cho gia đình tốt hơn, chất lượng cuộc sống không chỉ
của người phụ nữ mà của cả gia đình sẽ được cải thiện và do vậy tuổi thọ của
họ cũng sẽ cao lên. Điều này sẽ được thấy rõ qua 2 ví dụ sau đây:
Ví dụ 1: Trình độ của người mẹ đóng vai trò quyết định trong việc chăm
sóc, nuôi dạy đối với con cái. Khi trình độ và nhận thức của phụ nữ trong gia
đình được cải thiện, số lượng và chất lượng đầu tư cho giáo dục đối với con cái
sẽ được cải thiện trực tiếp thông qua sự dạy dỗ của người mẹ cũng như khả
năng thuyết phục hoặc quyền của người mẹ trong việc đầu tư nhiều hơn cho
giáo dục đối với con cái. Trong các gia đình có cùng mức thu nhập, số trẻ em
chậm phát triển trong các gia đình với trình độ của người mẹ cao hơn đã giảm
21
hơn hẳn. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi các nghiên cứu chỉ ra rằng, sự gia
tăng về thu nhập của gia đình không không phải lúc nào cũng dẫn đến sự cải
thiện sức khỏe và giáo dục cho các thành viên trong gia đình (Todaro, 2006).
Trong dài hạn, các tác động này sẽ làm cho chất lượng nguồn nhân lực được cải
thiện và năng suất lao động trung bình của toàn xã hội sẽ được nâng lên.
Ví dụ 2: Các mô hình kinh tế liên quan đến tỷ lệ sinh cho rằng, khi phụ
nữ có trình độ hơn, chi phí cơ hội thời gian của họ sẽ tăng lên. Đồng thời họ

cũng có khả năng thương thuyết trong gia đình hơn. Hai yếu tố này đều góp
phần làm giảm tỷ lệ sinh (Becker, 1981; Schultz, 1985, 1994, Sen, 1999). Tỷ lệ
sinh giảm tác động đến tăng trưởng kinh tế. Tỷ lệ sinh thấp hơn làm giảm gánh
nặng nuôi con và tăng tỷ lệ tiết kiệm, và chính tỷ lệ tiết kiệm cao hơn sẽ thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Tỷ lệ sinh thấp hơn đồng nghĩa với tỷ lệ dân số trong
độ tuổi lao động tăng lên. Và nếu tất cả các lao động gia tăng thêm đều có việc
làm thì thu nhập tính trên đầu người tăng lên, cho dù năng suất lao động và
lương không tăng. Điều đó có thể đạt được là do số người ăn theo đã giảm. Tác
động này đã góp phần đáng kể trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Đông
Nam Á trong nhiều năm.
Các phân tích trên cho thấy, bất bình đẳng giới sẽ có tác động lớn đến
chất lượng cuộc sống không chỉ của người phụ nữ mà còn của cả xã hội trên tất
cả các mặt: giáo dục, kinh tế, thu nhập, tuổi thọ Điều đó càng khẳng định,
bình đẳng giới không chỉ đơn thuần là mục tiêu phát triển mang tính chuẩn tắc,
mà còn là động lực thúc đẩy chất lượng cuộc sống của người dân 1 nước. Vì
vậy, trong điều kiện hiện nay, Việt Nam cần thực hiện những thay đổi tích cực
hơn nữa trong việc cung cấp cho phụ nữ việc làm, sự chăm sóc sức khỏe, các
nguồn lực kinh tế, tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia nhiều hơn trong các hoạt
động chung của xã hội, trong đó có việc nam giới cần tham gia gánh vác nhiều
hơn nữa công việc nội trợ. Những cải cách tạo ra sự bình đẳng giới sẽ là một
nhân tố chính trong sự phát triển bền vững của đất nước.
22
2. Nguyên nhân
2.1 Nguyên nhân lịch sử, văn hóa và tín ngưỡng
Các quan niệm xã hội, các tập quán, hủ tục lạc hậu, rồi chế độ phụ quyền
tồn tại từ rất lâu. Quan niệm này đã đè nặng lên cả nam và nữ cho nên người
phụ nữ cũng sống theo kiểu phục tùng. Họ không thấy được là mình cũng có
quyền tự quyết nên bản thân rất tự ti. Có thể nói chính người phụ nữ cũng là
một nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng. Có rất nhiều chị em vẫn thích sinh con
trai hơn con gái, đôi khi cũng là để yên ấm gia đình.Ví dụ tại Việt Nam nói

riêng và các quốc gia châu Á nói chung đều ảnh hưởng phần lớn từ đạo Phật.
Từ xa xưa nền văn hóa Trung Quốc cùng với đạo Khổng Tử đã bành trướng
khắp các quốc gia kể cả Nhật Bản, Hàn Quốc. Khổng Tử lại cho rằng đàn bà
phải có tam tòng tứ đức, với cái tam tòng gắn chặt người phụ nữ vào cuộc sống
lệ thuộc: tòng phụ, tòng phu, tòng tử.
Thử nhìn vào quá trình phát triển của một con người để phân tích. Từ khi
lọt lòng, rất nhiều bé gái đã nhận được sự ghẻ lạnh, mặc cảm, thậm chí không
có cơ hội ra đời, từ phía bố mẹ, họ hàng vì mình không phải là con trai. Tâm lý
này sẽ ảnh hưởng đến mức độ yêu thương, chăm sóc, trò chuyện mà các em
gái nhận được từ người bố và những người họ hàng. Có nhiều nghiên cứu đã
chỉ ra rằng bé gái sinh ra từ những gia đình mong đợi có con trai sẽ cảm thấy
mặc cảm, thiếu tự tin trong xã hội. Đến tuổi đi học, nếu gia đình khó khăn về
kinh tế, gia đình thường chọn giải pháp trẻ em gái nghỉ học để trẻ em trai được
đến trường. Khi nghỉ học, trẻ em gái thường được mong đợi tham gia vào các
hoạt động tạo thu nhập trực tiếp (như chăn trâu, làm ruộng, bán hàng ), hoặc
làm công việc gia đình như nấu cơm, trông em, lấy nước, lấy củi để cha mẹ đi
làm kiếm thu nhập. Việc tham gia lao động quá sớm sẽ tước mất cơ hội phát
triển tối đa năng lực trí tuệ, thể chất và tinh thần của các em (dù là trai hay gái).
Phụ nữ cũng không được khuyến khích tham gia vào lĩnh vực chính trị hay trở
thành lãnh đạo, bởi theo quan niệm của nhiều xã hội, đó vẫn là vai trò của nam
23
giới. Khi phụ nữ tham gia vào những lĩnh vực này, họ sẽ mất đi vẻ "nữ tính".
Những chuẩn mực đó đã khiến các em gái tập trung phát triển các kỹ năng để
sau này làm một người nội trợ giỏi hơn là chú ý đến những kỹ năng để sau này
kiếm được việc làm tốt hay đóng góp cho sự phát triển của xã hội. Bởi vậy, khi
ra trường và tham gia vào thị trường lao động, phụ nữ nói chung sẽ thấp kém
hơn nam giới cùng lứa. Khi đã có công việc, xã hội mong đợi phụ nữ có gia
đình, và dành thời gian chăm sóc cho gia đình. Khái niệm "hạnh phúc" cũng
gắn liền với quan niệm này. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến việc chọn nghề
của chị em phụ nữ. Ngày nay, phụ nữ tham gia vào việc tạo thu nhập ở nhiều

lĩnh vực như nam giới nhưng xã hội vẫn mong đợi họ phải làm tốt cả công việc
nội trợ trong gia đình, chăm sóc con cái, chăm lo việc họ hàng, trong khi nam
giới chỉ cần đi làm kiếm thu nhập là đủ. Điều này lại không được coi là quá sức
đối với phụ nữ hay bất bình đẳng trong khi họ được coi là "phái yếu". Bởi
mong muốn làm tốt cả hai vai trò, trong khi quỹ thời gian có hạn, phụ nữ phải
gồng mình để học tập, lao động và phấn đấu nếu muốn có vị trí ngang bằng với
nam giới; hoặc, đây là quyết định của phần đa phụ nữ, hy sinh phát triển nghề
nghiệp để có thời gian chăm sóc gia đình. Rõ ràng, quan niệm của xã hội về
một người phụ nữ tốt và hạnh phúc đã tước đoạt đi quyền phát triển nghề
nghiệp, thể chất và trí tuệ của chị em.
Người phụ nữ với thiên chức làm mẹ thường có trái tim dịu dàng, đa cảm
hơn đàn ông. Họ vì muốn bảo vệ hạnh phúc gia đình nên thường có xu hướng
cam chịu. Do những quan niệm được nhồi vào đầu từ khi còn bé và cũng cho
rằng đó là việc không mấy tốt đẹp để thiên hạ biết nên nhiều phụ nữ ngại không
dám lên tiếng dù bạo hành thường xuyên xảy ra trong gia đình.
Các thành kiến này đã giới hạn cả nam lẫn nữ phái trong những đóng góp
ý nghĩa cho xã hội cũng như những phát triển tiềm năng và ý thích cá nhân. Bứt
tung những ràng buộc của thành kiến là điều quan trọng để có thể phát triển
tiềm năng, thăng tiến xã hội, phá bỏ các trở ngại và tạo cơ hội bình đẳng cho
mọi người, mọi giới.
24
2.2. Nguyên nhân kinh tế của bất bình đẳng giới
Bên cạnh các điều kiện về văn hóa,tôn giáo tín ngưỡng, các thể chế kinh
tế của một nước cũng ảnh hưởng tới các nguồn lực mà nam giới và phụ nữ
được tiếp cận, ảnh hưởng đến các hoạt động mà họ có thể tiến hành và cách
thức họ có thể tham gia vào nền kinh tế. Các thể chế kinh tế gắn liền với các
thị trường và hệ thống cấp bậc, chúng có các tập hợp, quy tắc điều tiết các giao
dịch và tác động tới việc đưa ra các quyết định về tiêu dùng, tiết kiệm, đầu tư,
việc sản xuất và tái sản xuất. Và giống như các hệ thống pháp lý, chúng phản
ánh các chuẩn mực và tập quán xã hội đang hình thành bao gồm cả cơ cấu về "

vốn giới và phân biệt đối xử với phụ nữ.
- Những thực tế thực sự mang tính lặp về giới trên thị trường lao động, như chỉ
thuê những nhân công có thể làm trọn cả ngày trong thời gian quy định,còn
thực tế đã loại bỏ những phụ nữ đang làm mẹ, những người cần có thời gian
linh hoạt. Chúng góp phần duy trì sự khắt khe trong phân công lao động gia
đình.
- Mạng lưới thông tin về cơ hội và việc làm nhìn chung thường được tập trung
ở các cơ quan chính thức, cơ quan nhà nước hoặc cơ quan tư nhân. Điều này
khiến cho những người đã có mối liên hệ với các cơ quan này dễ tiếp cận thông
tin hơn và thường dẫn đến việc loại trừ phụ nữ nhiều hơn là nam giới.
- Các thị trường bảo hiểm y tế chưa phát triển khiến cho phụ nữ thường không
tiếp cận được hoặc chỉ tiếp cận thông tin qua người chồng có việc làm ở khu
vực chính thức và việc không có một hệ thống an sinh chính thức cho tuổi già
cộng với những quyền về tái sản xuất bình đẳng, buộc người phụ nữ phải dựa
dẫm chủ yếu vào những người họ hàng để hỗ trợ lúc tuổi già.
- Các thị trường tín dụng thường đòi hỏi phải có đất đai hay nhà cửa để thế
chấp cho các khoản vay, điều này nằm ngoài khả năng của người phụ nữ.
Trong thị trường kinh tế giới nữ thường bị đánh giá không cao trong giới làm
ăn. Đối với lao động bình thường, mức thu nhập chênh lệch cũng là nguyên
25

×