Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Một số giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trong thời gian tới của tỉnh Thái Bình.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.47 KB, 82 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới với việc chuyển sang nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, kinh tế tư nhân ở nước ta nói chung và ở
tỉnh Thái Bình nói riêng được phát triển nhanh chóng. Đến nay khu vực kinh
tế tư nhân đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm, thu hút vốn,
tăng thu nhập cho dân cư, góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế. Trong nhiều
ngành, kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng lớn, đây là khu vực kinh tế có nhiều
tiềm năng, đa dạng, phức tạp và còn có nhiều khuyết tật, hạn chế. Do đó, việc
nghiên cứu đánh giá tiềm năng, ưu thế và hạn chế về tình hình và xu hướng
phát triển của kinh tế tư nhân ở Thái Bình là vấn đề cấp bách hiện nay.
Đến nay, việc quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế nhiều thành phần ở
nước ta nói chung, ở Thái Bình nói riêng trong đó có kinh tế tư nhân vẫn còn
nhiều bất cập. Trước yêu cầu mới về phát huy nội lực của lĩnh vực kinh tế, từ
bài học ở các nước trong khu vực cho thấy việc đổi mới quản lý Nhà nước đối
với kinh tế tư nhân nhằm giải phóng năng lực sản xuất, phát huy ưu thế của
kinh tế tư nhân và khơi dậy mọi tiềm năng trong dân để phát triển kinh tế là
vấn đề cấp bách và lâu dài ở tỉnh Thái Bình.
Trong điều kiện kinh tế mở cửa, giao lưu quốc tế ngày càng tăng, xu
hướng hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng phát triển, việc đổi mới quản lý
Nhà nước đối với kinh tế tư nhân cho phù hợp với tình hình ở Thái Bình,
trong nước và quốc tế là một yêu cầu quan trọng và cấp thiết, vừa nhằm tuân
thủ các hệ thống luật pháp trong nước, vừa nhằm phát huy lợi thế so sánh ở
Thái Bình, tăng khả năng cạnh tranh của khu vực kinh tế tư nhân trong nước.
Sinh viên: Bùi Thị Xuân Lớp: KTPT47B
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Việc nghiên cứu đánh giá thực trạng kinh tế tư nhân và đề ra những giải
pháp nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân ở Thái Bình, đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở Thái Bình.


2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu đề tài “ một số giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân
tỉnh Thái Bình” với 3 mục đích :
- Làm rõ một số vấn đề về lý luận và quan điểm của Đảng về kinh tế tư
nhân; bản chất, đặc điểm, vai trò của kinh tế tư nhân ở nước ta.
- Thực trạng kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Thái Bình
- Đề xuất những giải pháp tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách khuyến
khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Thái Bình
3. Đối tượng và nội dung nghiên cứu của đề tài
Đề tài chủ yếu nghiên cứu kinh tế tư nhân ở tỉnh Thái Bình được thành
lập sau khi có Luật doanh nghiệp, Luật công ty, Doanh nghiệp Nhà nước
chuyển sở hữu thành công ty cổ phần.
Đề tài chia thành 3 nội dung chính :
- Những vấn đề lý luận chung về kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
- Thực trạng hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân ở tỉnh Thái Bình
- Một số giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trong thời gian tới của tỉnh
Thái Bình
4. Các kết quả dự kiến đạt được
Qua việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng của khu vực kinh tế tư nhân
tỉnh Thái Bình làm rõ những điểm mạnh và hạn chế của khu vực kinh tế này
để có những định hướng và giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy kinh tế tư nhân
phát triển, thúc đẩy kinh tế tỉnh phát triển, đẩy mạnh quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Sinh viên: Bùi Thị Xuân Lớp: KTPT47B
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Chương 1 :
Những vấn đề lý luận chung về kinh tế tư nhân ở nước ta
I - Bản chất, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
1. Quá trình phát triển, đổi mới tư duy về vị trí, vai trò của kinh tế tư
nhân trong phát triển kinh tế ở nước ta
Với những thành tựu thu được sau hơn 20 năm đổi mới đã chứng minh
tính đúng đắn của Đảng trong việc không ngừng đổi mới nhận thức, quan
điểm, chính sách về vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trước đây, trên phương diện lý luận, chúng ta thừa nhận nền kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội có nhiều thành phần, nhưng trên
thực tế cũng như trong hành động không thực sự thừa nhận nền kinh tế nhiều
thành phần. Nền kinh tế được chia thành : kinh tế xã hội chủ nghĩa (gồm kinh
tế quốc doanh và kinh tế tập thể) và kinh tế phi xã hội chủ nghĩa (gồm kinh tế
tư bản tư nhân, kinh tế cá thể, tiểu chủ…). Với chủ trương sớm xây dựng và
phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa chiếm tỷ trọng lớn trong lĩnh vực sản xuất
và lưu thông bằng làn sóng quốc doanh hoá, tập thể hoá thông qua các biện
pháp hành chính là chủ yếu. Các thành phần kinh tế phi XHCN thì bị ngăn
cấm không cho phát triển, bị thu hẹp dần, cải tạo và dần bị xoá bỏ… Trong
khi kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, bên cạnh những thành tích đóng
góp vào công cuộc bảo vệ xây dựng miền Bắc XHCN và giải phóng miền
Nam thống nhất đất nước thì các khu vực này ngày càng bộc lộ những yếu
kém, làm cho tình trạng trì trệ, kém phát triển và khủng hoảng kinh tế - xã hội
tăng lên và dẫn đến công cuộc đổi mới từ năm 1986.
Sinh viên: Bùi Thị Xuân Lớp: KTPT47B
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Sự nghiệp đổi mới, trong đó có đổi mới kinh tế do Đảng ta khởi xướng
và lãnh đạo đã thừa nhận trên cả lý luận và thực tiễn của nền kinh tế nhiều
thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH, trong đó có kinh tế tư nhân.
Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986), sau khi
phê phán “những biểu hiện nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh

tế phi XHCN, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh”,
mắc bệnh “chủ quan, duy ý chí, giản đơn hoá”, “chưa thật sự thừa nhận những
quy luật của sản xuất hàng hoá đang tồn tại khách quan”. Đại hội khẳng định
đường lối đổi mới, chỉ rõ “nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc
trưng của thời kỳ quá độ”, chỉ rõ 6 thành phần kinh tế : kinh tế quốc doanh,
kinh tế tập thể, kinh tế gia đình, kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá, kinh tế tư bản
tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước.
Tuy nhiên, khái niệm kinh tế tư nhân được chính thức sử dụng từ Hội
nghị lần thứ 6 của Trung ương khóa VI (tháng 3 – 1989). Nghị quyết chỉ rõ :
trong điều kiện của nước ta, các hình thức kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư
bản tư nhân) vẫn cần thiết lâu dài cho nền kinh tế và nằm trong cơ cấu của
nền kinh tế hàng hoá đi lên XHCN.
Về mặt quy định pháp lý, việc ban hành Luật công ty và Luật doanh
nghiệp tư nhân (năm 1990) đã đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc hình thành
và phát triển các doanh nghiệp tư nhân với các loại hình công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân.
Đại hội lần thứ IX của Đảng (4 – 2001) quyết định : “khuyến khích
phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất,
kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về
chính sách, pháp lý để kinh tế tư nhân phát triển trên những định hướng ưu
tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; khuyến khích chuyển thành
doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên doanh liên kết
Sinh viên: Bùi Thị Xuân Lớp: KTPT47B
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa
chủ doanh nghiệp và người lao động”.
Trong nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Trung ương khoá IX (3 –
2002) đã chỉ rõ : “kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong

phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN”.
2. Khái niệm và bản chất của kinh tế tư nhân
2.1. Khái niệm kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân trước hết là một đơn vị kinh tế ngoài Nhà nước, quyền
sở hữu các doanh nghiệp này thuộc cá nhân, tổ chức (những người tham gia
góp vốn), đăng ký kinh doanh và hoạt động theo quy định của pháp luật.
Trong khuôn khổ pháp luật, chủ doanh nghiệp của tư nhân có quyền tự do
kinh doanh và chủ động trong mọi hoạt động kinh doanh (trừ một số ngành
nghề mà pháp luật cấm sản xuất kinh doanh) và tự chịu trách nhiệm trước
pháp luật về hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Quyền sở hữu về tư
liệu sản xuất, quyền thừa kế về vốn, tài sản và các quyền và lợi ích hợp pháp
khác của chủ doanh nghiệp tư nhân, các thành viên công ty được Nhà nước
bảo hộ theo pháp luật.
Ở nước ta hiện nay đang có nhiều cách lý giải khác nhau về kinh tế tư
nhân : Có người cho kinh tế tư nhân đồng nghĩa với kinh tế tư bản tư nhân, có
người lại đồng nhất kinh tế tư nhân với kinh tế ngoài quốc doanh. Quan điểm
hiện nay của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu ở Hội nghị Trung ương 5 khoá IX
(3 – 2002) : “kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và khuyến khích tư
bản tư nhân hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình
doanh nghiệp tư nhân…” Như vậy, do chưa có sự thống nhất chung nên đến
nay vẫn có thể hiểu khái niệm kinh tế tư nhân qua các cấp độ khác nhau :
Sinh viên: Bùi Thị Xuân Lớp: KTPT47B
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Theo cấp độ khái quát nhất : kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế nằm
ngoài quốc doanh (ngoài khu vực kinh tế nhà nước), bao gồm các doanh
nghiệp trong và ngoài nước, trong đó tư nhân nắm trên 50% vốn đầu tư.
- Theo cấp độ hẹp hơn : kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và
kinh tế tư bản tư nhân.
Do có những quan niệm khác nhau về kinh tế tư nhân nên số liệu thống

kê về loại hình kinh tế này cũng rất khác nhau, khó theo một hệ thống nhất
quán theo các năm. Nhưng có thể khái quát chung về khái niệm kinh tế tư
nhân như sau :
Kinh tế tư nhân là loại hình kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất và tương ứng với phương thức quản lý, phân phối phù hợp với hình
thức sở hữu đó.
2.2. Bản chất của kinh tế tư nhân
Bản chất của các thành phần kinh tế do quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất
quyết định. Kinh tế tư nhân dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất, lợi ích cá nhân là động lực để các cá nhân hoạt động kinh tế, sản xuất và
kinh doanh. Trong hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, mục đích của
sản xuất hàng hoá không phải là sản xuất ra giá trị sử dụng mà thông qua giá
trị sử dụng để thực hiện giá trị của hàng hoá và từ đó đạt được lợi nhuận. Để
làm được điều này, trước hết phải xác định rõ quan hệ hàng hoá, sau đó mới
xác định quan hệ lợi ích được thực hiện trong hàng hóa. Do quan hệ hàng hoá
được sản xuất ra từ các tư liệu sản xuất, nên muốn xác định quan hệ hàng hoá
thì phải xác định được các quan hệ sản để sản xuất ra hàng hoá đó. Quan hệ
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất cơ bản đã đáp ứng điều này vì đặc trưng
của quan hệ này là thừa nhận lợi ích cá nhân.
Trong xã hội có giai cấp, ý thức về quyền sở hữu là thuộc tính của mỗi
con người, con người chỉ cảm thấy thực sự có động cơ khi họ hoạt động “cho
Sinh viên: Bùi Thị Xuân Lớp: KTPT47B
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
mình”, tức là vì lợi ích, trước hết là lợi ích cho chính bản than, sau đó mới vì
các mục đích khác. Do đó, quyền sở hữu được coi là một quyền tự nhiên của
con người trong xã hội có giai cấp. Kinh tế tư nhân ra đời từ rất sớm, từ khi
xuất hiện chế độ chiếm hữu nô lệ, và vẫn tồn tại và phát triển đến ngày nay
bởi đặc trưng về sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Chủ doanh nghiệp của kinh tế tư nhân, chủ hộ kinh doanh cá thể là

những người trực tiếp sở hữu vốn, tài sản, các quan hệ liên quan tới tài sản
như thế chấp, thuê mướn và các tranh chấp được giải quyết rõ ràng, sòng
phẳng. Doanh nghiệp của tư nhân gắn với sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
nên có thể truyền lại, thừa kế cho các thế hệ con cháu, kể cả kinh nghiệm,
kiến thức kinh doanh và tạo ra động lực thúc đẩy phát triển hoạt động kinh
doanh. Kinh tế tư nhân sở hữu vốn gắn với quản lý nên quan hệ giữa quyền
hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi gắn chặt với nhau, tạo ra tính chủ động,
năng động trước thị trường, bộ máy quản lý gọn nhẹ, đơn giản.
Mục đích hoạt động của kinh tế tư nhân là thu lợi nhuận tối đa; vốn, tài
sản kinh doanh là của mình nên các chủ doanh nghiệp vừa phải thận trọng
nhưng đồng thời cũng phải chớp thời cơ kinh doanh, không để mất cơ hội để
có thể kinh doanh thu lợi nhuận.
3. Các loại hình kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân được hình thành trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất. Sở hữu tư nhân được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, đan
xen nhau từ đó hình thành nhiều loại hình tổ chức kinh tế tư nhân khác nhau.
Kinh tế tư nhân bao gồm : các hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ và doanh
nghiệp tư nhân. Luật doanh nghiệp đã được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN
Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 đã quy định việc
thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp:
Sinh viên: Bùi Thị Xuân Lớp: KTPT47B
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Công ty trách nhiệm hữu hạn : công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
- Công ty cổ phần
- Công ty hợp danh
- Doanh nghiệp tư nhân
- Nhóm công ty
3.1. Các hộ sản xuất kinh doanh cá thể tiểu chủ

Địa bàn, ngành nghề hoạt động của loại hình này chủ yếu chuyên sản
xuất nông, lâm, ngư nghiệp có tính chất tự sản, tự tiêu, buôn bán nhỏ. Chủ
yếu là sử dụng lao động của gia đình, quy mô nhỏ, vốn ít. Nhưng hiện nay có
một số lượng lớn hộ sản xuất kinh doanh đang hoạt động nên có một vị trí
quan trọng trong khu vực kinh tế tư nhân.
Đối với một số hộ sản xuất kinh doanh ở quy mô lớn hơn như trang
trại, nuôi trồng thuỷ sản, … có thể thuê mướn thêm lao động.
3.2. Công ty trách nhiệm hữu hạn
3.2.1. Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là doanh nghiệp
trong đó :
- Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt
quá năm mươi
- Thành viên không chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh
nghiệp
- Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định tại
điều 43, 44 và 45 của Luật doanh nghiệp
Công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát hành cổ phần.
Sinh viên: Bùi Thị Xuân Lớp: KTPT47B
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
3.2.2. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ
chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu (chủ sở hữu công ty); chủ sở hữu công
ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty
trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không được phát hành cổ
phần.
3.3. Công ty cổ phần

Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó vốn điều lệ được chia thành
nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số
lượng cổ đông tối thiểu là 3 và không hạn chế sổ lượng tối đa. Cổ đông chỉ
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp
trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp và có quyền tự do chuyển
nhượng cổ phần của mình cho người khác.
Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán để huy động vốn.
3.4. Công ty hợp danh
Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó phải có ít nhất hai thành
viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên
chung (gọi là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên hợp danh có thể có
thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp
vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn
đã góp vào công ty.
Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
3.5. Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
Sinh viên: Bùi Thị Xuân Lớp: KTPT47B
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nghiệp.
Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán
nào.
Mỗi cá nhân chỉ được phép thành lập một doanh nghiệp tư nhân.
3.6. Nhóm công ty
Nhóm công ty là tập hợp các công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với
nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác.
Nhóm công ty bao gồm các hình thức sau :

- Công ty mẹ - công ty con
- Tập đoàn kinh tế
- Các hình thức khác
4. Tính tất yếu khách quan tồn tại và phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta
Phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN là một xu hướng tất yếu, một chủ trương đúng đắn và nhất quán của
Đảng. Bởi vì :
- Trong xã hội có giai cấp, sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân luôn mang
trong nó một động lực mạnh mẽ - động lực cá nhân, một thuộc tính tồn tại lâu
dài với đời sống con người và xã hội loài người. Việc theo đuổi lợi ích thiết
thân của bản thân con người trong thời đại hiện nay vẫn chưa thể mất đi, do
đó, nó đòi hỏi phải hình thành một cơ chế vừa có thể kích thích con người,
vừa có thể thực hiện mục tiêu xã hội. Đó chính là cơ chế thị trường cùng với
sự tồn tại khách quan của các hình thức sở hữu đa dạng, trong đó sở hữu tư
nhân và tương ứng với nó là thành phần kinh tế tư nhân được coi là động lực
quan trọng của sự phát triển.
Nếu so sánh đối chiếu với các hình thức sở hữu khác, thì các nhà kinh
tế học đã thừa nhận rằng, trong nền kinh tế thị trường, sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất là hình thức sở hữu phù hợp hơn cả.. Quan hệ sở hữu tư nhân về
Sinh viên: Bùi Thị Xuân Lớp: KTPT47B
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tư liệu sản xuất đã xác định được quan hệ hàng hoá, xác định được quan hệ
lợi ích được thực hiện trong hàng hoá bởi một đặc trưng chủ yếu của nền kinh
tế thị trường là thừa nhận lợi ích cá nhân. Thực tế cho thấy, nếu không có sự
giao dịch, chuyển nhượng tài sản giữa các doanh nghiệp, giữa các cá nhân sản
xuất hàng hoá, thì cũng không có cạnh tranh về giá cả và thị trường theo đúng
nghĩa của nó, do vậy, cũng không có nền kinh tế thị trường thực sự.
- Sự xuất hiện và phát triển kinh tế tư nhân là một tất yếu khách quan
trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Kinh tế tư nhân dựa trên chế

độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, sở hữu tư nhân tồn tại cùng với sự phát
triển của lịch sử loài người. Sự phân công lao động đã làm xuất hiện chế độ tư
hữu, chế độ tư hữu đã tạo nên động lực cho con người trong việc tham gia
trực tiếp vào các hoạt động kinh tế - xã hội, gắn bó họ với các hoạt động ấy và
sự quan tâm thường xuyên của họ tới việc tạo ra của cải vật chất và bảo vệ
thành quả lao động. Ý thức về quyền sở hữu là thuộc tính của mỗi con người,
con người chỉ cảm thấy có động cơ khi họ hoạt động vì lợi ích mà trước hết là
lợi ích kinh tế của bản thân. Nó đang tiếp tục phát huy tác dụng trong thời đại
ngày nay và sẽ còn tồn tại lâu dài trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Trong xã hội có giai cấp và trong nền kinh tế thị trường hiện nay, sự
phát triển của lực lượng sản xuất không thể tách rời sự phát triển hài hoà giữa
hai khu vực kinh tế cơ bản bản : kinh tế Nhà nước và kinh tế tư nhân. Kinh tế
Nhà nước và kinh tế tư nhân luôn gắn bó chặt chẽ, mật thiết với nhau, tạo
điều kiện để cùng tồn tại và phát triển. Kinh tế Nhà nước nắm giữ một số lĩnh
vực, ngành nghề quan trọng nhất của nền kinh tế, phần còn lại kinh tế tư nhân
có nhiệm vụ phát triển tương xứng với tầm vóc và vị trí của mình. Kinh tế
Nhà nước đảm bảo sự phát triển ổn định nền kinh tế, thực hiện công bằng xã
hội ở những lĩnh vực mà kinh tế tư nhân không tham gia hoặc không muốn
tham gia, giữ vững ổn định chính trị xã hội. Kinh tế tư nhân và kinh tế Nhà
Sinh viên: Bùi Thị Xuân Lớp: KTPT47B
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nước có vai trò, vị trí và chức năng đặc thù trong một cơ cấu phát triển chung,
vì thế chúng không thể thay thế nhau, không lấn át nhau. Vì vậy, nền kinh tế
chỉ có thể đạt được các mục tiêu tăng trưởng cao, lâu dài và ổn định khi hai
khu vực kinh tế đó hỗ trợ, bổ sung cho nhau để thực hiện chức năng riêng của
mình trong một hệ thống phát triển chung. Ở nước ta hiện nay, trong mối
quan hệ giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế tư nhân, kinh tế Nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, quyết định bản chất và định hướng cho sự phát triển của toàn bộ
nền kinh tế, còn kinh tế tư nhân là “chỗ dựa thiết yếu”, “có vai trò quan trọng,

là một trong những động lực của nền kinh tế”.
Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định sự tồn tại của kinh
tế tư nhân là một tất yếu khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
và việc cải tạo thành phần kinh tế này là một trong những nhiệm vụ kinh tế tư
bản, lâu dài của cả thời kỳ quá độ. Thực tiễn cho thấy, việc phát triển kinh tế
tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một chủ
trương đúng đắn và nhất quán của Đảng ta dựa trên cơ sở khoa học, phù hợp
với quy luật kinh tế khách quan, là sự vận dụng một cách tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của đất nước. Phát triển
kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay là một tất yếu khách quan vì những lý do :
Thứ nhất : Khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được
chính quyền và bước vào xây dựng xã hội mới thì đòi hỏi cấp bách và khách
quan là từng bước xây dựng cơ sở kinh tế - xã hội của chế độ mới. Bên cạnh
kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể được hình thành trên cơ sở chế độ sở hữu
xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thì còn tồn tại một lực lượng rất lớn kinh
tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.
Thứ hai : Việt Nam bước vào thời kỳ quá độ từ một nước thuộc địa nửa
phong kiến, sản xuất nông nghiệp lạc hậu. Sự chênh lệch giữa các vùng, các
ngành và trong nội bộ từng vùng về tính chất, trình độ phát triển của lực
Sinh viên: Bùi Thị Xuân Lớp: KTPT47B
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
lượng sản xuất không phải là nhỏ. Sự tồn tại kinh tế cá thể của nông dân, thợ
thủ công, của những người làm dịch vụ, buôn bán nhỏ và một bộ phận nhỏ
kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp của một bộ phận dân cư ở vùng núi cao. Như
vậy, phát triển kinh tế tư nhân là điều kiện cần và đủ để thúc đẩy kinh tế các
tỉnh, vùng và kinh tế cả nước phát triển.
Thứ ba : Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tiềm lực và khả
năng của các thành phần kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể chưa đủ mạnh để
có thể đảm đương được việc đáp ứng nhu cầu xã hội. Kinh tế tư nhân đã và

đang tiếp tục chứng tỏ vai trò động lực của nó đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước.
Thứ tư : Sự phát triển của kinh tế tư nhân trong hơn 20 năm đổi mới
vừa qua đã đóng góp không nhỏ vào việc giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội
của đất nước. Kinh tế tư nhân đã góp phần giải quyết một lượng rất lớn công
ăn việc làm, huy động, khai thác các nguồn lực của đất nước, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, phát triển đất nước, đảm bảo ổn định và cải thiện đời sống của
đại bộ phận dân cư và ổn định chính trị - xã hội của đẩt nước.
Như vậy, nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tồn tại
nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế tư nhân tồn tại và phát triển là một
tất yếu khách quan.
5. Vai trò của kinh tế tư nhân ở nước ta
Kinh tế tư nhân ngày càng chứng tỏ vai trò của nó, trở thành một đối
chứng hiện thực năng động để các khu vực kinh tế khác phấn đấu vươn lên,
tự đổi mới, tự hoàn thiện và nâng cao hiệu quả trong nền kinh tế thị trường.
Kinh tế tư nhân được coi là một trong những bộ phận cấu thành quan trọng
của nền kinh tế quốc dân, được đối xử và hoạt động bình đẳng như các khu
vực kinh tế khác.
Sinh viên: Bùi Thị Xuân Lớp: KTPT47B
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, kinh tế tư nhân có điều kiện phát
triển với nhiều hình thức và quy mô khác nhau với hàng chục ngàn doanh
nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,… ra đời và
hoạt động trong các tất cả các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, thương
mại, dịch vụ,… Đặc biệt là từ khi Quốc hội ban hành luật doanh nghiệp tư
nhân và luật công ty (1990), kinh tế tư nhân có bước phát triển rất nhanh
chóng. Sự xuất hiện ngày càng nhiều chủ thể sản xuất, kinh doanh thuộc khu
vực kinh tế tư nhân trong tất cả các lĩnh vực, các ngành sản xuất, kinh doanh
đã đẩy lùi tình trạng độc quyền, làm cho sản xuất hàng hoá phát triển, thị

trường được mở rộng, các quy luật kinh tế thị trường phát huy được tác dụng,
đẩy lùi cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp vốn đã ăn sâu trong tiềm
thức xã hội. Thông qua việc phát triển kinh tế tư nhân mà quyền làm chủ của
nhân dân, trước hết là quyền làm chủ về kinh tế được phát huy. Kinh tế tư
nhân là “chỗ dựa thiết yếu”, “có vai trò quan trọng, là một trong những động
lực của nền kinh tế”. Sở dĩ kinh tế tư nhân có vai trò như vậy là vì những lý
do sau đây :
Thứ nhất, kinh tế tư nhân là một bộ phận hợp thành quan trọng của nền
kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế tư nhân
đã tạo ra một khối lượng của cải vật chất to lớn, đóng góp đáng kể vào giá trị
thu nhập của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong những năm qua, khu vực
kinh tế tư nhân đóng góp với tỷ trọng khá lớn vào sự ổn định trong GDP.
Năm 2000, kinh tế tư nhân đạt gần 187.720 tỷ đồng, chiếm hơn 42% GDP
toàn quốc (khu vực doanh nghiệp Nhà nước chiếm gần 39%). Nếu xem xét cụ
thể, hộ kinh doanh đóng góp trên 154.560 tỷ đồng, chiếm gần 82,35%; doanh
nghiệp đóng góp trên 33.150 tỷ đồng, chiếm trên 17,60% GDP của kinh tế tư
nhân.
Sinh viên: Bùi Thị Xuân Lớp: KTPT47B
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Thứ hai, kinh tế tư nhân tạo ra động lực mạnh mẽ, đóng góp ngày càng
lớn vào ngân sách Nhà nước, tham gia tích cực và hiệu quả trong việc thực
hiện các mục tiêu xã hội.
Đóng góp của kinh tế tư nhân vào ngân sách Nhà nước ngày càng nhiều
hơn, từ 6% năm 2000 lên trên 7,5% năm 2005. Ngoài ra, kinh tế tư nhân đã
góp phần tăng nguồn thu ngân sách như thuế môn bài, thuế VAT trong nhập
khẩu và các loại phí khác. Kinh tế tư nhân phát triển là nhân tố quan trọng
làm kích thích và làm sống động đời sống kinh tế đất nước, tạo áp lực cạnh
tranh, thúc đẩy các doanh nghiệp Nhà nước đổi mới hoạt động kinh doanh.
Thứ ba, ở Việt Nam, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế

tư nhân đã và đang từng bước khẳng định vị trí “chỗ dựa thiết yếu” của nó
theo đúng quy luật của nền kinh tế thị trường. Nó đã thực sự trở thành một bộ
phận của kinh tế dân doanh. Kinh tế tưu nhân đang có cơ hội phát triển mạnh
mẽ cả về bề rộng lẫn chiều sâu, cả về quy mô số lượng lẫn chất lượng. .
Khu vực kinh tế tư nhân chính là nơi thu hút, tạo việc làm cho xã hội :
tạo ra khoảng 2 triệu chỗ làm mới. Sự phát triển của kinh tế tư nhân không chỉ
tạo ra việc làm mà còn góp phần thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu lao
động vốn đang mất cân đối và góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và
xoá đói giảm nghèo.
Thứ tư, kinh tế tư nhân góp phần quan trọng tạo môi trường kinh doanh
bình đẳng, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình hội nhập
kinh tế của Việt Nam sẽ không thực hiện được nếu không có sự tham gia của
kinh tế tư nhân. Bên cạnh đó, kinh tế tư nhân phát triển sẽ thúc đẩy sự phát
triển của các thị trường : thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường lao động,
thị trường vốn, thị trường công nghệ, thị trường bất động sản.
Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế
đất nước, thúc đẩy quá trình quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì vậy,
Sinh viên: Bùi Thị Xuân Lớp: KTPT47B
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
trong nghị quyết đại hội lần thứ IX, Đảng ta khẳng định : tiếp tục thực hiện
nhất quán chủ trương phát triển mạnh các thành phần kinh tế, xoá bỏ mọi sự
phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh
bình đẳng, minh bạch, thông thoáng và thuận lợi hơn, ổn định chính sách, bảo
đảm quyền của mọi người dân được tự do kinh doanh trong những ngành
nghề mà pháp luật không cấm.
Sự phát triển của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là sản phẩm gắn liền với chủ trương đúng đắn của
Đảng về phát triển kinh tế nhiều thành phần. Những thành tựu kinh tế quan
trọng đạt được qua 20 năm đổi mới đất nước là bằng chứng sinh động, xác

nhận một cách thuyết phục sự khởi sắc của nền kinh tế nói chung và triển
vọng tiềm tàng của kinh tế tư nhân nói riêng. Bởi vậy, có thể nói, đối với
nước ta trong giai đoạn hiện nay, phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề có ý
nghĩa chiến lược, lâu dài trong tiến trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây có thể coi là một trong những
nhiệm vự quan trọng của công cuộc đổi mới của đất nước trong những năm
sắp tới.
II – Các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển kinh tế tư nhân của tỉnh Thái
Bình
1. Các chính sách và biện pháp hỗ trợ của Nhà nước
1.1.Nhà nước xây dựng khung pháp luật, ban hành các chính sách khuyến
khích sự phát triển của kinh tế tư nhân
Việc Nhà nước ban hành Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân năm
1990 là cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc hình thành và phát triển khu vực kinh
tế tư nhân; năm 1999, Quốc hội thông qua Luật doanh nghiệp, luật này quy
định việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các loại hình doanh
nghiệp, luật này được sửa đổi, bổ sung vào năm 2005 Quốc hội khoá X, kỳ
Sinh viên: Bùi Thị Xuân Lớp: KTPT47B
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
họp thứ 10. Luật doanh nghiệp (1999) đánh một dấu mốc quan trọng trong
những nỗ lực của Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho khối kinh tế tư nhân phát
triển. Luật đã chế hoá và hiện thực hoá quyền tự do kinh doanh bao gồm
quyền tự do lựa chọn loại hình doanh nghiệp, tự do thành lập doanh nghiệp,
tự do tổ chức quản lý, tự do lựa chọn quy mô, địa bàn, ngành nghề, trừ một số
ngành nghề bị cấm theo quy định của pháp luật. Luật doanh nghiệp (2005)
tiếp tục củng cố thành quả và hoàn thiện thêm một bước luật doanh nghiệp
(1999) bằng việc xoá bỏ một cách cơ bản các phân biệt và khác biệt trong
quản lý giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, tạo
một mặt bằng pháp lý cho các doanh nghiệp và bổ sung các quy định bảo vệ

các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nhỏ, và các quy định về quản lý của
Nhà nước đối với doanh nghiệp.
Ngoài việc ban hành các bộ luật, Nhà nước còn có các chính sách hỗ
trợ phát triển kinh tế tư nhân.
- Cải cách thủ tục hành chính tạo điều kiện cho các doanh nghiệp gia
nhập thị trường.
Nghị quyết 38/CP của Chính phủ ngày 4/5/1994 về việc cải cách một
bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết công việc của công dân và đã
xác định “thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh” là một lĩnh vực ưu
tiên cải cách. Đến năm 1998, một số cải cách đơn giản hoá thủ tục thành lập
và đăng ký kinh doanh đã được thực hiện. Luật doanh nghiệp (1999) đã có
thay đổi mang tính đột phá là xoá bỏ thủ tục xin phép thành lập doanh nghiệp
kéo theo sự xoá bỏ hơn 150 giấy phép kinh doanh và đơn giản hoá tối đa thủ
tục đăng ký kinh doanh.
- Chính sách thuế
Hệ thống chính sách thuế từng bước được áp dụng thống nhất và bình
đẳng với tất cả các thành phần kinh tế trong đó có kinh tế tư nhân, tạo ra cơ sở
Sinh viên: Bùi Thị Xuân Lớp: KTPT47B
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hạ tầng pháp lý của môi trường kinh doanh, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh,
đảm bảo bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các thành phần kinh tế và phù hợp
với cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
Trong số các luật thuế được ban hành từ năm 1986 đến nay thì Luật
thuế giá trị gia tăng và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp được coi là có ảnh
hưởng lớn đối với doanh nghiệp, công ty tư nhân. Ngoài ra còn kể đến các
chính sách ưu đãi thuế trong Luật khuyến khích đầu tư tư nhân (1994) và Luật
khuyến khích đầu tư tư nhân sửa đổi năm 1998. Đó là các chính sách về :
miễn, giảm thuế sử dụng đất; miễn thuế nhập khẩu; ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp đối với các dự án thuộc diện khuyến khích đầu tư.

- Chính sách tín dụng
Các cải cách trong lĩnh vực ngân hàng đã góp phần khơi thông nguồn
tín dụng cho khu vực kinh tế tư nhân. Năm 1990, hai pháp lệnh về ngân hàng
ra đời, pháp lệnh về ngân hàng Nhà nước và ngân hàng thương mại, hợp tác
xã tín dụng và công ty tài chính. Đối với tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước, Quỹ hỗ trợ phát triển cung cấp tín dụng của Nhà nước hỗ trợ cho các dự
án đầu tư của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực cần khuyến
khích đầu tư theo quy định của Chính phủ. Từ năm 1999, theo nghị định
43/1999/NĐ-CP về tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, hình thức cấp
nguồn vốn đầu tư phát triển đựơc chuyển sang cho vay.
- Chính sách đất đai
Luật đất đai được xây dựng ngày 14/7/1993 và đến nay đã được sửa đổi
ba lần. Ngoài ra, các quy định về ưu đãi, hỗ trợ đất đai và cơ sở hạ tầng còn
được quy định nhiều trong Luật khuyến khích đầu tư tư nhân, quy định một số
hình thức hỗ trợ của Nhà nước cho nhà đầu tư như : công bố công khai quy
hoạch sử dụng đất, xây dựng các khu công nghiệp với quy mô vừa và nhỏ ở
Sinh viên: Bùi Thị Xuân Lớp: KTPT47B
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, xây dựng các công trình hạ
tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp, khu chế xuất.
Thực hiện các biện pháp hỗ trợ, ưu đãi miễn giảm tiền thuê đất, tiền sử
dụng đất, thuế sử dụng đất cho nhà đầu tư.
- Chính sách hỗ trợ phát triển kinh doanh
Nghị định 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ về hỗ trợ phát triển doanh
nghiệp, theo nghị định này, các đơn vị kinh doanh trong nước có đăng ký kinh
doanh, không tính đến sở hữu Nhà nước hay tư nhân, có vốn đăng ký dưới 10
tỷ đồng, có số lao động thường xuyên không quá 300 lao động sẽ được hưởng
những chính sách hỗ trợ. Sự hỗ trợ sẽ được thực hiện thông qua nhiều chương
trình khác nhau.

1.2. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, tạo môi trường cho khu vực kinh
tế tư nhân hoạt động
Nước ta đã tiến hành xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, tạo nền
tảng cho kinh tế tư nhân phát triển.
- Xây dựng các khu công nghiệp nhỏ và vừa, hình thành cụm công
nghiệp địa phương tạo điều kiện cho doanh nghiệp khu vực kinh tế tư
nhân có mặt bằng đầu tư kinh doanh.
- Xây dựng hệ thống giao thông vận tải : đường bộ, đường thuỷ, đường
không trong cả nước tạo điều kiện cho giao lưu kinh tế giữa các tỉnh
trong nước.
- Đào tạo nguồn lao động đáp ứng cho nhu cầu lao động của nền kinh tế.
Với việc thi hành Luật doanh nghiệp và hàng loạt các biện pháp cải
cách khác, môi trường kinh doanh ở nước ta trong mấy năm gần đây đã có
những cải thiện quan trọng theo hướng mở rộng quyền tự do kinh doanh của
người dân trên nguyên tắc doanh nghiệp và người dân được tự do kinh doanh
tất cả các lĩnh vực mà pháp luật không cấm, khuyến khích người dân làm ăn,
Sinh viên: Bùi Thị Xuân Lớp: KTPT47B
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
kinh doanh làm giàu cho mình và cho đất nước, khuyến khích mọi doanh
nghiệp tham gia các ngành xuất khẩu, chú trọng hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ
và vừa… Chính trong môi trường đó, khu vực kinh tế tư nhân và đặc biệt là
doanh nghiệp tư nhân đã nhanh chóng phát triển cả về số lượng và chất lượng,
đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội của đất nước
trên các mặt : tạo công ăn việc làm, tăng vốn đầu tư phát triển, mở rộng xuất
khẩu, thúc đẩy tăng trưởng các ngành kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch
vụ, thúc đẩy phát triển các thị trường, đổi mới kinh tế và hành chính…
1.3. Thực hiện quản lý Nhà nước đối với kinh tế tư nhân
Phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là một xu thế khách quan. Tuy nhiên, để đưa kinh tế tư nhân

phát triển đúng quỹ đạo, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa lại là một nhiệm
vụ hết sức phức tạp, lâu dài và khó khăn. Kinh tế tư nhân chỉ có thể phát triển
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa khi Đảng và Nhà nước có chính sách và
biện pháp quản lý phù hợp, không làm mất động lực phát triển của nó, nhưng
cũng không để nó vận động một cách tự phát, ngoài vòng pháp luật. Nếu
không đảm bảo sự phát triển hài hoà, cân đối giữa các thành phần kinh tế có
thể dẫn đến những hệ quả về chính trị và xã hội khó lường.
Để nền kinh tế nhiều thành phần, nhất là kinh tế tư nhân phát triển đúng
định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước phải vận dụng các công cụ về kinh tế,
pháp luật để quản lý.
Nhà nước ban hành các bộ Luật, nghị định và các quy định… để hướng
dẫn, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển. Các luật như : Luật doanh
nghiệp, luật cạnh tranh, luật thương mại, luật đất đai, ….
2. Sự mở rộng và giao lưu kinh tế đất nước là điều kiện cho các doanh
nghiệp tư nhân trong tỉnh phát triển
Sự nghiệp đổi mới, trong đó có đổi mới kinh tế, mở rộng giao lưu kinh
Sinh viên: Bùi Thị Xuân Lớp: KTPT47B
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tế giữa các vùng, miền trong cả nước tạo điều kiện cho phát triển kinh tế, kinh
tế tư nhân có cơ hội phát triển và nở rộ.
Khu vực kinh tế tư nhân phát triển nhanh chóng trong thời gian qua còn
do một nguyên nhân khác, đó là do tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất
nước, khởi đầu từ khi đất nước đổi mới, mở cửa nền kinh tế, và đặc biệt phát
triển từ giữa thập kỷ 1990, khi nước ta lần lượt tham gia ASEAN, ASEM,
APEC và không ngừng mở rộng quan hệ song phương với các nước khác trên
thế giới. Thị trường các nước mở rộng dần cho các sản phẩm của Việt Nam
đã tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có kinh tế tư nhân
phát triển sản xuất, kinh doanh các sản phẩm của mình trên thị trường khu
vực và quốc tế. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh thị trường trong

nước còn hạn hẹp do tình trạng nước nghèo, mức thu nhập và khả năng tiêu
dùng còn thấp, các doanh nghiệp còn thiếu đầu ra. Các quan hệ thương mại và
đầu tư rộng mở cũng tạo cho doanh nghiệp Việt Nam cơ hội có các đối tác
làm ăn, cơ hội học hỏi kinh nghiệm quản lý, tiếp thu công nghệ của họ, đào
tạo nguồn nhân lực cho mình và trưởng thành dần qua hợp tác và cạnh tranh.
Khi nước ta tham gia WTO, các cơ hội này lại càng mở rộng, những
rào cản sẽ được dỡ bỏ, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có vị trí bình đẳng,
không bị phân biệt đối xử trên thị trường các nước. Họ sẽ có quyền không chỉ
xuất nhập khẩu, tiếp nhận đầu tư, mà còn mở rộng nhiều phương thức hợp tác
khác và đầu tư ra thị trường nước ngoài, khai thác tối đa những lợi thế cạnh
tranh của mình và vận dụng sự phân công lao động quốc tế, tham gia mạng
lưới kinh doanh và chuỗi giá trị toàn cầu theo cách có lợi nhất cho mình.
Tham gia WTO cũng thúc đẩy nước ta cải thiện mạnh mẽ môi trường pháp lý,
chính sách cho kinh doanh, tạo thuận lợi cho cạnh tranh và phát triển của mọi
doanh nghiệp.
Sinh viên: Bùi Thị Xuân Lớp: KTPT47B
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
3. Lực lượng lao động
Thái Bình là một tỉnh đông dân với dân số là 1.850 ngàn người(năm
2005), chiếm 2,23% so với dân số cả nước, dân số tăng bình quân mỗi năm
khoảng 14 nghìn người nên lượng lao động bổ sung hàng năm của tỉnh rất
lớn, khoảng 19.000 người mỗi năm. Số người trong độ tuổi lao động là 1.073
ngàn người, trong đó, lao động trong khu vực nông lâm nghiệp chiếm 74,3%,
công nghiệp và xây dựng chiếm 17%, khu vực dịch vụ thương mại chiếm
8,7%.
Với lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ là thuận lợi rất lớn
với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các
mặt hàng sử dụng nhiều lao động.
Nguồn lao động đã qua đào tạo trong tỉnh là một ưu thế, giúp các doanh

nghiệp không phải mất công đào tạo lao động, tiết kiệm thời gian và chi phí
cho doanh nghiệp, đẩy nhanh được quá trình sản xuất. Lao động qua đào tạo
của tỉnh chiếm 23,5% lực lượng lao động toàn tỉnh. Trong đó, công nhân kỹ
thuật và nghiệp vụ chiếm 13,5%; trung học chuyên nghiệp chiếm 5,5%; cao
đẳng, đại học và trên đại học chiếm 4,5%.
4. Sự tồn tại và phát triển của các nghề và làng nghề truyền thống
Thái Bình là tỉnh có nhiều nghề và làng nghề truyền thống. Tính đến
cuối năm 2005, toàn tỉnh có 173 làng nghề, trong đó 162 làng nghề được cấp
bằng công nhận, 11 làng nghề đạt tiêu chuẩn, 100% số xã có nghề. Thái Bình
nổi tiếng với các nghề truyền thống như : chạm bạc, dệt vải, dệt khăn, dệt
chiếu, mộc mỹ nghệ, đúc đồng, thêu …. Năm 2008, toàn tỉnh hiện có 219
làng nghề đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh cấp bằng công nhận. các làng nghề
đã tạo việc làm cho khoảng 168.000 lao động có thu nhập tương đối ổn định.
Sự tồn tại của các nghề và làng nghề truyền thống là một điều kiện
thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. Trước đây, các hộ gia đình chỉ sản
Sinh viên: Bùi Thị Xuân Lớp: KTPT47B
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
xuất nhỏ lẻ, sản phẩm sản xuất ra chủ yếu tiêu thụ ở thị trường nội tỉnh và các
tỉnh lân cận. Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang mở cửa, sự hợp tác
giao lưu giữa các vùng kinh tế trong nước và với nước ngoài, các hộ gia đình
có điều kiện rất thuận lợi khi chuyển từ sản xuất manh mún sang sản xuất
hàng hoá tập trung, bởi thị trường tiêu thụ sản phẩm đã được mở rộng trong
cả nước và cả với nước ngoài, sản phẩm hàng hoá đã được biết đến từ lâu đời.
III - Những đóng góp của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển kinh tế
của tỉnh Thái Bình
Sự vận động phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Thái Bình trên
các lĩnh vực nông lâm thuỷ sản, công nghiệp và xây dựng, thương mại - dịch
vụ gắn liền với nhịp độ phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Kinh tế tư nhân ở tỉnh Thái Bình đã đạt được những thành quả to lớn,

có thể khẳng định đây là lực lượng kinh tế có vị trí, vai trò quan trọng trong
sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
1. Kinh tế tư nhân góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tăng
nguồn thu ngân sách của tỉnh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cùng với kinh tế Nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân có những bước
phát triển khá, hiện nay ở tỉnh có 2.114 doanh nghiệp và hàng trăm tổ hợp tác,
làng nghề truyền thống… thực sự vẫn là khu vực đầy tiềm năng, năng động,
có ý nghĩa quan trọng trong việc khai thác nguồn lực, tiền vốn, sản xuất nhiều
sản phẩm hàng hoá, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Với số lượng
doanh nghiệp lớn và nhiều loại hình đa dạng phong phú, kinh tế tư nhân đã
góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng nền kinh tế của tỉnh và đóng góp tích
cực cho Ngân sách Nhà nước, hàng năm chiếm tỷ trọng cao trong các ngành
kinh tế của tỉnh.
Trong những năm qua, kinh tế tư nhân đóng góp với tỷ trọng khá lớn
vào sự ổn định trong GDP. Kinh tế tư nhân đóng góp gần 80% trong tổng
Sinh viên: Bùi Thị Xuân Lớp: KTPT47B
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
GDP của các thành phần kinh tế trong sản xuất công nghiệp toàn tỉnh và
chiếm gần 45% GDP toàn tỉnh.
Sự phát triển của kinh tế tư nhân sẽ thúc đẩy các ngành sản xuất phát
triển, góp phần mở mang nhiều ngành nghề và lưu thông hàng hoá, sản phẩm
ngày càng đa dạng, phong phú, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
tỉnh.
2. Kinh tế tư nhân đã huy động được ngày càng nhiều nguồn vốn
trong xã hội đầu tư vào sản xuất kinh doanh
Với đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hoá các loại
hình sản xuất kinh doanh nên khu vực kinh tế tư nhân ở tỉnh ta đã huy động
được lượng vốn lớn trong dân và tận dụng được các nguồn vốn khác để đưa
vào quá trình chu chuyển và khai thác khả năng tiềm ẩn tạo ra được nhiều sản

phẩm hàng hoá có giá trị trong nước và xuất khẩu như : các loại vải, khăn
mặt, phụ tùng xe đạp, xe máy, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ,…
Vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân ngày càng được tăng thêm từ
nhiều nguồn : tự huy động trong dân, huy động vốn đầu tư từ các tỉnh khác,
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài…
Tổng số vốn đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc thành
phần kinh tế tư nhân đến cuối năm 2008 là 11.668 tỷ đồng, tăng gấp 7,7 lấn so
với năm 2005. Số vốn đầu tư của các hộ kinh doanh cá thể là 839.930 triệu
đồng.
3. Kinh tế tư nhân phát triển đã giải quyết việc làm, tăng thu nhập và
ổn định đời sống cho người lao động
Hiện nay, lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân chiếm tới
hơn 90% tổng số lao động đang làm việc tại các khu vực kinh tế trong
tỉnh.Kinh tế tư nhân đã thu hút được trên 300.000 lao động ,ngoài ra còn tạo
việc làm cho trên 150 ngàn lao động vệ tinh, lao động ở các làng nghề. Kinh
Sinh viên: Bùi Thị Xuân Lớp: KTPT47B
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tế tư nhân đã chuyển một bộ phận lao động trong nông nghiệp sang khu vực
công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, tạo sự phân công, phân bổ cơ
cấu lao động một cách hợp lý giữa các ngành kinh tế.
Kinh tế tư nhân đã giúp cải tạo được thu nhập cho người lao động trong
tỉnh. Trước đây thu nhập trung bình của người lao động trong tỉnh là từ 250 –
350 ngàn đồng/người/tháng. Thu nhập bình quân của người lao động hiện nay
từ 650 – 750 ngàn đồng/ người/ tháng.
Đời sống của người dân đã có một bước cải thiện rõ rệt, mức sống được
nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm ;100% số xã có đường ôtô đến trung tâm xã, số
hộ được sử dụng điện là 99,9% (năm 2008), hệ thống thông tin liên lạc điện
thoại đã được lắp đặt tại tất cả các xã trong tỉnh.
Cùng với các chính sách của Đảng và Nhà nước, kinh tế tư nhân đã góp

phần không nhỏ vào chủ trương xoá đói giảm nghèo và giải quyết những vấn
đề kinh tế - xã hội của tỉnh trong những năm qua.
4.Kinh tế tư nhân đã khơi dậy và thúc đẩy sự phát triển các tiềm năng
sẵn có của tỉnh
Kinh tế tư nhân không những thúc đẩy phát triển nông nghiệp, công
nghiệp, đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với xu thế phát
triển của nền kinh tế thị trường, mà còn là chất “xúc tác” kích thích, khơi dậy
tiềm năng thế mạnh, đưa hoạt động của trên 100 làng nghề, xã nghề trở thành
những trung tâm trong việc phát triển kinh tế, thu hút và giải quyết việc làm
cho nhiều lao động.
Kinh tế tư nhân còn tận dụng được nguồn lao động sẵn có và dồi dào
của tỉnh. Với lực lượng lao động đông, lượng lao động được bổ sung thêm
hàng năm lớn, sự phát triển của kinh tế tư nhân đã tạo ra rất nhiều chỗ làm
việc mới cho người lao động, giảm sức ép về dân số và lao động ở tỉnh.
Sinh viên: Bùi Thị Xuân Lớp: KTPT47B
25

×