Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tài Liệu Hình Ảnh Con Người Nguyễn Khuyến Qua Bài Thơ Câu Cá Mùa Thu.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.72 KB, 18 trang )

Đề bài: Hình ảnh con người Nguyễn Khuyến qua bài thơ Câu cá mùa thu
Bài Mẫu Số 1:
"Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ
Lẻ tẻ bên trời bóng nhạn thưa
Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa."
Có thể nói thu là bức ảnh thiên nhiên đặc sắc trong bức tranh bốn mùa: xuân, hạ, thu, đơng.
Cũng vì lẽ đó mà từ bao đời nay, mùa thu luôn là đề tài muôn thuở của biết bao thi nhân, là
nơi gửi gắm tâm tư, tình cảm của họ. Trong văn học trung đại cũng thế, bên cạnh các tác
phẩm có đề tài mùa thu như "Thu dạ" của Nguyễn Du hay "Ngẫu hứng" của Nguyễn Bỉnh
Khiêm thì sẽ là một thiếu sót nếu khơng nhắc đến chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến mà nổi
bật là bài "Thu điếu". Qua bài thơ ta thấy được tâm trạng thời thế và tấm lòng sâu nặng của
Nguyễn Khuyến đối với đất nước.
Xưa nay, khi nói đến mùa thu, các thi nhân thường sử dụng những hình ảnh đẹp tráng lệ như
sen tàn, từng phong lá đỏ, lá ngô đồng rụng... nhưng đối với "Câu cá mùa thu" của Nguyễn
Khuyến thì hồn tồn khác, ơng đưa vào thơ những khung cảnh quen thuộc như ao thu, ngõ
trúc, lá vàng... những cảnh vật tuy giản dị nhưng lại phản ánh rất thực mùa thu của làng quê
Việt Nam, toát lên được cái hồn dân tộc. Cảnh thu trong thơ Tam Nguyên hiện lên với cái vẻ
đẹp thanh sơ, dịu nhẹ nhưng vẫn có nét hấp dẫn riêng, đầy vẻ thuần Việt chứ không phải
mùa thu mượn ở nơi khác.
Con người yêu thiên nhiên của Nguyễn Khuyến được thể hiện qua những vần thơ miêu tả
cảnh vật rất thực của ông. Trong "Thu điếu" tác giả đã đặt điểm nhìn của mình từ ao thu lên
bầu trời xanh ngắt rồi từ vùng trời ấy trở lại ao, trở lại với chiếc thuyền câu. Nguyễn Khuyến
cảm nhận mùa thu từ gần ra xa rồi từ xa trở lại gần nhằm khái quát cảnh vật nhưng vẫn
không làm mất đi vẻ yên ắng của mùa thu.
Đầu bài thơ ông viết:
"Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo"
Điểm sơ qua ta nhận ra hình ảnh ngư ơng ngồi câu cá trong khí thu lạnh lẽo giữa chiếc ao thu
nhỏ hẹp nhưng ẩn chứa trong hai câu thơ vốn là bối cảnh đất nước đương thời. Người xưa có
câu: "Thủy chí thanh tắc vơ ngư" nghĩa là nước trong thì khơng có cá. Dù vậy, trong "Thu




điếu", tuy là "nước trong veo" nhưng ngư ông vẫn ôm cần, đó là một việc không thể, tác giả
đang làm một việc vô thưởng, vô phạt, đang đối mặt với một tình cảnh đau xót đó là tuy ơng
là người học rộng tài cao nhưng phải bó tay trước cảnh nước mất mà về dạy học, không
mang tài năng ra phụ dân, làm quan vì thời này làm quan chỉ để trở thành con rối cho kẻ
khác giật dây. Nguyễn Khuyến ln mang trong mình mong ước có thể giúp nước nhưng
hồi bão ấy khơng thể cất cánh trong xã hội nhiễu nhương bấy giờ, tất cả đều vô vọng như
việc câu cá nước trong. Đúng như ván cờ đang vào hồi bế tắc trong bài "tự trào" của ông "cờ
đương dở cuộc không còn nước" - " Bạc chửa thâu canh đã chạy làng". Trong mạch cảm xúc
ấy, tác giả viết tiếp:
"Sóng nước theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo"
"Sóng nước theo làn" dùng để tả cảnh mặt nước gợn sóng theo làn gió thu, tưởng chừng như
tác giả muốn nói đến cái chuyển động khe khẽ của mặt hồ gợn sóng nhưng thực ra đó chính
là thái độ sống mà Nguyễn Khuyến muốn người đời thông cảm, cảm thông cho hành động
cáo quan về quê thay thái độ "bình chân như vại" trước cảnh đất nước rơi vào tay giặc, thậm
chí có lúc ông phải dạy học trong dinh của ông quan theo Pháp nhưng tất cả những điều đó
chỉ là vài làn sóng gợn trong cuộc đời trong sạch như ao thu của Nguyễn Khuyến, ông vẫn
thanh khiết như làn nước kia, vẫn một lòng hướng về Tổ quốc và giữ vững hào khí của người
quân tử.
Gam màu lạnh lúc này bị đâm ngang bởi màu vàng của chiếc lá. Nhiều người cho rằng chiếc
lá đã khẽ đưa thì khơng thể có độ "vèo" nhưng thực chất chi tiết này lại rất hợp lý, chữ "vèo"
vốn được dùng để gợi tả vẻ thanh mảnh của chiếc lá khi bay hay cũng chính là hiện thực đất
nước rơi vào tay giặc quá nhanh, thời thế thay đổi trong chớp mắt, khiến tác giả khơng khỏi
bàng hồng xót xa trước tình cảnh đất nước đầy đau thương. Nguyễn Khuyến e rằng rồi đất
nước này sẽ như chiếc lá vàng kia, mục nát trên nền đất thu.
Cùng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, cảnh thu được tác giả miêu tả qua hai câu thơ tiếp:
"Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo"

Trong cái vận nước điên đảo đương thời, ông quan thanh liêm về hưu liệu có giúp gì cho
nước, ông đau xót, tủi hổ và muốn gửi gắm tâm sự vào khung cảnh thu như bầu trời xanh
ngắt hay ngõ trúc kia để làm vơi đi phần nào nỗi buồn vì bất lực. Song những hình ảnh mộc


mạc của làng quê lại càng làm ông day dứt vì trách nhiệm của bản thân. Hình ảnh ngõ trúc
lúc này gợi lên một sự cô đơn, trống vắng khôn cùng, vắng khách hay ý Nguyễn Khuyến
muốn nói tới sự vắng mặt của nhân tài, vắng đi những tâm huyết của nho sĩ lúc bấy giờ.
Tâm trạng thời thế của Nguyễn Khuyến được thể hiện rõ nhất qua hai câu cuối:
"Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo"
Qua hai câu thơ, ta thấy được tâm thế nhàn "tựa gối buông cần" song song với tư thế chờ đợi
"lâu chẳng được", khát vọng phục vụ quê hương của Nguyễn Khuyến luôn dâng trào khiến
ông không thể kiên nhẫn ngồi chờ thời. Cõi lòng tác giả bấy giờ như đắm vào dịng suy tư
trong khí thu n ắng, tịch mịch đến nỗi chỉ một tiếng cá đớp động cũng đủ làm ông thảng
thốt. Tiếng cá ở đây cũng có thể xem là tia hy vọng sáng lên giữ bầu khơng gian có phần n
ắng, ảm đạm, một niềm tin khách quan đưa người đọc đến với bầu khơng khí đầy hy vọng,
một tín hiệu chuyển biến của thời cuộc, một phép màu xuất hiện ngay lúc canh lạc đang bế
tắc và thay đổi tất cả.
Qua bài thơ, ta thấy được tài năng của Nguyễn Khuyến trong phần gieo vần "eo" vốn là từ
vận oái ăm nhưng phù hợp với tâm trạng hẹp dần, đầy uẩn khúc của tác giả. Cạnh đó, thủ
pháp lấy động tả tĩnh cũng được ơng vận dụng một cách tài tình.
Bài "Câu cá mùa thu" đã vẽ nên nét thu đẹp tĩnh lặng nơi làng quê xưa, bộc lộ một mối tình
thu đẹp mà tràn đầy uẩn khúc của một nhà nho yêu thiên nhiên, một lịng vì nước vì dân.
Bài Mẫu Số 2:
Nhắc đến Nguyễn Khuyến người ta nhớ ngay đến một nhà thơ được mệnh danh là "nhà thơ
của làng cảnh Việt Nam" của miền quê Bắc Bộ. Và cũng khi nhắc đến ông, người ta nhớ
ngay đến chùm thơ thu gồm ba bài: Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm. Ba bài thơ được coi là "nức
danh nhất" trong các sáng tác của ông. Mỗi bài thơ miêu tả bức tranh làng cảnh ở một góc
nhìn, một khía cạnh khác nhau nhưng đều gặp nhau ở hình ảnh một Nguyễn Khuyến có tình

u thiên nhiên tha thiết, một Nguyễn Khuyến với những nỗi niềm tâm sự riêng, nặng lịng
vì nước. Đến với "Thu điếu" (Câu cá mùa thu) ta sẽ càng hiểu rõ hơn về con người ấy.
"Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo


Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo".
Bài thơ dựng lên một bức tranh thiên nhiên ở vùng đồng bằng Bắc Bộ trong một khơng gian
rất đặc trưng là ao thu. Cái nhìn của bài thơ cũng được đặt từ đây để hướng ra xa rồi lên cao
rồi lại quay trở lại điểm nhìn thật gần. Trung tâm của bức tranh mùa thu là hình ảnh "một
chiếc thuyền câu bé tẻo teo", một ngư ông ngồi "tựa gối buông cần". Từ một cái thuyền con
giữa lịng ao, cái nhìn của nhà thơ bao quát ra xung quanh: mặt nước ao thu lạnh lẽo, trong
veo đến hết độ sắc trong, sóng biếc chỉ hơi khẽ gợn, ngang tầm mắt người là "thu rứt lá gọi
mùa đi", hướng lên trên cao để thu vào một khoảng trời trong xanh vời vợi, lơ lửng như yên
tĩnh tự mn đời; bao qt để nhìn thấy cái quanh co của những ngõ trúc uốn lượn. Và tầm
nhìn cuối cùng quay về thu lại ở chiếc thuyền câu cá bởi tiếng "đớp động dưới chân bèo".
Bằng ngòi bút tinh tế cùng cách sử dụng ngôn từ, cách gieo vần tài tình nhà thơ đã đưa
những thi liệu vốn quen thuộc trong thơ ca cổ (thu thuỷ, thu thiên, thu diệp, ngư ông) để tạo
nên những vần thơ vừa cổ điển lại vừa hiện đại. Bút pháp lấy điểm tả diện, lấy động tả tĩnh
được sử dụng một cách đắc địa. Bức tranh thiên nhiên hiện lên tĩnh lặng gần như tuyệt đối.
Phải tĩnh lặng mới thấy rõ cái "hơi gợn tí" của mặt ao và chút "khẽ đưa vèo" của lá vàng.
Tĩnh đến độ con người và thiên nhiên nghe thấy tiếng đớp động của chân bèo để mà giật
mình sực tỉnh. Người đọc ấn tượng về một cảnh thu thanh vắng, quạnh hiu, dường như chỉ có
một thi nhân trong vai ông già ngồi câu cá đối diện trước cảnh thiên nhiên thu nhỏ để lắng
vào cõi suy tư. Phải có một tâm hồn tinh tế và yêu thiên nhiên sâu sắc, Nguyễn Khuyến mới

có thể khám phá những đường nét trong bức tranh thiên nhiên hài hoà đến vậy. Hồn quê xứ
sở đã thấm vào hồn thơ để tạo nên một ấn tượng đặc biệt. "Cái thú vị của bài "Thu điếu" là ở
các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng
đám ngang của chiếc lá thu rơi" (Lê Trí Viễn). "Diệp lạc tri thu". Chỉ thống một chiếc lá
vàng gọi hồn thu vĩnh cửu trong thơ thu sách vở, và các gam màu xanh thì thật dân dã, đồng
quê, gần gũi.
Bài thơ thiên về gợi nhiều. Không chỉ bức tranh thiên nhiên từ điểm gợi ra được hiện mà từ
bức tranh thiên nhiên ấy, hình ảnh thi nhân cũng được gợi ra một cách rất cụ thể, chân thực
và sinh động. Phải đến hai câu thơ cuối cùng hình ảnh nhà thơ trong vai trị của một ngư ông


mới được miêu tả trực tiếp nhưng người ta đã bắt gặp bóng hình của ơng thấp thống hiện
hữu trước đó. Đó là ánh mắt chăm chú dõi theo mọi chuyển động tinh vi của thiên nhiên, sự
sống từ đầu đến cuối bài thơ. Và cịn là hình ảnh của một thi nhân trầm ngâm, tư lự. Người
ngồi trên thuyền trầm ngâm tĩnh lặng đến mức không làm cho chiếc thuyền động đậy. Cái
chuyển động của sóng nước mặt ao chỉ là hơi gợn tí, nhưng cũng là do gió mà thơi. Nhà thơ
cùng với con thuyền câu như hóa thành một bức tượng mà chỉ có sự sống xung quanh là vận
động, tuy buồn, tuy quạnh hiu, vắng vẻ nhưng vẫn cứ gợi nhiều cảm xúc. Hẳn phải có cái gì
đó lơi cuốn thi nhân ghê gớm lắm mới có thể khiến ơng bị cuốn tồn bộ tâm trí vào như vậy.
Đến đây, Nguyễn Khuyến đã bộc lộ hình ảnh của một con người "đau" đang có rất nhiều tâm
trạng. Dường như có gì đó tương đồng giữa cảnh "Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo" của nhà
thơ với tâm trạng của Tản Đà trước sự biến ảo, đổi thay của thời thế trong câu thơ "Vèo
trông lá rụng ngồi sân". Có cái gì đó như buồn, như nuối tiếc trước cái đổi thay, rối ren của
thời thế. Hình ảnh "bầu trời xanh ngắt" không chỉ xuất hiện trong bài "Câu cá mùa thu". Đó
là màu đặc trưng rất thu trong một khơng gian thu thống đãng. Nhưng trước suy tư miên
man của người trong cuộc, dường như trời xanh ấy, và cả đám mây lững lờ trôi cũng chứa
đầy tâm trạng. Thơ Nguyễn Khuyến đã xuất hiện không ít lần câu thơ bày tỏ nỗi day dứt, "vò
đầu mấy bạn làm thơ đi về". Và phải chăng cái "lửng lơ", "quanh co", "vắng teo" chính là
tâm trạng cơ quạnh, cô đơn của nhà thơ, là nỗi niềm, là tâm trạng thời thế được gửi gắm kín
đáo và sâu xa?

Chút "khẽ đưa vèo" của lá vàng
Mải mê với suy tư đến mức thi nhân phải giật mình bởi một thứ âm thanh gần như rất mơ hồ:
"Cá đâu đớp động dưới chân bèo"
Bài thơ viết về câu cá mùa thu mà đến tận hai câu thơ cuối cùng mới đề cập đến chuyện câu
cá. Mà đề cập đến thì cũng chỉ là cái giật mình sửng sốt của người đi câu trước tiếng đớp
động. Thì ra là vậy! Người đi câu nhưng đâu có để ý đến việc câu cá, bởi tâm hồn đang nặng
trĩu suy tư. Đi câu chỉ là một cái cớ để nhà thơ có thời gian yên tĩnh một mình, chiêm nghiệm
về cuộc đời, về những nỗi niềm tâm sự thầm kín. "Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là
những tâm hồn cao cả và đa cảm" (Vơn-te). Bài thơ là tiếng lịng của một người thơ lúc nào
cũng luôn nặng trĩu suy tư.
Phải hiểu được hoàn cảnh riêng của nhà thơ và bối cảnh thời đại bấy giờ mới thấy hết được
tâm sự cũng như cái thanh cao trong tâm hồn Nguyễn Khuyến. Là một nhà thơ có khí tiết


thanh cao nhưng lại sinh ra vào thời buổi: "Vua chèo còn chẳng ăn ai/ Quan chèo vai nhọ
khác chi thằng hề" ông chọn con đường cáo quan về ở ẩn để, giữ nguyên khí tiết. Nhưng
nhàn thân mà chẳng nhàn tâm. Ý thức của một nhà nho và một tâm hồn yêu nước, luôn nặng
suy tư đã khiến ông luôn mang mặc cảm của người: "Cờ đang dở cuộc khơng cịn nước/ Bạc
chửa thâu canh đã chạy làng". Trở về vườn Bùi chốn cũ, tâm hồn ấy vẫn còn nặng lịng với
thời cuộc: "Ngọn gió đơng ngoảnh lại lệ đầm khăn/ Tình thương hải tang điền qua mấy lớp?".
Là một người tài năng, một nhà nho yêu nước có cốt cách thâm trầm, khí phách thanh cao,
ơng gửi gắm tất cả nỗi niềm của mình vào trong cảnh vật. "Người buồn cảnh có vui đâu bao
giờ". Thế nên bức tranh thiên nhiên mới có độ thanh vắng, quạnh hiu, gợi nỗi buồn sâu đến
vậy. Thế nên đi câu là đi câu lấy cái tĩnh, cái thanh, cái trong, cái lắng, cái nhàn trong tâm
hồn nhưng tiếng "cá đâu đớp động" đã phá vỡ không gian im vắng. Cậu cá để câu nhàn mà
dường như không thể, bởi nhàn trước hoàn cảnh hiện tại, đối với một nhà thơ như Nguyễn
Khuyến là một điều không thể thực hiện được.
"Câu cá mùa thu" cho ta biết thêm về Nguyễn khuyến, một tâm hồn thiết tha với quê hương,
đất nước.
Bài Mẫu Số 3:

Mùa thu là cảm hứng vô tận cho các thi nhân. Riêng Nguyễn Khuyến đã có một chùm thơ
thu vơ cùng đặc sắc: Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm. Nhà thơ lấy cảnh thu, tình thu mà nói lịng
mình vậy. Và cùng qua thơ thu ta thấy hiện lên một phần đáng trân trọng trong con người
Nguyễn Khuyến. Trong bài thơ Thu điếu - Câu cá mùa thu, Nguyễn Khuyến hiện lên với tấm
lịng sâu nặng nghĩa tình đối với đất nước.
Thơ thu xưa chẳng khi nào vui cả. Nhắc đến thơ thu là nhắc đến những tâm trạng u hoài,
man mác. Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến cũng vậy.
Thơ gợi tình người mà người buồn thì thơ vui sao được? Bài thơ ra đời khi Nguyễn Khuyến
đã quá bất mãn với xã hội mà lui về ở ẩn ở quê nhà. Xã hội nửa thực dân, nửa phong kiến
cướp đi quyền tự chủ của nước nhà, gieo rắc bao đau thương mất mát cho đất nước, con
người Việt Nam. Buồn vì thảm cảnh", bất hợp tác với thực dân Pháp, Nguyễn Khuyến thể
hiện khí tiết học ơng ngư về quê câu cá. Bài thơ Câu cá mùa thu bước ra từ một tâm sự, một
nỗi niềm như thế để giãi bày với hồn thiêng sông núi quê hương một tấm lòng yêu nước thiết
tha, day dứt.


Điều dễ thấy trong Câu cá mùa thu là cảnh tuy buồn nhưng vơ cùng đẹp đẽ. Điều đó thể hiện
tấm lòng yêu nước ưu ái với thiên nhiên của thi nhân.
Bức tranh mùa thu hiện lên trong trẻo, xinh xắn làm sao.
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Cái se lạnh của mùa thu làm làn nước ao "lạnh lẽo" "trong veo". Câu thơ khơng chỉ nói đến
cái lạnh mà còn nhắc đến cái tĩnh lặng, cái vắng vẻ, cái buồn buồn của khí trời, của cảnh vật.
Phải rồi, "ao thu lạnh lẽo" thì mọi lồi cũng chỉ muốn lặn mình xuống đáy, đâu muốn tung
tăng bơi lội nơ đùa? Vì thế, làn nước "trong veo" - trong trẻo, tĩnh lặng, cái trong có hình có
khối. Tưởng đơi mắt Thúy Kiều - "làn thu thủy" - cũng chỉ trong đến thế.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh cái ao làng mùa thu - một hình ảnh hết sức quen thuộc ở nông
thôn đồng bằng Bắc Bộ. Và từ đây, mọi cảnh vật trong bài thơ đều xoay quanh cái ao ấy, lấy
cái ao làm điểm nhìn nghệ thuật. Hơi thu man mác, lạnh lẽo, trầm buồn từ làn nước mùa thu
"trong veo" đang lan tỏa thấm dần vào từng hơi gió.
Trên nền ao thu vốn đã rất nhỏ là "Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo". Chỉ là "một chiếc" thôi
không hơn. số từ "một" khiến chiếc thuyền câu bơ vơ đơn độc. Mà "một chiếc thuyền câu"
lại "bé tẻo teo" nên càng mong manh tội nghiệp.
Điểm xuyết cho bức tranh thu xinh xắn là gợn "sóng biếc" là chiếc lá vàng. Tưởng rằng thêm
vào sẽ bớt vắng vẻ đìu hiu nhưng ở đây, làn sóng biếc, chiếc lá vàng càng gợi cái nhỏ bé
mong manh của sự vật. Bởi "sóng biếc" thì "theo làn hơi gợn tí", chỉ "hơi" gợn, chăm chú
lắm mới thấy, mà cịn là "gợn tí" một chút cỏn con... Cịn lá vàng thì "đưa vèo" như chỉ tạo
ra một vệt sáng vàng rồi nhanh chóng nằm lặng im nơi nào đó.
Chiếc "lá vàng" ấy là lá gì? Là lá trúc, lá tre chăng? Có thể lắm bởi bờ ao đồng bằng Bắc Bộ
thường có những lũy tre xanh tỏa bóng êm dịu. Càng có thể bởi ở hai câu sau nhà thơ đã viết:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.


Không gian được mở rộng lên chiều cao, sang bề rộng. Vậy nhưng cũng không bớt vắng vẻ
cô đơn. Mây trắng "lơ lửng" giữa không trung không về với trời; chẳng sà xuống thấp, lẻ loi
trôi dạt trong bao la. Sắc trời "xanh ngắt" - xanh rất đậm, xanh như có hình khối, sắc xanh
tuyệt đối ấy càng khẳng định cái đơn côi lẻ loi của sự vật.
Trời xanh cao mà buồn quá. Hạ tầm nhìn xuống thấp mong chờ sự giao hòa đồng cảm nhưng
nhà thơ chỉ thấy "Ngõ trúc quanh co khách vắng teo".
Đường làng vốn đã rất nhỏ nay lại quanh co khúc khuỷu, tưởng như một dải lụa cố xoắn
mình tự thu nhỏ lại. Đường vắng vẻ, vắng lắm, "vắng teo" Nếu chẳng "vắng teo", dẫu có
bóng người có lẽ cũng nhỏ bé, đơn độc lắm.
Một bức tranh thu xinh xắn hài hịa. Sự vật gì cùng thu mình lại để nhỏ hơn, để hồ hợp hơn
với khn hình của sự vật khác. Đặc biệt, cách dùng vần "eo" rất tinh tế: "lạnh lẽo" "trong
veo" "tẻo teo" "đưa vèo"... , ở đây có sự thống nhất giữa nội dung và hình thức: vần "eo"

khiến cảnh vật càng bé nhỏ, mong manh đơn côi hơn. Bức tranh thiên nhiên xinh xắn, đẹp đẽ
thể hiện một tâm hồn thi nhân tinh tế, nhạy cảm. Hơn thế còn bộc lộ một con người đồng
cảm với thiên nhiên, yêu thiên nhiên tha thiết.
So sánh thiên nhiên trong Câu cá mùa thu với những bài thơ thu khác ta còn trân trọng hơn
tấm lòng Nguyễn Khuyến. Thơ xưa tả mùa thu thường mượn lá ngô đồng, rừng phong đỏ để
gợi tứ gợi tình "Một chiếc lá ngơ đồng rụng/ Ai cũng biết là mùa thu đã về" "Rừng phong thu
đã nhuộm màu quan san". Bích Khê của "thơ mới" cũng vần gị thơ theo khn như vậy.
0 hay! Buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi, vàng rơi thu mênh mông.
Ai cũng biết "lá ngơ đồng" "rừng phong đó" là hình ảnh ước lệ tả mùa thu, hai hình ảnh ấy
tượng trưng cho mùa thu Trung Quốc. Các nhà thơ trung đại Việt Nam theo lối "tập cổ" mà
vẫn ưu ái những hình ảnh ấy. Thiên nhiên trong bài thơ của Nguyễn Khuyến thì khác. Khơng
một chút vay mượn, chỉ có cái thuần cảnh vật quê hương. Ao làng, bụi trúc, lá vàng rơi...
những hình ảnh ấy giản dị, quen thuộc với người dân đồng bằng Bắc Bộ lắm. Đưa chúng vào
thơ, Nguyễn Khuyến đã thể hiện tấm lòng yêu thiên nhiên quê nhà tha thiết, lòng tự hào về
cảnh sắc quê hương. Tình yêu ấy cảm động ở việc đã phá bỏ những lề lối ước lệ bền chắc
xưa cũ.
Chưa hết, một bài thơ Đường luật năm mươi sáu chữ không một chữ nào khơng thuần Việt.
Chẳng ai -tìm được một từ Hán Việt nào, nhà thơ hồn tồn dùng ngơn ngữ của đất nước để


vẽ nên bức tranh tuyệt mỹ về quê hương. Chẳng những vậy, nhà thơ cịn vận dụng rất tài tình
vần "eo" - vần thơ rất đặc biệt, nó nơm na xa lạ với thơ cổ nhưng lại đạt hiệu quả nghệ thuật
rất cao. Sự tài tình trên chỉ có thể có ở một nhà thơ yêu tiếng mẹ đẻ, trân trọng dân tộc, tự
hào về đất nước mình.
Thiên nhiên, đẹp đẽ nhưng tầng sâu của nó là một nỗi buồn, một tâm sự của thi nhân. Cảnh
đẹp nhưng sao buồn thế! Mọi vật đều hững hờ, đơn côi đến vô tình. Nguyễn Du đã có một
câu thơ thật hay "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Ở đây, cảnh thu cũng vậy. Nguyễn
Khuyến buồn thì có cớ gì để cảnh vui? Cảnh buồn, cảnh cô đơn bởi nhà thơ cũng đang mang
nặng cảm giác ấy giữa cuộc đời biến động. Bất mãn với xã hội, khinh bạc chốn quan trường

nhưng vẫn nặng lòng lo cho an nguy của Tổ quốc. Vậy nên, dầu lui về ở ẩn tâm hồn nhà thơ
vẫn canh cánh một niềm riêng.
Có lẽ vì nỗi buồn lớn quá, nhà thơ không thể gửi gắm mãi vào thiên nhiên. Hai câu cuối bài
thơ hạ xuống cùng là lúc bài thơ vén lên bức màn để lộ một con người với niềm ưu tư day
dứt:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Tư thế "tựa gối ôm cần" là tư thế mang nặng tâm trạng. Chờ hồi khơng có cá nên buồn bã,
thất vọng "tựa gối" nhưng còn mong mỏi đợi chờ nên vẫn "ơm cần". Nhưng có phải thi nhân
đang câu cá? Nếu phải, tại sao lại có cảm nhận mơ hồ "cá đâu đớp động dưới chân bèo?".
Thực ra, Nguyễn Khuyến câu cá đâu phải vì muốn câu cá. (Thế nên mới có cái ngơ ngác
nhìn quanh: cá ở đâu đớp động dưới chân bèo vậy? - Chăm chú câu cá sẽ khơng có chi tiết
này). Nhà thơ làm ơng ngư chỉ vì muốn lánh đời. Nhưng cuộc đời ở ẩn không làm tan đi nỗi
ưu tư với đời. Câu cá mà không tập trung câu cá, tâm hồn vẫn chơi vơi nơi đâu không ở lại
nơi cái ao làng nhỏ bé này.
Thi nhân ưu tư điều gì? Ưu tư về vận nước, ưu tư về lẽ đời. Niềm ưu tư dai dẳng, khắc khoải
dứt áo ở ẩn vẫn không nguôi trăn trở. Nguyễn Khuyến, một con người có tấm lịng yêu nước
sâu nặng.
Con người Nguyễn Khuyến qua Câu cá mùa thu hiện lên ở nhiều góc cạnh: yêu thiên nhiên
đất nước, yêu tiếng mẹ đẻ, trân trọng và tự hào về dân tộc, luồn trăn trở băn khoăn với vận
nước, với cuộc đời... Tựu trung lại, bài thơ đã thể hiện một tâm hồn yêu nước khắc khoải,
trăn trở đầy xúc động.


Thơ Nguyễn Khuyến đa dạng về nội dung, nhiều màu vệ trong cách thể hiện nhưng sẽ còn
mãi với thời gian. Và do đó, Câu cá mùa thu cũng ln là một trong những "kiệt tác xinh
xắn" của thơ ca Việt Nam.


Báo cáo giải pháp công tác quản lý Mầm non

tài liệu mầm non mẫu giáo
Kỹ năng sống cho trẻ mầm non
sáng kiến kinh nghiệm
thư viện kiến thức tổng hợp về mầm non mẫu giáo này để chăm sóc và ni dạy con của mình ngày một tốt hơn.


Báo cáo giải pháp công tác quản lý Mầm non
tài liệu mầm non mẫu giáo
Kỹ năng sống cho trẻ mầm non
sáng kiến kinh nghiệm
thư viện kiến thức tổng hợp về mầm non mẫu giáo này để chăm sóc và ni dạy con của mình ngày một tốt hơn.


Báo cáo giải pháp công tác quản lý Mầm non
tài liệu mầm non mẫu giáo
Kỹ năng sống cho trẻ mầm non
sáng kiến kinh nghiệm
thư viện kiến thức tổng hợp về mầm non mẫu giáo này để chăm sóc và ni dạy con của mình ngày một tốt hơn.


Báo cáo giải pháp công tác quản lý Mầm non
tài liệu mầm non mẫu giáo
Kỹ năng sống cho trẻ mầm non
sáng kiến kinh nghiệm
thư viện kiến thức tổng hợp về mầm non mẫu giáo này để chăm sóc và ni dạy con của mình ngày một tốt hơn.


Báo cáo giải pháp công tác quản lý Mầm non
tài liệu mầm non mẫu giáo
Kỹ năng sống cho trẻ mầm non

sáng kiến kinh nghiệm
thư viện kiến thức tổng hợp về mầm non mẫu giáo này để chăm sóc và ni dạy con của mình ngày một tốt hơn.


Báo cáo giải pháp công tác quản lý Mầm non
tài liệu mầm non mẫu giáo
Kỹ năng sống cho trẻ mầm non
sáng kiến kinh nghiệm
thư viện kiến thức tổng hợp về mầm non mẫu giáo này để chăm sóc và ni dạy con của mình ngày một tốt hơn.


Báo cáo giải pháp công tác quản lý Mầm non
tài liệu mầm non mẫu giáo
Kỹ năng sống cho trẻ mầm non
sáng kiến kinh nghiệm
thư viện kiến thức tổng hợp về mầm non mẫu giáo này để chăm sóc và ni dạy con của mình ngày một tốt hơn.


Báo cáo giải pháp công tác quản lý Mầm non
tài liệu mầm non mẫu giáo
Kỹ năng sống cho trẻ mầm non
sáng kiến kinh nghiệm
thư viện kiến thức tổng hợp về mầm non mẫu giáo này để chăm sóc và ni dạy con của mình ngày một tốt hơn.



×