Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Lý giải sự cần thiết học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh và ý nghĩa việc học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh đối với bản thân đồng chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (748.6 KB, 20 trang )

Chủ đề:
LÝ GIẢI SỰ CẦN THIẾT HỌC TẬP VÀ LÀM THEO PHONG CÁCH HỒ
CHÍ MINH VÀ Ý NGHĨA VIỆC HỌC TẬP VÀ LÀM THEO PHONG CÁCH
HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI BẢN THÂN ĐỜNG CHÍ
Bài Làm
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ kính yêu của Đảng và dân tộc Việt Nam.
Người đã sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta trở thành một đảng cầm quyền
chân chính, cách mạng, đồng thời lãnh đạo dân tộc Việt Nam giành thắng lợi trong
sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới – xã hội chủ nghĩa. Tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là tài sàn tinh thần vơ cùng to lớn và q
giá của Đảng và dân tộc ta.
Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Chỉ thị 05-CT/TW về “Đẩy mạnh việc học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”
Đây vừa là quyết tâm chính trị, vừa là hành động thực tiễn của toàn Đảng,
toàn dân, dựa vào di sản cao quý của Bác để học và hành, làm sao cho Đảng ta
thực sự là một Đảng của đạo đức, của văn minh, xứng đáng trong niềm tin cậy của
nhân dân. Do vậy, việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Bác Hồ cùng với học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác đối với cán
bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay là vô cùng cấp thiết.
Trong các nội dung được học tập nghiên cứu về tư tưởng của Người đã củng
cố niềm tin của tôi vào phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh, đường lối của
Đảng, vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Đối với tôi, ấn tượng nhất là phong cách Hồ Chí Minh. Trong điều kiện cơng tác,
với chức trách nhiệm vụ được giao tại cơ quan, việc nghiên cứu, học tập và làm
theo phong cách, đạo đức, tư tưởng của Người là việc làm hết sức cần thiết.
1. HỆ THỐNG PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
1.1. Khái niệm phong cách và phong cách Hồ Chí Minh
1.1.1.Khái niệm phong cách và các điều kiện ảnh hưởng đến việc hình thành
phong cách
* Khái niệm phong cách
1




Phong cách là những đặc điểm về lề lối, cách thức, phong thái, phẩm cách
đã trở thành nếp ổn định của một chủ thể; được thể hiện trên tất cả các mặt hoạt
động của chủ thể đó; tạo nên những giá trị, những nét riêng biệt của chủ thể đó.
*Các điều kiện ảnh hưởng đến việc hình thành phong cách
Phong cách Hồ Chí Minh chịu sự tác động của các điều kiện tự nhiên, mơi
trường, văn hố, xã hội và kinh tế…qua các thời kỳ phát triển của lịch sử. Phong
cách hình thành và chịu sự tác động của truyền thống, tập qn, thói quen do hồn
cảnh sống quy định, đồng thời mang dấu ấn cá nhân rất rõ.
Phong cách có liên quan chặt chẽ với đạo đức, song phong cách không phải
là đạo đức mà là những phẩm chất đạo đức được nhận thức và được thể hiện ra
trong hoạt sống của con người. Nói phong cách khiêm tốn, giản dị chính là phẩm
chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính được con người nhận thức và thể hiện trong
cuộc sống đời thường. Song mức độ khiêm tốn giản dị cũng khác nhau ở những
con người khác nhau.
Phong cách của mỏi người còn chịu ảnh hưởng của các điều kiện về tư chất
cá nhân; thế giới quan, nhân sinh quan; hệ tư tưởng. Với người cộng sản thì đường
lối, chủ trương của đảng cầm quyền cũng ảnh hưởng đến phong cách của họ.
*Khái niệm Phong cách Hồ Chí Minh
Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh và học
tập làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nêu rõ: “Phong cách Hồ
Chí Minh phản ánh những giá trị cốt lõi trong tư tưởng, đạo đức của Người và
được thể hiện vô cùng sinh động, tự nhiên, độc đáo, có sức thu hút, cảm hóa kỳ
diệu trong hoạt động, ứng xử hàng ngày. Đó là: Phong cách tư duy độc lập, tự chủ,
sáng tạo, luôn gắn chặt lý luận với thực tiễn; phong cách làm việc dân chủ, khoa
học, kỷ lưỡng, cụ thể, tới nơi, tới chốn; phong cách ứng xử văn hóa, tinh tế, đầy
tính nhân văn, thấm đậm tinh thần yêu dân, trọng dân, vỉ dân; phong cách nói đi
đơi với làm, đi vào lịng người; nói và viết ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm;
phong cách thanh cao, trong sạch, giản dị; phong cách quần chúng, dân chủ, tự

mình nêu gương”. Nói phong cách Hồ Chí Minh là nói đến những đặc trưng giá trị,
mang đậm dấu ấn Hồ Chí Minh, gắn liền với tư tưởng, đạo đức của Ngưòi; thể
2


hiện một nhân cách lớn, siêu việt, trí tuệ lỗi lạc, đạo đức trong sáng, nhân văn. Đó
là phong cách của một vĩ nhân, một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, một nhà văn hóa lớn.
Phong cách Hồ Chí Minh gồm những điểm nổi bật sau đây:
2. Phong cách tư duy
Hồ Chí Minh là người mácxít, phong cách tư duy của Người trước hết là
phương pháp biện chứng duy vật: xuất phát từ thực tiễn để trở lại biến đổi thực
tiễn. Hồ Chí Minh đã thể hiện một phong cách tư duy khoa học và hiệu quả với
những đặc trưng nổi bật:
2.1. Nét đặc sắc nhất, cái bản chất nhất của phong cách tư duy Hồ Chí Minh là
độc lập, tự chủ và sáng tạo.
Hồ Chí Minh có phong cách tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo. Với Người,
độc lập là không lệ thuộc, không phụ thuộc, không bắt chước, giáo điều. Tự chủ là
chủ động suy nghĩ và làm chủ suy nghĩ của mình, tự chịu trách nhiệm trước dân,
trước nước, biết làm chủ bản thân và công việc. Sáng tạo là vận dụng đúng quy
luật chung cho phù hợp với cái riêng, cái đặc thù. Đồng thời sáng tạo cũng là tìm
tòi, đề xuất những cái mới mà có thể trả lời được những đòi hỏi của cuộc sống đặt
ra. Cái mới sáng tạo của Hồ Chí Minh là cái mới phù hợp với quy luật khách quan
của cách mạng Việt Nam, đồng thời phù hợp với quy luật phát triển chung của xã
hội loài người. Cái mới có thể bao hàm giá trị của cái cũ nhưng vượt lên trên và bổ
sung giá trị mới. Cái mới cũng là cái chưa có tiền lệ trong lịch sử.
Nhờ phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh mà
những quy luật của cách mạng Việt Nam được phát hiện. Chính các quy luật đó đã
xác lập nên hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư duy độc lập, tự chủ ở Hồ Chí Minh có từ rất sớm. Nó phát triển và trở
thành sáng tạo khi Hồ Chí Minh tiếp nhận phương pháp khoa học, cách mạng của

chủ nghĩa Mác – Lênin, với hạt nhân cơ bản là phép biện chứng duy vật và lịch sử.
Bằng phương pháp tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, Hồ Chí Minh đã bổ sung, phát
triển phù hợp vời điều kiện lịch sử cụ thể trong từng giai đoạn cách mạng. và Đảng
ta đã tìm ra những cách đánh địch chưa có trong từ điển, cũng như kinh nghiệm
quân sự thế giới, đã tạo ra các phương thức đấu tranh có thể coi là kinh điển của
3


phong trào giải phóng dân tộc, đã làm nên những thắng lợi có ý nghĩa thời đại, làm
sụp đổ chủ nghĩa thực dân cũ và mở đầu thất bại của chủ nghĩa thực dân mới trên
phạm vi thế giới. Cũng chính bằng phương pháp tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo,
Hồ Chí Minh đã đưa Việt Nam, một nước kinh tế kém phát triển đi lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong điều kiện thế giới đầy biến động.
2.2. Những nguyên tắc trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh
Thứ nhất, tư duy trên những cứ liệu thực tế Việt Nam.
Mọi trăn trở suy nghĩ của Hồ Chí Minh đều nhằm cái đích là cứu nước, cứu
dân, là làm sao cho dân giàu, nước mạnh, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được
học hành, mọi người dân sống tự do, ấm no, hạnh phúc. Tuy nhiên tư duy của Hồ
Chí Minh không chỉ dừng lại ở chỗ tìm đường mà còn tìm cách hiện thực hoá con
đường đã tìm thấy cho cách mạng Việt Nam.
Việc tìm đường và dẫn đường cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh đều
xuất phát từ thực tế Việt Nam. Đó là thực tế đã được nhận thức đúng đắn, gạt bỏ
những tính phiến diện, bề ngoài, sai lệch mà tư duy thường ngày dễ mắc phải. Đó
là thực tế đã được nhận thức dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, bằng
phương pháp biện chứng duy vật để phân tích cụ thể tình hình cụ thể của cách
mạng Việt Nam. Thực tế mà Hồ Chí Minh cần nắm được là thực tế với bản chất
bên trong của nó, với những đặc điểm, mâu thuẫn nội tại và phát hiện ra những quy
luật vận động của đất nước, dân tộc để hoạch định đường lối, chủ trương đúng và
tổ chức thực hiện thành công đường lối, chủ trương đó.
Xuất phát từ thực tế Việt Nam để tư duy đã làm cho phong cách tư duy Hồ

Chí Minh vượt lên so với các nhà yêu nước thuộc thế hệ trước và cùng với thời Hồ
Chí Minh.
Thứ hai, rộng mở tư duy trên cơ sở nghiên cứu, nắm bắt các tư tưởng và học
thuyết đã có.
Trước khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã theo học Nho học,
tiếp cận Phật giáo, Thiên chúa giáo, làm quen với tư tưởng của các nhà khai sáng
và cách mạng tư sản Tây Âu. Sau khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh
4


còn tìm hiểu chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (Trung Quốc), thuyết Bất bạo
động của Găngđi (Ấn Độ).
Ở Hồ Chí Minh khơng có sự thành kiến đối với bất kỳ tư tưởng, học thuyết
nào. Trung tâm sự suy nghĩ của Hồ Chí Minh là rút ra những gì cần thiết cho cách
mạng Việt Nam phù hợp với dân tộc Việt Nam, giúp cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc và phát triển đất nước. Người suy ngẫm so sánh, chắt lọc điều hay lẽ phải, phân
biệt đúng sai, hay dở, tiến bộ hay lạc hậu, phù hợp hay không phù hợp với Việt Nam
trên cơ sở phương pháp luận mácxít và quan điểm lập trường của giai cấp cơng nhân,
vì lợi ích của nhân dân và Tổ quốc Việt Nam. Hiếm có một nhà lý luận mácxít nào,
hơn nữa lại là lãnh tụ cộng sản đã có những nhận xét chính xác về các học thuyết lớn
trong lịch sử tư tưởng nhân loại như Hồ Chí Minh.
Theo Hồ Chí Minh: “Học thuyết của Khổng tử có ưu điểm của nó là sự tu
dưỡng đạo đức cá nhân, tơn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả.
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa
Tôn Dạt Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta”.
Song Người cũng chỉ rõ rằng, đạo Phật, tôn giáo Giêsu, đạo Khổng đều là những
học thuyết không cách mạng. Bởi vì, tuy các học thuyết đó rất giàu tình thương
u con người, nhưng khơng vạch ra cho con người con đường tự giải phóng mà
khuyên họ cam chịu, trói tộc họ trong trật tự đương thời, thậm chí còn phát ngơn
bênh vực những kẻ bóc lột, chống lại những người bị áp bức. Phải có một tư duy

rộng mở, khơng định kiến mới có những nhận xét sát thực như vậy. Ở thế kỷ XX,
Hồ Chí Minh là người biết sử dụng các nhân tố hợp lý trong các học thuyết lớn của
nhân loại làm cơ sở cho hệ thống lý luận của mình.
Thứ ba, hướng tới cái mới, cái tiến bộ, mở rộng tầm nhìn ra thế giới để tư duy.
Cái mới, cái tiến bộ là tài sản chung của nhân loại không thuộc sở hữu của
riêng ai. Để nắm bắt được nó đòi hỏi mỗi người cần có vốn tri thức nhất định, nhất
là để sử dụng, ứng dụng cái mới, cái tiến bộ vào cuộc sống thì vốn kiến thức càng
phải phong phú, đa dạng và sâu rộng. Khi không đủ trình độ tiếp cận với cái mới,
cái tiến bộ mà lại muốn sử dụng, ứng dụng nó sẽ dẫn đến làm hỏng cái mới và phá
hoại cái hiện có. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Sự ngu dốt này sẽ dẫn đến sự ngu dốt khác,
5


hơn nữa dốt nát cũng là một thứ giặc, cũng là một kẻ địch cần phải tiêu diệt. Để
chiến thắng sự dốt nát chỉ có con đường duy nhất là không ngừng học tập nâng cao
trình độ mọi mặt của con người. Hồ Chí Minh nhiều lần căn dặn mọi người hãy
nhớ lời Lênin: học, học nữa, học mãi. Đối với Hồ Chí Minh, học trong các trường
chỉ là khởi đầu, cái ảnh hưởng lớn đến phong cách tư duy của Người là học trong
trường đời. Hồ Chí Minh vừa hoạt động thực tiễn vừa tự học, vừa tổng kết kinh
nghiệm để từng bước đi đến đỉnh cao của trí tuệ, của văn minh. Từ một người yêu
nước, một người cộng sản, Hồ Chí Minh đã trở thành nhà văn hố kiệt xuất của
nhân loại thơng qua con đường tự học là chủ yếu. Việc biết nhiều ngoại ngữ, trong
đó có những tiếng thơng thạo gần như tiếng mẹ đẻ đã giúp Hồ Chí Minh mở rộng
tầm nhìn ra thế giới và nhìn suốt lịch sử văn hoá - văn minh nhân loại.
Ba nguyên tắc nêu trên cố kết, gắn bó chặt chẽ với nhau, trong q trình phát
triển tư duy độc lập tự chủ sáng tạo của Hồ Chí Minh.
Phong cách tư duy độc lập, tự chủ sáng tạo Hồ Chi Minh cũng thể hiện rõ nét
bản lĩnh của Người. Qua phong cách tư duy Hồ Chí Minh ta thấy một bản lĩnh vững
vàng, một tinh thần dũng cảm, dám chịu trách nhiệm trước kết quả tư duy của mình.
Tư duy xơ cứng, giáo điều là xa lạ và Hồ Chí Minh, tự nhận và thật sự là học trò của

Mác, Ăngghen, Lênin nhưng Hồ Chí Minh khơng tự trói mình và bắt mọi người phải
tuân theo những câu chữ của các nhà kinh điển mácxít. Trong lúc nhiều nhà lý luận
mácxít ngại nói đến chủ nghĩa dân tộc, đồng nhất chủ nghĩa dân tộc với tư tưởng hẹp
hòi, phản động, thì Hồ Chí Minh tư duy từ thực tế Việt Nam lại khẳng định: “Chủ
nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước” Người còn yêu cầu “phát động chủ nghĩa
dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản”.
Phong cách tư duy Hồ Chí Minh đã phản ánh đúng cuộc sống, phản ánh
đúng cái bất biến trong sự vạn biến sôi động của cuộc sống, do vậy những tư
tưởng, kết quả của tư duy Hồ Chí Minh không lạc hậu mà đã mở đường cho cuộc
sống đi lên phía trước.
3. Phong cách diễn đạt
Mỗi người đều có phong cách diễn đạt riêng của mình (chủ yếu bằng ngơn
ngữ nói và viết cũng có khi bằng ngơn ngữ cơ thể).
6


3.1. Đới với Hồ Chí Minh: Phong cách diễn đạt của Hồ Chí Minh là sự kết hợp
hài hồ phong cách truyền thống với cái hiện đại, phong cách văn hoá phương
Đông với văn hoá phương Tây
Đây là nét đặc sắc trong phong cách diễn đạt của Hồ Chí Minh. Có được
điều đó là do Hồ Chí Minh đi nhiều, đọc nhiều, tiếp xúc với nhiều tầng lớp, nhiều
hạng người khác nhau ở những quốc gia khác nhau, tìm hiểu và học ở họ những
cách diễn đạt đặc trưng nhất. Có tri thức un bác, nhưng khơng phải ai diễn đạt
cũng cuốn hút được người nghe, người đọc nếu tâm hồn và trái tim họ khơng hài
hồ đập cùng nhịp với người đọc, người nghe, khơng nói tiếng nói, khơng viết
bằng văn phong của người đọc, người nghe.
3.2. Nguyên tắc nhất quán trong phong cách diễn đạt của Hồ Chí Minh là xác định
rõ chủ đề, rõ đối tượng và mục đích cần trùn đạt, từ đó mà tìm cách nói, cách
viết cho đúng chủ đề, phù hợp với đới tượng nhằm đạt mục tiêu đề ra
Hồ Chí Minh đặt cho mình và cũng yêu cầu mọi người thực hiện bốn vấn đề

có liên quan chặt chẽ với nhau khi diễn đạt, đó là: Nói, viết cái gì? Nói, viết cho ai?
Nói, viết để làm gì? Nói, viết như thế nào? Trong bốn vấn đề trên thì “cái gì”, “cho
ai”, “để làm gì” quyết định cách thể hiện “như thế nào?”.
Ngược lại, cách thể hiện, cách diễn đạt làm cho nội dung nói, viết đúng chủ
đề, đối tượng và đạt được mục đích nói và viết. Nếu khơng xác định rõ chủ đề, đối
tượng, mục đích và tìm được cách thể hiện phù hợp thì mọi bài nói, bài viết đều
khơng có tác dụng.
3.3. Đặc điểm của phong cách diễn đạt Hồ Chí Minh.
Thứ nhất, diễn đạt chân thực
Những bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh bao giờ cũng đem lại cho người
nghe, người đọc lượng thông tin cao và chính xác. Những tư liệu, sự kiện mà
Người đề cập bắt nguồn từ thực tế cuộc sống đã được suy xét, kiểm tra, chọn lọc.
Bằng những sự kiện, tư liệu đó, Hồ Chí Minh khơng phải lý giải dài dòng nhưng
có sức thuyết phục cao đối với người nghe, người đọc.
Từ đặc điểm trong phong cách diễn đạt của mình, Hồ Chí Minh yêu cầu cán
bộ, đảng viên khi nói và viết, “điều gì biết thì nói biết, khơng biết thì nói khơng biết.
7


Khơng nên nói ẩu”, viết “phải đúng sự thật, khơng được bịa ra” , viết “phải đúng sự
thật, không được bịa ra”, “chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ chớ nói, chớ
viết”, “khi khơng có gì cần nói, khơng có gì cần viết, chớ nói, chớ viết càn”. Thiếu
chân thực, giả dối trong nói và viết sẽ làm giảm niềm tin của quần chúng với cách
mạng, làm cho lãnh đạo không thấy đúng tình hình để đề ra chủ trương giải pháp
thích hợp; tạo điều kiện cho địch lợi dụng chống phá ta.
Thứ hai, diễn đạt ngắn gọn
Nói chung các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh đều ngắn gọn, nhiều ý
tưởng lớn được khái quát như những châm ngơn. “Khơng có gì q hơn độc lập tự
do” là một ví dụ.Theo Hồ Chí Minh, ngắn gọn có nghĩa là gọn gàng, có đầu có
đi “có nội dung”, “thiết thực”, “thấm thía chắc chắn”.

Để có cách nói, cách viết ngắn gọn trước hết phải có tư duy mạch lạc, ngôn
từ phong phú, vốn sống dồi dào, đồng thời cũng phải rèn luyện công phu. Không
phải ngay khi sinh ra Hồ Chí Minh đã biết nói ngắn gọn mà phải thông qua quá
trình tự học, tự rèn, thông qua những cuộc tranh luận, những buổi diễn thuyết v.v...
Người mới có cách diễn đạt cơ đọng, hàm súc, ý nhiều lời ít, khơng có lời thừa,
chữ thừa.
Thứ ba, diễn đạt giản dị, trong sáng, dễ hiểu
Trong sáng trong văn phong và ý tưởng, giản dị trong trình bày thể hiện, dễ
hiểu đối với mọi đối tượng nghe, đọc là đặc điểm các bài nói, bài viết của Hồ Chí
Minh.
Muốn nói, viết được trong sáng, giản dị, dễ hiểu, theo Hồ Chí Minh trước
hết phải học cách nói của quần chúng, mới lọt tai quần chúng. Vì “cách nói của
dân chúng rất đầy đủ, rất hoạt bát, rất thiết thực, mà lại rất giản đơn”. Hiểu dân,
gần dân, học dân thường ngày và học trong ca dao, tục ngữ, trong dân gian, cổ tích
mà Hồ Chí Minh có thể phổ thơng hố những vấn đề phức tạp đơi khi còn xa lạ với
dân chúng, giản đơn hoá những vấn đề khó hiểu. Chính vì vậy mà tư tưởng của
Người đến với mọi người, bằng những ngôn từ quen thuộc dễ hiểu, dễ nhớ, nhiều
khi còn dễ thuộc vì có vần có nhạc trong văn.
8


Là một người đọc nhiều, hiểu rộng, biết nhiều ngoại ngữ nhưng khi nói, khi viết
bao giờ Hồ Chí Minh cũng sử dụng một loại ngôn ngữ tùy theo đối tượng người nghe,
người đọc. Đặc biệt nói và viết cho quần chúng nhân dân bao giờ Người cũng trở về
với ngơn ngữ dân tộc, dùng cách nói của nhân dân. Người phê phán gay gắt những
người ham dùng chữ, hay nói chữ, sính dùng chữ, tiếng nước ngồi.
4. Phong cách làm việc
Hồ Chí Minh đã từng làm nhiều việc để sống và hoạt động cách mạng, đảm
nhận những trọng trách, công việc khác nhau của cách mạng Việt Nam và cách
mạng thế giới. Điều mà Hồ Chí Minh quan tâm là lối làm việc của người cách

mạng, của chiến sĩ cộng sản suốt đời chiến đấu cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Do vậy, trong phong cách làm việc, Hồ Chí Minh lưu tâm trước hết đến
phong cách công tác và phong cách lãnh đạo của cán bộ, đảng viên. Về mặt này,
Người đã để lại cho chúng ta nhiều giáo huấn quan trọng với những nội dung
phong phú. Dưới đây là những nội dung chủ yếu nhất:
4.1. Phong cách làm việc quần chúng
Đây là nội dung quan trọng hàng đầu của phong cách làm việc Hồ Chí Minh,
được thể hiện bằng những hành động cụ thể:
- Sâu sát quần chúng, chú ý tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của quần chúng,
quan tâm đến mọi mặt đời sống của quần chúng.
- Tin vào dân, tôn trọng dân, chú ý lắng nghe ý kiến và giải quyết những
kiến nghị chính đáng của dân, sẵn sàng tiếp thu ý kiến dân phê bình và kịp thời sửa
chữa những khuyết điểm, thiếu sót.
- Giáo dục, lãnh đạo quần chúng, đồng thời không ngừng học hỏi quần
chúng, tôn trọng quyền làm chủ của quần chúng theo tinh thần cán bộ vừa là người
lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
- Tự mình phải mẫu mực để xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân.
Với phong cách như trên, Hồ Chí Minh đến với dân một cách tự nhiên, bình
dị, quần chúng đến với Người cũng bình dị, tự nhiên, không chút e ngại như họ vẫn
sống hàng ngày. Tác phong quần chúng đã làm cho Hồ Chí Minh và nhân dân,
9


lãnh tụ và quần chúng hoà nhập, đồng cảm sâu sắc. Dân có thể nói hết suy nghĩ,
trăn trở của mình với lãnh tụ, còn lãnh tụ có thể nghe được, hiểu được những gì mà
cuộc sống đang đòi hỏi, mong chờ.
Theo Hồ Chí Minh, khơng chỉ quan hệ giữa cán bộ với dân mà quan hệ cán
bộ với cán bộ, cấp trên với cấp dưới cũng cần thiết phải có tác phong quần chúng.
Đối với người lãnh đạo cấp trên, việc hiểu dân và hiểu cấp dưới đều quan trọng

như nhau. Hiểu được dân và hiểu được cấp dưới người lãnh đạo cấp trên càng hiểu
được chính mình.
4.2. Phong cách làm việc tập thể, dân chủ
Là người đứng đầu Đảng cầm quyền, đứng đầu Nhà nước dân chủ, ở đỉnh
cao của quyền lực nhưng Hồ Chí Minh thường xuyên có phong cách làm việc tập
thể và dân chủ. Gắn bó với tập thể, tơn trọng tập thể, phát huy sức mạnh của tập
thể là phương châm chỉ đạo suy nghĩ và hành động của Hồ Chí Minh.
Chuyên quyền, độc đốn là rất xa lạ đối với Hồ Chí Minh. Nhiều lần Người
đã phê bình cách lãnh đạo của một số cán bộ khơng dân chủ, do đó mà người có ý
kiến khơng dám nói, người muốn phê bình khơng dám phát biểu “khơng phải họ
khơng có gì nói, nhưng vì họ khơng dám nói, họ sợ” Hồ Chí Minh trân trọng ý kiến
của mọi người không phân biệt chức vụ, cấp bậc. Đẳng cấp, gia trưởng khơng bao
giờ có ở Hồ Chí Minh. Người đã chuyển nhiều bài viết của mình cho các đồng chí
lãnh đạo chủ chốt đọc và góp ý kiến trước khi cơng bố. Người trao đổi với các
đồng chí phục vụ những bài báo ngắn để sửa chữa những chỗ viết còn khó hiểu
trước khi đăng.
Hồ Chí Minh ln đòi hỏi cán bộ, đảng viên trước hết là những người lãnh
đạo phải có tác phong tập thể dân chủ thực sự. Bởi vì, mọi sự giả tạo đều làm suy
yếu, thậm chí phá vỡ tập thể, mọi thói hình thức chủ nghĩa sớm muộn sẽ làm xói
mòn, thậm chí triệt tiêu dân chủ.
4.3. Phong cách làm việc khoa học
Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải xây dựng cho mình “cách làm
việc khoa học” trong công tác, trong lãnh đạo. Bởi vì họ đều xuất thân từ một nước
với những tàn dư của một nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, làm việc theo lối
10


“thủ cơng nghiệp”, với hàng loạt thói quen thiếu khoa học như: tự do, tùy tiện, gặp
chăng hay chớ, thiếu kế hoạch, thiếu điều tra nghiên cứu, thiếu ngăn nắp trật tự,
luộm thuộm, lề mề, chậm chạp, không coi trọng thời gian, không cụ thể, không

thiết thực, bảo thủ, trì trệ, thiếu nhìn xa trông rộng...
Phong cách làm việc khoa học của Hồ Chí Minh thể hiện chủ yếu ở những
điểm sau:
- Phải “đi sâu, đi sát, điều tra, nghiên cứu” nắm việc, nắm người, nắm tình
hình cụ thể.
- Phải có mục đích rõ ràng, tập trung; chương trình kế hoạch đặt ra phải sát
hợp. Hồ Chí Minh giải thích: “Đích nghĩa là nhằm vào đó mà bắn. Nhiều đích q
thì loạn mắt, khơng bắn trúng đích nào”.
- Phải kiểm tra việc thực hiện của cấp dưới và quần chúng.
- Phải cụ thể, phải kịp thời, phải thiết thực, phải có trọng điểm, phải nắm
điển hình; cần phải lãnh đạo toàn diện và cụ thể. Phải thực hiện tác phong “óc
nghĩ, mắt trơng, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”, phải cẩn thận mà nhanh
nhẹn kịp thời, làm đến nơi đến chốn. Hồ Chí Minh phê phán cách“làm việc khơng
thiết thực, khơng từ chỗ gốc, chỗ chính, khơng từ dưới làm lên. Làm cho có
chuyện, làm lấy rồi. Làm được ít suýt ra nhiều, để làm một bản báo cáo cho oai,
nhưng xét kỹ lại thì rỗng tuếch”
- Phải thường xuyên chú ý rút kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn. “Sau mỗi
việc cần phải rút kinh nghiệm. Kinh nghiệm riêng từng cán bộ, từng địa phương.
Kinh nghiệm chung tất cả các cán bộ và các địa phương. Kinh nghiệm thất bại và
kinh nghiệm thành công. Rồi tổng kết và phổ biến những kinh nghiệm ấy cho khắp
tất cả cán bộ, tất cả địa phương. Mỗi cán bộ, mỗi địa phương sẽ học những kinh
nghiệm hay, tránh những kinh nghiệm dở, áp dụng những kinh nghiệm cũ vào
những công việc mới”.
Ở Hồ Chí Minh, phong cách làm việc quần chúng, tập thể dân chủ, khoa
học, gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo thành một phong cách làm việc rất hiện đại.
Phong cách đó đã cần thiết cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quá khứ mà càng
11


cần thiết cho họ trong điều kiện mở cửa, thực hiện cơ chế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa hiện nay.
5. Phong cách ứng xử
Ứng xử là cách quan hệ giao tiếp, đối xử giữa người với người, giữa cá nhân
với cộng đồng, ứng xử không chỉ được thể hiện qua lời nói, cử chỉ, nét mặt bề ngồi
mà chủ yếu là ở sự chân thành của tình cảm và của mối quan hệ giữa chủ thể vói đối
tượng. Vì vậy, ứng xử được coi là biểu hiện tổng hợp của văn hóa - đạo đức, qua cách
ứng xử có thể thẩm định được nhân cách của một con người.
Phong cách ứng xử Hồ Chí Minh có các đặc trưng cơ bản sau đây:
5.1. Khiêm tốn, nhã nhặn, lịch thiệp
Trong các cuộc tiếp xúc, Hồ Chí Minh thường khiêm tốn, không bao giờ đặt
mình cao hơn người khác, mà trái lại, luôn hòa nhã, quan tâm chu đáo đến những
người chung quanh.
Đến thăm một lớp học hay dự một buổi nói chuyện, bao giờ Người cũng chú
ý hỏi thăm các vị nhân sĩ, trí thức có danh vọng, các bậc cao tuổi, các đại biểu phụ
nữ, rồi trân trọng mời ngồi lên trên, thể hiện phong cách tao nhã, rất mực Á Đông.
Tiếp khách tại một khách sạn ở Pari năm 1946, Hồ Chí Minh bắt tay mọi người,
nói chuyện thân mật, rất tự nhiên, kèm theo những lời khen, những câu ca tụng
nước Pháp... Người Pháp rất có cảm tình với Người.
5.2. Chân tình, nồng hậu, tự nhiên
Khi gặp gỡ mọi người, với những cử chỉ thân mật, lời hỏi thăm chân tình,
hay một câu nói đùa, Hồ Chí Minh đã tạo ngay ra một bầu khơng khí thân mật,
thoải mái, thân thiết như trong một gia đình.
Hồ Chí Minh ln xuất hiện với thái độ tươi cười, tươi cười một cách tự
nhiên trong ánh mắt hoặc trên đôi môi. Sự vui vẻ cùng với năng khiếu hài hước
được thể hiện đa dạng, phong phú đã xóa đi cái cách bức, những nghi thức trịnh
trọng không cần thiết, tạo ra khơng khí chan hòa, gần gũi giữa lãnh tụ với quần
chúng, giữa những người bạn... Điều đó lý giải vì sao mỗi khi Chủ tịch Hồ Chí
Minh xuất hiện ở đâu là ở đó rộn lên niềm vui và tiếng cười hồ hởi không dứt.
12



Không chỉ đùa vui người khác, đôi lúc Người cũng nói đùa về bản thân.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, khi đến thăm lớp chỉnh huấn giữa lúc
mưa to, cả hội trường vang lên tiếng hô “Hồ Chủ tịch mn năm!”, Người ra hiệu
im lặng, rồi nói: Mn năm làm cái gì? Trăm năm đã là quá. Còn bây giờ, Bác chỉ
“muốn nằm” một tí thơi!
Một nét nhân cách nổi bật trong giao tiếp, ứng xử của Hồ Chí Minh là sự
khiêm tốn chân thành, sự thân thiện thực lòng với mọi người, không một chút gợn
nào cho sự sùng bái cá nhân.
Sự ân cần, nồng hậu, xóa bỏ mọi nghi thức, đi thẳng đến trái tim con người
bằng tình cảm chân thực, tự nhiên, đó chính là nét nổi bật trong phong cách ứng xử
của những nhà văn hóa lớn của mọi thời đại.
5.3. Linh hoạt, chủ động, biến hóa
Ứng xử văn hóa Hồ Chí Minh đạt tới sự kết hợp hài hòa giữa tình cảm nồng
hậu với lý trí sáng suốt, nên linh hoạt, uyển chuyển, sẵn sàng vì cái lớn mà châm
chước cái nhỏ.
Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm chính thức nước Pháp. Khi tới
thành phố Biarít, ra sân bay đón Người chỉ có một mình ơng tỉnh trưởng, sau đó họ
đưa Người về nghỉ tại một khách sạn khá sang, nhưng bên ngoài vẫn còn sơn phết
dang dở. Chị Phương Tiếp, một trí thức Việt kiều, được cử làm phiên dịch cho
Người, tỏ ý thắc mắc về sự đón tiếp khơng được trịnh trọng: “Tại sao họ chưa có
chính phủ mà Cụ đã sang?”. Người trả lời hóm hỉnh: “Thế nếu có chính phủ rồi, họ
đổi ý khơng mời mình sang nữa thì sao?”. Với tầm suy nghĩ vừa xa rộng, vừa uyển
chuyển, Người đã tranh thủ được một cơ hội đưa lá cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc ta
tới Pari, vào lúc nước ta chưa được một quốc gia nào cơng nhận.
6. Phong cách sinh hoạt
Đã có biết bao nhiêu lời ca ngợi phong cách sinh hoạt của Hồ Chí Minh. Đó
là sự giản dị, trong sạch, thanh cao, cách sống chừng mực, điều độ, ngăn nắp, yêu
lao động, quý trọng thời gian. Đó còn là tình yêu thương con người hồ quyện với
tình u thiên nhiên, tạo nên tinh thần lạc quan của người chiến sĩ kết hợp chặt chẽ

với những rung động, say mê của một tâm hồn nghệ sĩ.
13


Hồ Chí Minh có cuộc sống đời thường đa dạng và phong phú. Người đã
sống cuộc sống của người thợ, người thủy thủ, nhà văn, nhà báo, nhà giáo, học
viên, người lính trong chiến tranh, người chiến sĩ cách mạng hoạt động bí mật,
người tù, nhà chính khách, nhà ngoại giao và nhiều năm là nguyên thủ quốc gia.
Dù với cuộc đời nào và sống như thế nào, phong cách sinh hoạt của Hồ Chí Minh
vẫn giữ đúng nguyên tắc: lấy khiêm tốn giản dị làm nền, lấy chừng mực điều độ
làm chuẩn, lấy trong sạch, thanh cao làm vui, lấy gắn bó giữa con người, với thiên
nhiên làm niềm say mê vơ tận.
Phong cách sinh hoạt của Hồ Chí Minh đã làm cho Người trở thành người
toàn vẹn, với cuộc sống trọn vẹn từ khi bước vào đời đến lúc về nơi vĩnh hằng.
Khi nói về phong cách sinh hoạt của cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đưa ra lời cảnh báo rất sâu sắc: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người,
ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, khơng nhất định hôm nay và ngày mai
vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa
vào chủ nghĩa cá nhân”
7. HỌC TẬP, LÀM THEO PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH TRONG
TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY
Học tập, vận dụng phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh là một lĩnh vực
rộng lớn, phong phú, đa dạng. Do vậy, mỗi người, trước hết là những cán bộ, đảng
viên trên mọi lĩnh vực hoạt động, công tác của mình cần có ý thức và quyết tâm thực
hành phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh một cách thiết thực nhất.
7.1. Cần có sự thớng nhất giữa tư tưởng và hành động, quyết tâm đưa nghị
quyết của Đảng vào cuộc sống
Việc thực hiện sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động, giữa lý luận và
thực tiễn, lời nói và việc làm hàm chứa sự kết hợp hài hoà giữa nhiệt tình cách
mạng, đạo đức cách mạng với tư duy khoa học, vốn thực tiễn ở mỗi con người. Để

đạt dược các yêu cầu đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần có những điều kiện sau:
- Phải thực hiện đầy đủ yêu cầu học lý luận theo chỉ thị của Đảng đối với
từng cán bộ, đảng viên phù hợp cương vị của mình. Tuỳ mức độ rộng, hẹp khác
14


nhau, nhưng phải nắm vững những nguyên lý lý luận, khơng được coi lý luận là
những cơng thức có sẵn mà là kim chỉ nam hành động.
- Phải phân tích sâu sắc, tồn diện và tính tốn kỹ lưỡng các quá trình, hiện
tượng nảy sinh trong đời sống kinh tế - xã hội. Phát hiện những cái mới, những
mối quan hệ và quy định lẫn nhau của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
- Phải có tính nhất quán và kiên quyết bảo vệ những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, song phải đề phòng rơi vào chủ nghĩa
giáo điều, xét lại.
- Phải hết sức linh hoạt, năng động nhưng không sa vào chủ nghĩa cơ hội,
chủ nghĩa thực dụng, vô nguyên tắc.
- Phải mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước quyết định
và hành động của mình.
- Phải yêu cầu được thông tin và tự tìm hiểu, nắm chắc những thơng tin chân
thật, chính xác làm dữ liệu cho những quyết định và hành động của mình.
7.2. Đi sâu, đi sát thực tế, dựa vào quần chúng
Hồ Chí Minh và các nhà kinh điển mácxít đều khẳng định cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng. Sự nghiệp cách mạng của Đảng thành công hay thất bại
phụ thuộc vào nhiều yêu tố, trong đó việc cán bộ, đảng viên của Đảng có tập hợp
và lơi kéo được quần chúng tích cực tham gia phong trào cách mạng hay không là
một nhân tố hàng đầu.
Việc cán bộ, đảng viên liên hệ mật thiết vơi quần chúng không chỉ là vấn đề
đạo đức mà là vấn đề có tính ngun tắc trong xây dựng phương pháp và phong
cách lãnh đạo. Hồ Chí Minh khái quát tác phong sâu sát quần chúng của cán bộ,

đảng viên bằng 12 chữ: “óc nghĩ, mắt trơng, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”.
Hồ Chí Minh còn đòi hỏi cán bộ đi thực tế phải ba cùng với dân, “phải nằm
ở cơ sở chỉ đạo phong trào, đừng đi cơ sở theo kiểu chuồn chuồn đạp nước”. Nếu
khơng vì những bí mật quốc gia thì chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước
phải cho dân biết, để dân bàn, tổ chức dân làm và huy động nhân dân tham gia
15


kiểm tra. Làm được như vậy chất lượng cán bộ được tăng cường, uy tín của Đảng
được củng cố, vai trò quản lý xã hội của Nhà nước được nâng cao.
7.3. Thực hành dân chủ rộng rãi
Dân chủ và thực hành dân chủ rộng rãi là nét đặc sắc trong phương pháp và
phong cách Hồ Chí Minh. Học tập phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh về
dân chủ cần chú ý mấy vấn đề sau:
- Dân chủ trước hết là quyền làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh dân tộc.
Mọi mưu toan phá hoại, cản trở việc thực hiện mục tiêu trên đều là chống lại dân
chủ của nhân dân ta.
- Dân chủ gắn với đoàn kết. Dân chủ của ta là sự phản ánh thành công của
chiến lược đại đoàn kết. Thực hiện dân chủ thì đoàn kết càng tăng. Đoàn kết rộng
rãi, vững chắc thì càng có điều kiện phát huy dân chủ.
- Dân chủ đi đôi với tập trung. Dân chủ đi liền với kỷ luật, kỷ cương, tránh
dân chủ hình thức, dân chủ quá trớn. Thực hiện đúng Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng: “Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường
pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo
đức xã hội. Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý
nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ làm mất an ninh chính trị, trật tự, an tồn
xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân”.
8. LIÊN HỆ THỰC TẾ
Phong cách làm việc Hồ Chí Minh ảnh hưởng rất lớn, mang tính quyết định
đến năng lực, phong cách, uy tín của Đảng và của đội ngũ cán bộ, đảng viên trước

đây cũng như trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc
tế hiện nay. Tuy nhiên, qua thực tiễn vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, trong
đó có cả cán bộ chủ chốt còn chưa tích cực học tập, nghiên cứu, rèn luyện tính
đảng, tính khoa học, tính quần chúng và tính thực tiễn theo phong cách Hồ Chí
Minh. Còn có biểu hiện quan liêu, chuyên quyền, độc đoán, xa dân, thiếu sâu sát
cơ sở; tham nhũng, lãng phí; nói nhiều, nói hay, làm ít, làm dở, thậm chí nói một
đằng làm một nẻo, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ thấp, gây thiệt hại cho tổ chức, đất
16


nước ... Nếu không được sửa chữa kịp thời, những biểu hiện đó sẽ trượt dài đến “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”, gây hại cho Đảng, cho nước, cho dân và cho chính
mình. Có nhiều ngun nhân dẫn đến tình trạng trên, nhưng chủ yếu vẫn là do bản
thân cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện về bản lĩnh chính trị, phẩm chất
đạo đức, nghiệp vụ chun mơn, lề lối làm việc.
Để tiếp tục khăc phục những hạn chế đó, Đảng ta ban hành các chỉ thị, nghị
quyết về xây dựng Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây
dựng, chỉnh đốn Đảng và Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Mục đích
của việc làm này là nhằm khắc phục tình trạng: “Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó
có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan
liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở”12, xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên “vừa hồng, vừa chuyên”, tổ chức đảng vững mạnh cả về chính trị, tư
tưởng, tổ chức và đạo đức, ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới.
Đối với tổ chức: Cần tăng cường giáo dục, rèn luyện xây dựng phong cách
làm việc, phong cách lãnh đạo trong cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các
cấp, các ngành. Giữ vững nguyên tắc “tập trung dân chủ” trong làm việc và tuân
thủ nghiêm nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trong lãnh đạo, quản
lý. Tăng cường công tác quản lý cán bộ, đảng viên. Đồng thời, cụ thể hóa, xác định
rõ tiêu chí về phong cách làm việc của từng loại cán bộ theo hướng đủ, ngắn gọn,

dễ nhớ, dễ thực hiện, phù hợp với chức trách mỗi người; tiếp tục đổi mới, hoàn
thiện phương thức lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước và cấp ủy, chính quyền
các cấp. Xây dựng các quy định về đạo đức công vụ, phong cách làm việc, phong
cách lãnh đạo. Chú trọng phân định rõ chức năng, tăng cường phối hợp, giải quyết
đúng đắn các mối quan hệ giữa các tổ chức; kiên quyết khắc phục tình trạng khép
kín, cục bộ, bảo thủ; phân công, phân nhiệm không rõ ràng, chồng chéo, thủ tục
rườm rà, đùn đẩy trách nhiệm. Khi đánh giá phong cách làm việc cán bộ cần phải
khách quan, khoa học, thực tế, làm cơ sở để đề bạt, luân chuyển, bồi dưỡng, sử
dụng. Hằng năm, các cấp thống nhất đánh giá thực trạng, xây dựng kế hoạch giáo
dục, bồi dưỡng phong cách làm việc cho cán bộ phù hợp với đặc điểm, chức năng
17


của đơn vị và khả năng, chức trách của mỗi người. Tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra, giám sát; sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, phát hiện hạn chế, yếu kém,
lệch lạc về phương pháp làm việc của cán bộ để có biện pháp uốn nắn, khắc phục
kịp thời.
Đối với mỗi cán bộ, đảng viên: Cần phải thấy rằng, học tập phong cách Hồ
Chí Minh là một đòi hỏi khách quan, được làm thường xuyên, liên tục, suốt đời và
là nội dung quan trọng trong thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị. Trên cơ sở
chức trách, nhiệm vụ, căn cứ vào các tiêu chí đã xác định, mỗi người phải “tự soi”,
“tự sửa”, phấn đấu học tập, làm theo phong cách làm việc Hồ Chí Minh. Bản đăng
ký của mỗi cá nhân cần được tập thể, trước hết là cấp ủy, chi bộ góp ý, thơng qua,
nếu cần thiết, công khai trước đơn vị để quần chúng giám sát, giúp đỡ. Cán bộ phải
thực sự cầu thị, lắng nghe ý kiến đóng góp, dư luận của quần chúng để nhìn lại và
suy ngẫm về phong cách làm việc của mình, thấy điều gì hợp lý thì phát huy, điều
gì chưa phù hợp thì kiên quyết sửa. Hiện nay, đối tượng chịu sự lãnh đạo, quản lý
của cán bộ có sự phát triển mới, trình độ ngày càng cao, quan hệ ngày càng rộng;
xu thế công khai, dân chủ, minh bạch được mở rộng; các thành tựu về khoa học công nghệ, nhất là về công nghệ số, công nghệ thông tin, truyền thông được ứng
dụng rộng rãi vào các mặt đời sống xã hội và cá nhân. Điều đó, đòi hỏi cán bộ,

nhất là cán bộ chủ trì phải không ngừng nâng cao trình độ học vấn, chun mơn
nghiệp vụ, có phong cách làm việc khoa học, dân chủ, văn hóa. Người cán bộ phải
biết đấu tranh và chiến thắng chính mình. Đó là một trong những điểm mấu chốt
của phong cách làm việc Hồ Chí Minh.
Đới với bản thân là lãnh đạo cấp phịng:
Người lãnh đạo, quản lý cấp phòng cần có kiến thức, kỹ năng nhất định
trong quản lý và lãnh đạo như kỹ năng cập nhật và áp dụng pháp luật, kỹ năng lập
và tổ chức thực hiện kế hoạch, kỹ năng quản lý và phát triển nhân sự, kỹ năng
tham mưu…Do đó cần chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm; nói đi đơi với làm; gương mẫu rèn luyện theo phẩm chất đạo đức. Chú
trọng cải tiến, đổi mới lối làm việc có tính kế hoạch, sâu sát cơ sở, chỉ đạo, triển
khai và tổ chức thực hiện hiệu quả nhiệm vụ công tác của ngành nhất là phải có
18


tâm trong công tác và nêu gương theo phong cách của Bác đó là: tư duy độc lập, tự
chủ, sang tạo, luôn gắn chặt lý luận với thực tiển; làm việc dân chủ, khoa học, kỷ
lưỡng, cụ thể, tới nơi, tới chốn; ứng xử văn hóa, tinh tế, đầy tính nhân văn, thấm
đậm tinh thần yêu dân, trọng dân, vỉ dân; nói đi đơi với làm, đi vào lòng người, nói
và viết ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm; thanh cao, trong sạch, giản dị; dân chủ,
tự mình nêu gương. thực hiện được vai trò tham mưu là cầu nối giữa Đảng với
nhân dân theo đúng với tinh thần đề cao trách nhiệm gương mẫu, tự giác đi đầu của
lãnh đạo chủ chốt.
Tóm lại: Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ kính yêu của Đảng và dân tộc
Việt Nam. Người đã sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta trở thành một đảng
cầm quyền chân chính, cách mạng, đồng thời lãnh đạo dân tộc Việt Nam giành
thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới – xã hội chủ
nghĩa. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là tài sàn tinh thần vơ cùng to
lớn và q giá của Đảng và dân tộc ta. Người là anh hùng giải phóng dân tộc, nhà
văn hóa kiệt xuất của nhân loại. Người đã để lại cho Đảng ta, dân tộc ta một di sản

tư tưởng, đạo đức, phong cách vô cùng quý giá; là ngọn đuốc soi đường, chỉ lối
cho cách mạng Việt Nam vượt qua mn vàn khó khăn, thử thách trong quá trình
đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, tiến hành công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử, làm cho vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Học tập, rèn luyện, sửa đổi lề lối làm việc theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh là yêu cầu khách quan, nhiệm vụ chính trị, mệnh lệnh từ trái tim
của mỗi cán bộ, đảng viên. Thực hiện tốt điều đó, sẽ là điều kiện để hồn thiện
chính mình và góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng trong sự
nghiệp cách mạng mới.
Những phong cách trên của Bác vô cùng gần gũi, giản dị, chân thật, đã tựu
chung lại tất cả những gì cốt lõi nhất, mỗi người đều có thể lựa chọn học tập được
ở trong đó những gì phù hợp với mình. Tôi nhận thấy bản thân luôn phải có ý thức
học tập phong cách của Bác để từng bước hoàn thiện hơn nữa bản thân mình.
19


Tăng cường việc xây dựng ý thức tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ,
chăm lo đời sống Nhân dân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong
cán bộ, đảng viên, nhằm tạo động lực to lớn cho cơng cuộc đổi mới, góp phần đẩy
mạnh xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo
đức, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân,
củng cố hệ thống chính trị trong giai đoạn hiện nay.

20



×