Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

LÝ THUYẾT VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ VÀ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.09 KB, 36 trang )

Trường Đại Học Ngoại Thương
Khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế
Môn Kinh tế phát triển
Đề tài 4: LÝ THUYẾT VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
VÀ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2010.
Nhóm thực hiện tiểu luận – nhóm 1 lớp A13K45E:
1. Kiều Hải Anh
2. Nguyễn Phương Anh
3. Phan Qúy Dung
4. Tô Lan Dung
5. Ngô Thanh Hương
6. Nguyễn Phương Linh
7. Phạm Thị Phương Linh
8. Phạm Thị Thùy Linh
9. Bùi Thị Thanh Nga
10. Nguyễn Mai Phương
11. Hán Thị Thu Phương
12. Võ Thị Kim Thoa
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU……………………………………………………… 7
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
1. Các khái niệm
1.1. Cơ cấu kinh tế………………………………………………………………………9
1.2. Cơ cấu ngành kinh tế………………………………………………………………9
1.3. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế………………………………………………
10
2. Xu thế chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
1.1. Những cơ sở lý thuyết……………………………………………………………10
1.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế…………………………………12
3. Các mô hình lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
1.1. Mô hình Rostow…………………………………………………………………13


1.2. Mô hình hai khu vực Cổ điển (Arthus Lewis)…………………………………14
1.3. Mô hình hai khu vực Tân cổ điển………………………………………………14
1.4. Mô hình hai khu vực của Harry T.Oshima……………………………………15
II. THỰC TIỄN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ Ở VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 2001-2010
1. Thực trạng của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong giai
đoạn 2001-2010
1.1. Những thành tựu trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế…………………17
1.2. Những hạn chế chủ yếu của quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế…19
2. Nguyên nhân của những hạn chế………………………………………….22
2
III, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN KẾ HOẠCH
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
2001-2010
1. Phương hướng chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta giai đoạn
2001-2010………………………………………………………………………25
2. Một số giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam
giai đoạn 2001-2010
2.1. Hoàn thiện chính sách đầu tư phát triển………………………………………27
2.2. Phát triển khoa học – công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực nhằm thúc đẩy
chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế……………………………………………………29
2.3. Đẩy mạnh hoạt động thương mại nhằm thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu ngành
kinh tế trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế……………………32
KÊT LUẬN……………………………………………………………………35
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………36
3
Các chữ viết tắt
CNH-HĐH: Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
KHCN: Khoa học công nghệ
4

Danh mục bảng biểu
Bảng 1: Tốc độ tăng GDP của Việt Nam qua các năm 2001-2005.
Bảng 2: Cơ cấu lao động đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm phân theo
ngành kinh tế (%)
5
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, nhóm 1-K45E đã cố gắng hết sức mình,
tuy vậy, bài tiểu luận sẽ không thể được hoàn thành nếu không có sự hướng dẫn,
chỉ bảo tận tình cô giáo Lương Thị Ngọc Oanh, giảng viên môn Kinh tế phát
triển - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế - Trường đại học Ngoại Thương.
Chúng tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự góp ý, nhận xét quý báu của các
bạn trong khối K45E, góp phần vào sự hoàn thiện của bài tiểu luận.
Bài tiểu luận mặc dù đã được thực hiện cẩn thận và công phu, cũng không
thể không tránh khỏi những thiếu sót. Chính vì thế, nhóm 1 – K45E mong nhận
được sự góp ý của cô giáo và các bạn nhằm làm cho bài tiểu luận được hoàn
thiện hơn.
6
LỜI NÓI ĐẦU
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển các ngành trọng điểm, mũi
nhọn là một vấn đề cơ bản, cốt lõi của tiến trình CNH - HĐH của bất cứ một
quốc gia nào trong đó Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ.
Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau từ trước đến nay
và tương ứng với mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm riêng, những ưu tiên
riêng trong cơ cấu phát triển kinh tế đất nước. Do cơ cấu kinh tế chịu tác động
đồng thời của những nhân tố bên trong và bên ngoài và liên tục biến động nên
luôn đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu xem xét để có thể có những nhận định và
kết luận đúng đắn, từ đó có những hành động phù hợp trong từng giai đoạn. Đặc
biệt trong giai đoạn từ 2001 đến nay và hướng tới 2010, nước ta đã và đang đối
mặt với những thách thức to lớn trên nhiều phương diện. Cùng với những thách
thức là những cơ hội để nước ta có thể hòa nhập và phát triển mạnh, do vậy càng

đòi hỏi cần phải có những nghiên cứu sâu sắc về quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế đất nước, tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được cũng như nhận
thức rõ về những hạn chế nhằm đẩy mạnh quá trình CNH – HĐH của đất nước.
Với lý do trên chúng em đã chọn đề tài: “Lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế và thực tiễn ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010” cho bài tiểu luận
của mình.
Nội dung tiểu luận gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
7
Chương 2: Thực tiễn chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở
Việt Nam.
Với mục đích và nội dung nghiên cứu như trên, bài tiểu luận là cái nhìn
tổng quan về thực trạng chuyển đổi cơ cấu ngành ở nước ta và phần nào đề xuất
một số giải pháp để đạt được mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong
giai đoạn 2001-2010.
8
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
1. Các khái niệm
1.1. Cơ cấu kinh tế
Trong ba tiêu thức đánh giá sự phát triển của một quốc gia, cơ cấu kinh tế
được xem là tiêu thức phản ánh sự thay đổi về chất, là dấu hiệu đánh giá các giai
đoạn phát triển của nền kinh tế. Có thể định nghĩa cơ cấu kinh tế là mối tương
quan giữa các bộ phận trong tổng thể nền kinh tế.
Cơ cấu kinh tế được phân thành nhiều loại: cơ cấu ngành kinh tế; cơ cấu
vùng kinh tế; cơ cấu thành phần kinh tế; cơ cấu khu vực thể chế; cơ cấu tái sản
xuất; cơ cấu thương mại quốc tế. Trong đó, cơ cấu ngành có vai trò quan trọng
nhất, sự biến động của nó có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của nền kinh
tế mỗi quốc gia.
1.2. Cơ cấu ngành kinh tế

Cơ cấu ngành kinh tế là tương quan giữa các ngành trong tổng thể kinh tế,
thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số và chất lượng giữa
các ngành với nhau. Thông qua đó cơ cấu ngành kinh tế còn phản ánh phần nào
trình độ phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa, hợp tác sản xuất và sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Hiện nay, khi phân tích cơ cấu ngành của một
quốc gia, người ta thường phân tích theo 3 nhóm ngành chính : Nông nghiệp
(bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp), Công nghiệp (bao gồm công
nghiệp và xây dựng), Dịch vụ (bao gồm các ngành kinh tế còn lại như : bưu
điện, du lịch …).
9
1.3. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là sự thay đổi tương quan giữa các ngành
kinh tế theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp hơn với môi trường và
điều kiện phát triển.
Qua khái niệm trên có thể thấy rằng, chuyển dịch cơ cấu ngành không chỉ
là sự thay đổi về số lượng các ngành, tỷ trọng mỗi ngành mà còn còn bao gồm
sự thay đổi về vai trò của các ngành, tính chất mối quan hệ trong nội bộ cơ cấu
ngành. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có
và nội dung của sự chuyển dịch là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp
để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hiện đại và phù hợp hơn.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế có một ý nghĩa hết sức quan trọng đối
với nền kinh tế của mỗi quốc gia. Đó là quá trình diễn ra liên tục và gắn liền với
sự phát triển kinh tế, thể hiện tính hiệu quả của việc phân bổ các nguồn lực khan
hiếm cũng như lợi thế tương đối và khả năng cạnh tranh của quốc gia trong nền
kinh tế toàn cầu. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế hợp lý, linh hoạt giúp cho
việc thu được mức tăng sản xuất xã hội lớn nhất, phân bố hợp lý lực lượng sản
xuất, phát triển các mối quan hệ đối ngoại và mang lại sự phát triển bền vững
cho nền kinh tế.
2. Xu thế chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
2.1 Những cơ sở lý thuyết:

10
Để nắm rõ được tính quy luật của sự chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế thì
trước hết phải tìm hiểu một số cơ sở lý thuyết. Đó là quy luật tiêu dùng của
E.Engel và quy luật tăng năng suất lao động của A.Fisher.
a. Quy luật tiêu dùng của Ernst Engel (nhà kinh tế người Đức):
Được phát hiện từ cuối thế kỉ 19, quy luật tiêu dùng thực nghiệm của
E.Engel đã phản ánh được mối quan hệ giữa thu nhập và phân phối thu nhập cho
tiêu dùng: khi thu nhập tăng, tỷ lệ chi tiêu cho lương thực, thực phẩm giảm. Do
đó, tỷ trọng nông nghiệp cũng giảm vì chức năng chính của nông nghiệp là sản
xuất lương thực, thực phẩm. Đồng thời, E.Engel đã đề xướng ra đường Engel-
một đường biểu thị mối quan hệ giữa thu nhập và tiêu dùng cá nhân về một loại
hàng hoá cụ thể. Đường Engel được minh hoạ như sau:
Tiêu dùng
Thu nhập
Đường Engel
Độ dốc của đường này ở bất kì điểm nào chính là xu hướng tiêu dùng biên
của hàng hoá và cho thấy tỷ số thay đổi tiêu dùng so với thay đổi thu nhập, nó
phản ánh độ co giãn của tiêu dùng một loại hàng hoá cụ thể đối với thu nhập dân
cư. Các nhà kinh tế phân loại thành ba loại hàng hoá, trong đó nông sản là hàng
thiết yếu, công nghiệp là hàng hoá lâu bền, dịch vụ là hàng hoá cao cấp. Và như
11
vậy có thể đưa ra kết luận là khi thu nhập tăng thì tỷ trọng chi tiêu cho hàng hoá
thiết yếu giảm, tỷ trọng chi tiêu cho hàng hoá lâu bền tăng, tỷ trọng chi tiêu cho
dịch vụ tăng.
b. Quy luật tăng năng suất lao động của A.Fisher (nhà kinh tế người Mỹ):
Năm 1935, trong cuốn “Các quan hệ kinh tế của tiến bộ kĩ thuật”, trên cơ sở
quan niệm nền kinh tế gồm ba khu vực: nông - lâm - ngư nghiệp - khai thác
khoáng sản, các ngành công nghiệp xây dựng chế biến và các ngành dịch vụ;
A.F phân tích rằng: ngành nông nghiệp dễ có khả năng thay thế lao động nhất và
tỷ lệ lao động nông nghiệp trong cơ cấu ngành kinh tế có xu hướng giảm. Trong

khi đó, công nghiệp là ngành khó có khả năng thay thế lao động hơn và tỷ lệ lao
động công nghiệp có xu hướng tăng. Còn ngành dịch vụ được coi là khó thay thế
lao động nhất và có xu hướng càng tăng nhanh khi kinh tế phát triển.
2.2 Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế:
Từ những cơ sở lý thuyết trên có thể rút ra kết luận về tính quy luật của sự
dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế là chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Muốn chuyển một nền kinh tế nông nghiệp sang một nền kinh
tế công nghiệp cần trải qua các bước: chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang kinh
tế công-nông nghiệp để từ đó chuyển sang nền kinh tế công nghiệp phát triển.
Những nội dung cụ thể của xu hướng này thể hiện ở chỗ: tỷ trọng nông nghiệp
có xu hướng giảm đi trong khi đó tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ ngày càng
tăng kể cả GDP và lao động. Một xu hướng khác lại cho thấy, khi nền kinh tế
bước sang những giai đoạn phát triển cao thì tốc độ tăng của ngành dịch vụ sẽ
ngày càng cao hơn so với tốc độ tăng của ngành công nghiệp. Trong ngành công
12
nghiệp, tỷ trọng các ngành sản xuất sản phẩm có dung lượng vốn cao ngày càng
lớn và gia tăng với tốc độ nhanh, tỷ trọng các ngành sản phẩm có dung lượng
lao động cao sẽ giảm dần. Đối với ngành dịch vụ, theo sự phát triển kinh tế, các
ngành dịch vụ chất luợng cao sẽ có tốc độ phát triển nhanh và chiếm tỷ trọng
cao. Và ở các nước khác nhau thì xu hướng chuyển dịch như nhau nhưng tốc độ
chuyển dịch khác nhau. Có thể nói những kết luận của E.Engel và A.Fisher đã
gợi ra những nội dung khá ró nét về xu thế chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
trong quá trình phát triển.
3. Các mô hình lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
3.1 Mô hình Rostow
Mô hình Rostow thể hiện quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia qua
năm giai đoạn và ứng với mỗi một giai đoạn là một dạng cơ cấu ngành kinh tế
đặc trưng thể hiện bản chất của giai đoạn đó.

Xã hội truyền thống: cơ cấu nông nghiệp thuần tuý.


Chuẩn bị cất cánh: cơ cấu nông - công nghiệp.

Cất cánh: cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ.

Trưởng thành: cơ cấu công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp

Tiêu dùng cao: cơ cấu dịch vụ - công nghiệp.
Với một mô hình phát triển kinh tế năm giai đoạn như trên, W.Rostow đã
chỉ ra được một sự lựa chọn hợp lý về dạng cơ cấu ngành tương ứng với mỗi
giai đoạn phát triển nhất định của mỗi quốc gia tuy nhiên mô hình này vẫn còn
nhiều hạn chế về cơ sở của sự phân đoạn trong phát triển kinh tế cũng như sự
nhất quán về đặc trưng của mỗi giai đoạn so với thực tế.
13
3.2 Mô hình hai khu vực Cổ điển (Arthus Lewis)
Nhà kinh tế học A.Lewis đã giải thích về mối quan hệ giữa nông nghiệp và
công nghiệp trong quá trình tăng trưởng thông qua “mô hình hai khu vực cổ
điển” của mình. Đặc trưng chủ yếu của mô hình này là phân chia nền kinh tế
thành hai khu vực, trong đó khu vực truyền thống (nông nghiệp) có đặc điểm là
năng suất thấp, dư thừa lao động và có lợi nhuận biên giảm dần theo quy mô và
tiến tới bằng không. Vì thế, có thể chuyển một phần lao động từ khu vực này
sang khu vực hiện đại (công nghiệp) mà không làm ảnh hưởng gì tới sản lượng
nông nghiệp. Do có năng suất cao nên khu vực công nghiệp có thể tự tích luỹ để
mở rộng sản xuất một cách độc lập mà không phụ thuộc vào những điều kiện
chung của toàn bộ nền kinh tế. Như vậy, mô hình hai khu vực cổ điển của Lewis
đã xác định được một hướng giải quyết mới mối quan hệ giữa công nghiệp và
nông nghiệp trong quá trình thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển.
3.3 Mô hình hai khu vực Tân cổ điển
Dưới sự tác động của KHCN, các nhà kinh tế học tân cổ điển cho rằng mọi
sự tăng lên của lao động đều dẫn đến tăng sản lượng nông nghiệp hay nói cách

khác sự tăng dân số không phải là hiện tượng bất lợi hoàn toàn và do đó không
có lao động dư thừa để có thể chuyển sang khu vực khác mà không làm giảm
đầu ra của nông nghiệp. Tuy nhiên, sự tác động của khoa học kỹ thuật cũng
không đủ để làm cho khu vực nông nghiệp thoát khỏi quy luật lợi nhuận biên
giảm dần theo quy mô. Do đó, với một số lượng lao động tăng lên bằng nhau,
tổng sản phẩm của khu vực này ngày càng giảm đi. Trong khi đó để thu hút lao
động từ nông nghiệp sang, khu vực công nghiệp phải trả một mức tiền công lao
14
động cao hơn mức tiền công của khu vực nông nghiệp. Hơn thế nữa, mức tiền
công phải trả của khu vực công nghiệp sẽ tăng dần lên theo xu hướng sử dụng
ngày càng nhiều lao động.
Trong điều kiện trên, để quá trình trao đổi giữa hai khu vực không tạo ra
những bất lợi ngày càng nhiều cho khu vực công nghiệp thì các nhà tân cổ điển
đã cho rằng cần phải đầu tư cho cả hai khu vực ngay từ đầu nhưng tỷ trọng đầu
tư cho nông nghiệp có xu hướng giảm đi và ưu tiên tăng dần tỷ trọng đầu tư cho
khu vực công nghiệp.
3.4 Mô hình hai khu vực của Harry T.Oshima
Nhà kinh tế người Nhật Bản Harry T.Oshima đã đưa ra những quan điểm
mới về mô hình phát triển và mối quan hệ công-nông nghiệp dựa trên những đặc
điểm cơ bản của sản xuất nông nghiệp và hoạt động kinh tế châu Á. Thông qua
mô hình của mình, Oshima phân tích mối quan hệ của hai khu vực trong sự quá
độ về cơ cấu từ nền kinh tế do nông nghiệp chiếm ưu thế sang nền kinh tế công
nghiệp. Với quan điểm hướng tới một nền kinh tế phát triển, Oshima đã đưa ra
hướng quan tâm đầu tư phát triển nền kinh tế theo ba giai đoạn:

Giai đoạn bắt đầu của quá trình tăng trưởng: với mục tiêu tạo việc làm cho
thời gian nhàn rỗi theo hướng tăng cường đầu tư phát triển nông nghiệp, qua đó
tăng sản lượng để đáp ứng nhu cầu lương thực cho dân số ngày càng gia tăng,
tạo tiền đề cho phát triển công nghiệp.


Giai đoạn hai: hướng tới có việc làm đầy đủ bằng cách đầu tư cho cả nông
nghiệp và công nghiệp theo chiều rộng.
15

Giai đoạn sau khi có việc làm đầy đủ: thực hiện phát triển các ngành kinh
tế theo chiều sâu nhằm giảm cầu lao động.
Qua ba giai đoạn phát triển của mô hình Oshima chúng ta có thể nhận thấy
rõ quan điểm về tăng trưởng và phát triển kinh tế của Oshima là phải dựa trên
động lực tích luỹ và đầu tư đồng thời ở cả hai khu vực kinh tế và bắt đầu từ nông
nghiệp. Với quan điểm đó, ông cho rằng, quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh
không dẫn đến sự phân hoá xã hội và sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập.
Mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế với sự phát triển chung
của nền kinh tế có ý nghĩa hết sức quan trọng vì gắn với nó là cả một động thái
về sự phân bố các nguồn lực hạn hẹp của một quốc gia trong những thời điểm
nhất định vào những hoạt động sản xuất riêng. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành thể
hiện tính hiệu quả của việc phân bố nguồn lực. Trong nền kinh tế hội nhập quốc
tế và khu vực ngày càng phát triển thì việc lựa chọn và chuyển dịch hợp lý cơ
cấu ngành thể hiện được các lợi thế tương đối và khả năng cạnh tranh của một
quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu, là cơ sở cho sự chủ động tham gia và thực
hiện hội nhập thắng lợi.
16
II. THỰC TIỄN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ Ở VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 2001-2010
1. Thực trạng của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong giai
đoạn 2001-2010
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH đã được Đảng và
Nhà nước ta xác định là con đường tất yếu để Việt Nam nhanh chóng thoát
khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển trở thành một quốc gia văn minh,
hiện đại. Theo định hướng đó, việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của nước
ta, từ năm 1991 đến nay nói chung và giai đoạn 2001-2010 nói riêng đã đạt được

những thành tựu đáng kể, tuy nhiên bên cạnh đó cũng vẫn còn tồn tại một số hạn
chế cần được khắc phục trong thời gian tới.
1.1 Những thành tựu trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
a. Kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2001-2005
Tốc độ tăng (%)GDP 6,89 7,08 7,34 7,79 8,43 7,51
Bảng 1: Tốc độ tăng GDP của Việt Nam qua các năm 2001-2005.
(Nguồn: Niên giám thống kê)
GDP bình quân hằng năm nước ta thời kỳ 2001-2005 đạt cao (7,51% năm), GDP
tăng đáng kể từ 6,89 % năm 2001 lên đến 8,43% năm 2005 . Tăng trưởng kinh
tế cao kéo theo thu nhập bình quân đầu người cũng được cải thiện đáng kể, tăng
từ 483 USD năm 2003 lên đến 545 USD năm 2004 và 640 USD năm 2005. Kết
quả này cho thấy Việt Nam đã bước vào thời kỳ tăng trưởng nhanh và ổn định,
17
tiềm lực kinh tế của đất nước đã thay đổi đáng kể. Năm 2008, tốc độ tăng tổng
sản phẩm trong nước tuy thấp hơn tốc độ tăng 8,48% của năm 2007 và mục tiêu
kế hoạch điều chỉnh là tăng 7%, nhưng trong bối cảnh khủng hoảng, đạt tốc độ
tăng tương đối cao như trên là một nỗ lực lớn.
b. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Trên thực tế, đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng tích cực: tỷ trọng
trong GDP của ngành nông nghiệp đã giảm nhanh từ 24,5% năm 2000 xuống
còn 20,9% năm 2005, và đến năm 2008 ước còn 20,6%. Tỷ trọng công nghiệp
trong GDP đã tăng nhanh, năm 2000: 36,7%; năm 2005: 41% và đến năm 2008
ước tính sẽ tăng đến 41,6%. Cơ cấu GDP tính theo giá thực tế năm 2008 như
sau: Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 21, 99% GDP; khu vực công
nghiệp và xây dựng chiếm 39, 91%; khu vực dịch vụ chiếm 38, 1%.
Bên cạnh đó, cơ cấu lao động theo ngành kinh tế cũng chuyển đổi theo
hướng CNH-HĐH. Số lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày
càng tăng lên, trong khi số lao động ngành nông nghiệp ngày càng giảm đi (bảng
2).

2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Nông, lâm nghiệp 60,65 58,66 56,98 55,37 53,61 51,78 50,20
Công nghiệp chế biến 10,08 10,53 11,24 11,62 12,34 13,05 13,50
Xây dựng 3,35 3,86 4,16 4,62 4,70 4,93 5,13
Kinh doanh tài sản và
dịch vụ tư vấn
0,19 0,23 0,27 0,31 0,36 0,41 0,49
Tài chính, tín dụng 0,22 0,25 0,27 0,30 0,37 0,42 0,48
18
Bảng 2: Cơ cấu lao động đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm phân theo
ngành kinh tế (%)
(Nguồn: Niên giám thống kê)
Trong nội bộ cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn cũng đã có sự chuyển
dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng giá trị sản xuất công
nghiệp khu vực nông thôn đã tăng từ 17,3% năm 2001 lên 19,3% năm 2007.
c. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế khu
vực và quốc tế, phát huy các lợi thế so sánh.
Đầu tiên phải kể đến xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng
tỷ trọng sản xuất hàng hoá, hướng về xuất khẩu. Cụ thể là tỷ lệ xuất khẩu/GDP
ngày càng tăng, từ 47% năm 2001 đến khoảng 70% năm 2008. Năm 2006, kim
ngạch xuất khẩu tiếp tục đạt mức cao - 40 tỉ USD, năm 2007 đạt gần 50 tỉ USD,
và năm 2008 tăng 29,5% so với năm 2007. Các thị trường xuất khẩu lớn của
Việt Nam năm 2008 là Hoa Kỳ, đạt 11,6 tỷ USD, tăng 14,5% so với năm 2007;
ASEAN đạt 10,2 tỷ USD, tăng 31%; Nhật Bản: 8,8 tỷ USD, tăng 45%.
Sự chuyển đổi này còn được thể hiện trên phương diện vốn đầu tư phát
triển qua các năm. Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2008 theo giá thực tế
ước tính đạt 637,3 nghìn tỷ đồng, tăng 22,2% so với năm 2007. Các hoạt động
khác như đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) và viện trợ phát triển chính thức
(ODA) cũng đều tăng trưởng khả quan. Năm 2001, vốn FDI vào Việt Nam là
3,2 tỉ USD; 2005: 6,8 tỉ USD; 2006: 10,2 tỉ USD và 2008, tuy kinh tế toàn cầu

gặp nhiều khó khăn lớn song FDI đăng ký tại Việt Nam vẫn đạt 64,011 tỉ USD.
19
Giải ngân vốn ODA được 2,2 tỉ USD, vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra và cao hơn
mức năm 2007 (2,176 tỉ USD).
1.2 Những hạn chế chủ yếu của quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế
a. Sự chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế quốc dân theo chiến lược CNH-HĐH
và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực còn rất chậm, cả về tỷ trọng
lần chất lượng.
Theo quy luật chuyển đổi cơ cấu ngành trong tiến trình CNH-HĐH thì tỷ
trọng trong GDP của công nghiệp và dịch vụ phải tăng lên, nông nghiệp giảm
xuống. Tuy nhiên, theo số liệu thống kê thì trong giai đoạn 2000-2008, Việt
Nam đã có sự chuyển đổi ngược trong ngành dịch vụ với tốc độ giảm bình quân
mỗi năm là 0,1%. Tỷ trọng trong GDP của ngành công nghiệp tăng và nông
nghiệp giảm là phù hợp, nhưng tốc độ chuyển dịch còn chậm.
Bên cạnh đó, chất lượng chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế cũng như
trong nội bộ các ngành chưa cao. Yếu tố hiện đại trong toàn ngành công nghiệp
chưa được quan tâm đúng mức, trình độ kỹ thuật công nghệ vẫn ở mức trung
bình. Những ngành dịch vụ có hàm lượng chất xám và giá trị gia tăng cao như
dịch vụ tài chính - tín dụng, dịch vụ tư vấn chậm phát triển. Quá trình chuyển
đổi cơ cấu ngành cũng chưa tạo được sự gắn kết chặt chẽ giữa các ngành công,
nông nghiệp và dịch vụ, và giữa các phân nhánh ngành của nội bộ các ngành đó.
b. Xu hướng cơ cấu ngành nghiêng về hướng nội thay thế nhập khẩu, chưa
triệt để tuân theo chiến lược tăng trưởng hướng vào xuất khẩu.
20
Trong cơ cấu công nghiệp, phát triển các ngành nghiêng về hướng nội, sử
dụng nhiều vốn, ít lao động, không tạo điều kiện nhảy vọt cơ cấu và thực hiện
CNH-HĐH. Các ngành mũi nhọn phát triển, có hàm lượng công nghệ - kỹ thuật
và lao động cao như điện tử và một số ngành chế tạo ô tô, xe máy thì còn non
trẻ, vẫn còn ở trình độ lắp ráp, chưa đủ sức cạnh tranh quốc tế.
Trong cơ cấu nông nghiệp, tuy đã có nhiều sản phẩm hướng vào xuất khẩu

như gạo, cà phê, chè, hạt tiêu, các sản phẩm thủy sản… nhưng những ngành mới
thay thế ngành sản xuất khai thác lợi thế sẵn có chưa nhiều.
Ở khu vực dịch vụ, loại hình dịch vụ chất lượng cao hướng tới xuất khẩu
như tài chính - ngân hàng, viễn thông, tư vấn, du lịch còn chiếm tỷ trọng nhỏ,
các ngành dịch vụ xuất khẩu tại chỗ, dịch vụ cho nền kinh tế hiện đại để hội
nhập sâu vào kinh tế khu vực và quốc tế còn chưa phát triển mạnh.
c. Hình thành một cơ cấu ngành khai thác nguồn lực kém hiệu quả, năng lực
cạnh tranh kinh tế thấp cả trên thị trường trong nước và nước ngoài.
Cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2000-2008 chưa sử dụng hết
các nguồn lực, thậm chí còn gây lãng phí. Việc giảm tỷ trọng lao động trong khu
vực nông nghiệp để di chuyển sang các ngành công nghiệp và dịch vụ diễn ra rất
chậm. Việc nâng cao trình độ tay nghề của đội ngũ lao động trong từng ngành
cũng còn rất chậm chạp và tình trạng dư thừa lao động đang là sức ép lớn.
Tình trạng sử dụng vốn lãng phí, kém hiệu quả thể hiện ở hệ số ICOR ngày
càng tăng của toàn nền kinh tế. Bình quân giai đoạn 2001-2005 là 5,21 lần, giai
đoạn 2006-2007 tăng lên 5,38 lần. Điều này chứng tỏ hiệu quả đầu tư sụt giảm,
21
thể hiện ở tất cả các khu vực, các ngành của nền kinh tế. Hiệu quả đầu tư thấp
dẫn đến vốn bỏ ra nhiều, sản phẩm thu được ít hơn và giá thành cao. Nhiều sản
phẩm như xi măng, đường, giấy… giá bán trong nước còn cao hơn giá nhập
khẩu các sản phẩm đó. Ngoài ra, các sản phẩm còn có chất lượng thấp, thương
hiệu sản phẩm chưa được chú trọng, dịch vụ sau bán chưa tốt làm cho khả
năng cạnh tranh của các sản phẩm thấp, khó tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
2. Nguyên nhân của những hạn chế
Bên cạnh các chủ trương, chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng đắn,
góp phần thu hút đáng kể vốn đầu tư trong và ngoài nước, cả trực tiếp và gián
tiếp vào kinh tế, nhờ đó đạt được những thành tựu nổi bật… quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam cũng không tránh khỏi những thiếu sót, hạn
chế.
2.1 Chiến lược, quy hoạch cơ cấu ngành ổn định, dài hạn được đưa ra chậm

và thực hiện chưa nghiêm ngặt.
Trên thực tế chuyển dịch cơ cấu ngành ở Việt Nam vẫn bị định hướng bởi
quy hoạch mang tính cục bộ, từng ngành, địa phương nhằm phục vụ lợi ích cục
bộ và ngắn hạn, bỏ qua lợi ích quốc gia dài hạn. Kế hoạch tổng thể vì thế mà
thường xuyên bị điều chỉnh, thậm chí là phá vỡ. Kết quả là dù khẩu hiệu đưa ra
là đẩy mạnh chiến lược phát triển hướng về xuất khẩu nhưng tăng trưởng vẫn có
xu hướng nghiêng về phát triển các ngành hướng nội. Việc chậm trễ đưa ra danh
mục sản phẩm mũi nhọn, then chốt của đất nước kéo theo chậm trễ trong việc
lựa chọn các ngành mũi nhọn, hệ quả là sự lúng túng trong việc phân bổ các
nguồn lực, xác định cơ cấu lao động, vốn và lên kế hoạch thu hút vốn đầu tư.
22
2.2 Cơ cấu ngành được nhấn mạnh chuyển đổi mặt lượng, chưa chú trọng
đúng mức chuyển đổi mặt chất.
Dù đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng cơ cấu ngành vẫn thiên
về chuyển đổi theo chiều rộng, thay đổi tỷ trọng trên cơ sở mở rộng vốn đầu tư
và tiêu dùng chứ chưa chú trọng nhiều đến chuyển đổi chiều sâu dựa vào tăng
năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và đổi mới công nghệ. Năng suất lao
động chưa cao, chi phí đầu tư lớn kết hợp với việc tiêu hao nhiều vật chất đầu
vào đã làm giảm đi đáng kể lợi thế cạnh tranh của Việt Nam với các nước khác
trên thế giới.
Trong khi cơ cấu ngành đạt được những bước tiến nhất định thì phân công
lao động xã hội lại chậm thay đổi. Công nghiệp mở rộng, đầu tư và tăng trưởng
kĩ thuật cao nhưng thu hút lao động không tăng tương ứng, chất lượng lao động
cũng chưa theo kịp tiến bộ công nghệ. Sự mất cân đối này dẫn đến giảm hiệu
quả đầu tư, xa hơn là giảm hiệu quả chuyển đổi cơ cấu ngành
2.3 Chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa chuyển đổi cơ cấu ngành với chuyển đổi
cơ cấu vùng lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế.
Đầu tư, thu hút FDI theo “phong trào” ở các tỉnh thành, địa phương khiến
cho cơ cấu ngành bị phân tán, không đáp ứng được yêu cầu phát triển dài hạn,
mang tầm tổng thể quốc gia.

Tình trạng phân bổ các ngành và khu vực công nghiệp chưa hợp lý giữa các
vùng, miền còn khá phổ biến. FDI chủ yếu tập trung ở các tỉnh thành phố lớn
như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng… chứ chưa mở rộng đến các tỉnh vùng sâu
vùng xa. Đầu tư cho những vùng này mới chỉ dừng lại ở việc đảm bảo sinh tồn
23
và xoá đói giảm nghèo chứ chưa giúp họ khai thác được tiềm năng sẵn có, phát
huy những nguồn lực xuất khẩu.
Trong cơ cấu đầu tư phát triển, đầu tư Nhà nước chiếm vị trí áp đảo nhưng
tỷ trọng đóng góp trong GDP lại thấp hơn nhiều so với tỷ trọng vốn đầu tư, hiệu
quả kinh tế trực tiếp không cao nhưng thường xuyên được bù lỗ, trợ cấp, hỗ trợ.
Nhìn chung, trong giai đoạn 2001-2010, cơ cấu ngành kinh tế của nước ta
đã bước đầu chuyển dịch theo định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của
Đảng và Nhà nước. Cùng với tốc độ tăng cao liên tục và khá ổn định của GDP,
cơ cấu ngành kinh tế đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng tích cực với sự tăng
lên của tỷ trọng công nghiệp và giảm dần của tỷ trọng nông nghiệp trong GDP.
Cơ cấu ngành của nền kinh tế cũng đã chuyển dịch theo hướng mở cửa, hội nhập
với kinh tế toàn cầu. Sản xuất hàng hoá đã tập trung về các mặt hàng có lợi thế
so sánh theo hướng xuất khẩu ra thế giới. Chính sự chuyển dịch này là một trong
những nguyên nhân quan trọng và cơ bản nhất đưa đến các kết quả, thành tựu
tăng trưởng kinh tế khả quan, tạo ra những tiền đề vật chất trực tiếp để chúng ta
giữ được các cân đối vĩ mô của nền kinh tế như thu chi ngân sách, vốn tích luỹ,
cán cân thanh toán quốc tế , góp phần bảo đảm ổn định và phát triển kinh tế -
xã hội theo hướng bền vững. Mặc dù đã có sự chuyển dịch đúng hướng nhưng
vẫn còn tồn tại một số hạn chế do nguyên nhân khách quan và chủ quan. Đặc
biệt là tiến độ thực hiện còn chậm và chất lượng chưa cao so với mục tiêu đề ra.
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy thoái hiện nay, việc đề ra các giải pháp thúc
đẩy mạnh mẽ hơn nữa chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta là nhiệm vụ
rất cần thiết.
24
III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN KẾ HOẠCH

CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ Ở VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2001-2010
1. Phương hướng chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta giai đoạn
2001-2010
Tiếp tục thực hiện tốt những mục tiêu đã đề ra trong giai đoạn 2001-2010,
mục tiêu tổng quát của chiến lược 10 năm 2010 – 2020 là phát triển đất nước để
đến 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp, nâng cao chất lượng đời
sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân, ổn định chính trị - xã hội, an ninh
quốc phòng. Để đạt được những mục tiêu trên, một trong những yêu cầu cấp
thiết là chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng tiến bộ, phù hợp với tiến
trình phát triển của lực lượng sản xuất. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới,
một số phương hướng chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta trong giai đoạn
2001-2010 đã được đề ra như sau:
1.1. Một là, chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế phải đảm bảo ổn định chính trị -
xã hội và phát triển bền vững
Chuyển đổi cơ cấu ngành hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế bền vững,
tức là chuyển đổi cơ cấu ngành phải góp phần gắn kết tăng trưởng kinh tế nhanh
với tiến bộ công bằng xã hội, giữ gìn và cải thiện môi trường, giữ vững ổn định
chính trị xã hội, đảm bảo an ninh xã hội. Mặt khác, phát triển bền vững và ổn
định chính trị- xã hội sẽ thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu ngành hiệu quả hơn.
25

×