Tài liệu lý luận về văn hố( sưu tầm):
* CÂU 1: Tại Hội nghò đại biểu những người tích cực làm công tác văn hóa quần chúng
toàn miền Bắc lần thứ nhất (11/2/1960). Hồ Chủ tòch nêu rõ: "Văn hóa phải thiết thực
phục vụ nhân dân, góp phần vào việc nâng cao đời sống vui tươi, lành mạnh của quần
chúng. Vì vậy nội dung văn hóa phải có ý nghóa giáo dục". Bằng lý luận văn hóa đồng chí
hãy phân tích luận điểm trên.
Khái niệm văn hóa:
Thuật ngữ văn hóa xuất hiện từ lâu đời trong ngôn ngữ nhân loại và cho đến nay văn hóa
là một trong những khái niệm phức tạp và khó xác đònh. Song, có thể đònh nghóa văn hóa
như sau: văn hóa là hoạt động nhằm phát huy những năng lực bẩm sinh và bản chất của con
người, vươn tới cái chân, thiện, mỹ, là hoạt động nhằm tạo ra những giá trò những chuẩn
mực XH, là môi trường thứ 2, cái nôi nuôi dưỡng sự hình thành nhân cách con người:
Theo đònh nghóa của tổng thư ký UNESCO thì văn hóa là tổng thể sống động các hoạt
động sáng tạo của các cá nhân và các cộng đồng trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các
thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trò, các truyền thống và
thò hiếu - những yếu tố xác đònh đặc tính riêng của mỗi dân tộc.
Với ý nghóa đó thì văn hóa có mặt trong tất cả các hoạt động của con người, dù đó là hoạt
động SX vật chất và SX tinh thần, hay trong quan hệ giao tiếp, ứng xử XH trong thái độ ứng
xử với nhiều thiên nhiên. Vì vậy, nói đến văn hóa là nói tới con người là nói đến việc phát
huy những năng lực bản chất của con người nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện XH. Do
đó, khái niệm về văn hóa chứa đựng tính nhân văn, cơ sở của mọi hoạt động văn hóa là
khát vọng hướng tới chân, thiện, mỹ và của Nhà nước coi đó là trụ cột vónh hằng của sự
phát triển văn hóa nhân loại. Như vậy, khi nào chân, thiện, mỹ bò xem nhẹ hay lãng quên
chừng đó văn hóa sẽ xuống dốc. Sự xuất hiện các trường phái nghệ thuật suy đồi lối sống
ích kỷ tàn bạo, việc cỗ cũ cho chiến tranh xâm lược, việc tuyên truyền cho chủ nghóa thực
dụng đều là biểu hiện cho sự suy thoái văn hóa của con người.
Văn hóa góp phần thiết thực phục vụ nhân dân.
Lâu nay, khi nhìn nhận các giá trò XH, các nhân tố trong phát triển không ít người chỉ nhấn
mạnh một chiều về vai trò KT mà ít chú ý đến các giá trò văn hóa. Vì vậy, dẫn đến việc thụ
động trong xây dựng văn hóa, chú ý không đầy đủ trong việc chăm lo đời sống tinh thần.
Ngày nay, có nhiều quốc gia tăng trưởng khá với tiện nghi vật chất dồi dào nhưng con người
ít có hạnh phúc KT tăng trưởng nhưng XH thiếu công bằng và văn minh. Chúng ta xây dựng
và phát triển KT cuối cùng là vì cuộc sống văn minh vì hạnh phúc của con người. Hạnh
phúc đó không chỉ là nhiều tiền lắm của, ăn ngon mặc đẹp mà còn là ở sự phong phú của
tâm hồn được sống giữa tình thương, lòng nhân, lẽ phải và công bằng.
KT là cơ sở vật chất của XH, do đó nó cũng là tiền đề để phát triển văn hóa. Song, đến
lượt mình, văn hóa lại là động lực của phát triển. Bởi vì văn hóa bắt nguồn từ yếu tố nguồn
lực con người. Con người là chủ thể, là linh hồn của sự sáng tạo là nhân tố hàng đầu của
văn hóa. Với phẩm chất đạo đức, tài năng trí tuệ của mình, con người làm nên tất cả, làm ra
1
vốn luyến kỹ thuật, làm chủ khoa học công nghệ, khai thác tài nguyên … tạo nên sự giàu có
về vật chất và tinh thần của XH.
Vì vậy, để văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy KT XH Đảng ta coi nhiệm vụ
xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là nhằm đáp ứng nhu cầu thiết thực phục vụ nhân dân về
lónh vực văn hóa ở cơ sở, và coi đó là nhiệm vụ quan trọng lâu dài. Đời sống văn hóa là một
phức hợp bao gồm những hoạt động sống của con người nhằm thỏa mãn hai loại nhu cầu:
nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần và từ hai nhu cầu này hình thành hai nhu cầu văn hóa.
Văn hóa thiết thực phục vụ nhân dân chung quy là nhằm không ngừng thỏa mãn nhu cầu
ngày càng đầy đủ về văn hóa trong hoạt động sáng tạo cũng như trong hoạt động tiêu dùng,
tiêu thụ các giá trò các sản phẩm văn hóa cho quần chúng nhân dân ở cơ sở. Hiện nay, các
dạng hoạt động văn hóa được duy trì tương đối phổ biến ở cơ sở là: thông tin tuyên truyền
cổ động, văn nghệ quần chúng, thư viện, CLB, nhà văn hóa, bảo tồn, bảo tàng, nhà truyền
thống, hoạt động TDTT, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa hoạt động từ thiện,
cứu trợ …
Toàn bộ các hoạt động nêu trên chỉ có thể thực hiện tốt thông qua các thiết chế văn hóa ở
cơ sở. Vì thế phải xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở không chỉ dừng lại ở sự thỏa mãn nhu
cầu văn hóa của quần chúng nhân dân ở cơ sở, mà còn phải thông qua hoạt động giao lưu
gắn liền với việc củng cố và hoàn thiện các thiết chế văn hóa. Đại hội 5 của Đảng chỉ ra
rằng: "một nhiệm vụ của CM tư tưởng và văn hóa là đưa văn hóa thâm nhập vào cuộc sống
hàng ngày của nhân dân". Thực hiện chủ trương này, Nhà nước phải tổ chức tốt có hiệu quả
hoạt động văn hóa cơ sở, bảo đảm văn hóa phục vụ các nhu cầu thiết thực của nhân dân đó
là:
Thông tin tuyên truyền cổ động các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước đến từng làng xóm. Tổ chức văn nghệ quần chúng với các loại hình tự biên tự diễn, đề
tài gần với nhiệm vụ KT XH của đòa phương là chính và đa dạng về thể loại nhằm phục vụ
tốt nhu cầu tinh thần của nhân dân.
Tổ chức hoạt động thư viện cung cấp sách báo, nhiều loại sách và tài liệu nghiên cứu để
mở mang trí tuệ nâng tầm hiểu biết của nhân dân về khoa học tự nhiên cũng như về khoa
học XH. Mặt khác tổ chức các loại hình CLB nhà văn hóa, rạp chiếu bóng, nhà bảo tàng,
nhà truyền thống, hoạt động triển lãm để nhân dân vui chơi giá trò và tìm hiểu về cội nguồn
lòch sử của dân tộc.
Tổ chức các hoạt động TDTT nhằm nâng cao tinh thần và thể lực cho nhân dân. Đồng
thời tổ chức các hoạt động từ thiện nhân đạo nhằm chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau trong những lúc
khó khăn hoạn nạn. Ngoài ra quan tâm xây dựng gia đình văn hóa trên cơ sở xây dựng tiêu
chuẩn gia đình văn hóa, làng văn hóa, khu phố văn hóa.
Để văn hóa thiết thực phục vụ nhân dân cần quan tâm chú ý các vùng nông thôn, vùng
đồng bào dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa, theo phương châm Nhà nước và nhân dân
cùng làm, cần củng cố xây dựng các cơ sở văn hóa ở cấp tỉnh, huyện, nhà văn hóa, thư
viện, rạp chiếu bóng, bảo tàng, triển lãm … ở phường, xã hay cụm KT kỹ thuật tùy thuộc
thực tế tình hình của cơ sở. Đây là một nhiệm vụ quan tâm có tần chiến lược, vì nó vừa thiết
2
thực phục vụ nhu cầu văn hóa của nhân dân, vừa tạo ra những điều kiện cần thiết để tiến
hành công cụ xây dựng nền văn hóa mới, lối sống mới và con người mới ngay tại cơ sở.
Văn hóa góp phần nâng cao đời sống vui tươi lành mạnh của nhân dân.
Nói đến văn hóa là nói đến con người, là nói đến việc phát huy những năng lực bản chất
con người nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện XH. Cũng như mọi sinh hoạt khác, con
người là một bộ phận của tự nhiên chòu sự qui đònh của tự nhiên. Nhưng khác với mọi sinh
vật con người có một "khoảng trời riêng", một thiên nhiên thứ hai, thiên nhiên đó là do con
người tạo ra bằng lao động, tri thức và sự thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ trong cuộc sống của
con người. Thiên nhiên thứ hai đó là văn hóa. Nếu tự nhiên là cái nôi đầu tiên nuôi sống
con người thì văn hóa là cái nôi thứ hai, ở đó toàn bộ đời sống tinh thần của con người được
hình thành, được nuôi dưỡng và phát triển. Vì vậy, con người không thể tồn tại nếu tách rời
khỏi tự nhiên. Cũng như con người không thể thật sự là con người nếu tách rời môi trường
văn hóa.
Vì văn hóa là sự phát huy năng lực bản chất của con người, là sự thể hiện đầy đủ nhất chất
người, nên văn hóa có mặt trên bất cứ hoạt động nào của con người. Hoạt động văn hóa là
hoạt động SX ra những giá trò tinh thần, nhằm giáo dục con người khát vọng hướng tới cái
chân, thiện, mỹ trong đời sống. Với ý nghóa đó bao gồm hàng loạt hoạt động về giáo dục,
khoa học, văn hóa nghệ thuật, đạo đức, lối sống … vì vậy, một chính sách văn hóa đúng đòi
hỏi phải có sự quan tâm đầy đủ đến các lực lượng trên các lónh vực nghiên cứu, sáng tạo,
bảo quản và phổ biến các giá trò văn hóa, quan tâm đến việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật cho các hoạt động văn hóa.
Thường người ta chia văn hóa thành 2 lónh vực: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Đây
là sự phân chia cần thiết để có cái nhìn toàn diện hơn đối với các sản phẩm văn hóa. Tuy
nhiên sự phân chia đó cũng chỉ có ý nghóa tương đối. Cái gọi là văn hóa vật chất thật ra vật
thể hóa các giá trò tinh thần. Bởi vì bản thân các vật kiến trúc những đồ trang sức sở dó có
giá trò văn hóa là do sự thể hiện tài hoa của các nghệ nhân, những người lao động và lý
tưởng thẩm mỹ mà họ gửi gắm vào đó.
Như vậy, xét về phương diện cấu trúc văn hóa là hoạt động tinh thần hướng tới việc SX ra
các giá trò chân, thiện, mỹ. Tổng thể các hoạt động văn hóa tạo nên một thiên nhiên thứ
hai, một môi trường thứ hai nuôi dưỡng con người. Để phản ánh rõ nét vai trò của văn hóa
là góp phần nâng cao đời sống vui tươi, lành mạnh của nhân dân, chúng ta cần làm rõ một
số chức năng cơ bản của văn hóa sau đây:
Chức năng nhận thức: văn hóa có vai trò trong việc phát triển năng lực nhận thức của con
người, nâng cao khả năng hiểu biết của con người về tự nhiên, XH tư duy. Hiệu quả hoạt
động của Nhà nước phụ thuộc rất vào năng lực nhận thức càng phát triển thì hoạt động của
con người càng có hiệu quả. Ngược lại nếu năng lực nhận thức kém thì hoạt động của con
người sẽ kém hiệu quả. Trong phát triển nhận thức cần lưu ý nội dung tri thức và năng lực
tư duy của cá nhân, của cộng đồng (suy nghó, phán đoán khả năng sáng tạo) hai yếu tố trên
có quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Vì vậy nâng cao nhận thức con người
cũng chính là phát huy những tiềm năng ở con người. Đó là bước đầu rất quan trọng hoàn
thiện con người hoàn thiện XH.
3
Chức năng nhận thức: có mặt trong bất cứ hoạt động văn hóa nào, thiếu chức năng nhận
thức thì không thể nói đến bất cứ chức năng nào khác. Một tác phong nghệ thuật trước khi
làm rút ngắn cảm trái tim người đọc người xe thì tác phong đó phải được mọi người hiểu,
phải mang tới cho họ nhận thức mới về cuộc sống, về con người… ngày nay trong điều kiện
tiêu biểu của khoa học và công nghệ, xu hướng ngày càng tăng của quốc tế hóa đời sống
XH đòi hỏi nhiều ở chức năng nhận thức của văn hóa. Vì vậy khẳng đònh rằng: việc phát
huy chức năng nhận thức của văn hóa là một động lực quan trọng thúc đẩy KT XH phát
triển, rút ngắn khoảng cách giữa các nước phát triển và chậm phát triển.
Chức năng giáo dục: nói đến chức năng giáo dục là nói đến đònh hướng XH, là hướng lý
tưởng đạo đức và hành vi của con người vào điều hay lè phải. Chức năng giáo dục là giáo
dục hình thành nhân cách của con người, sự phát triển toàn diện của con người thông qua
việc truyền tải những tri thức kinh nghiệm, kỹ năng mô thực ứng xử của cộng đồng đến cá
nhân, sức mạnh là hiệu quả giáo dục của văn hóa là ở chỗ nó huy động được toàn bộ các
năng lực tinh thần của con người, nó tác động tới chỗ sâu kín nhất của đời sống tinh thần.
Chức năng thẩm mỹ: là hướng con người tới cái đẹp, cái hoàn thiện và lý tưởng thẩm mỹ
hài hòa trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người với XH, con người với
bản thân mình. Cần khẳng đònh rằng cùng với nhu cầu hiểu biết con người còn có nhu cầu
hướng tới cái đẹp. Mác coi nhu cầu và khả năng hướng tới cái đẹp là dấu hiệu cơ bản phân
biệt con người với con Vật. Cảm xúc thẩm mỹ, tức khả năng biết rút ngắn động trước cái
đẹp ở một mức độ nào đó tạo nên giá trò đạo đức của con người.
Lòch sử ghi nhận rằng: bao đời nay người dân Luân Đôn sống giữa cảnh sương mù nhưng
mấy ai nhận ra vẻ đẹp của nó. Đến thế kỷ thứ 19 một họa só tài ba bằng tài năng nghệ thuật
của mình đã về ra bức tranh sương mù ở Luân Đôn với sự hài hòa của nhiều màu sắc. Khi
đó người Luân Đôn mới cảm nhận và tự hào về vẽ đẹp cảnh sương mù của mình. Con người
luôn sáng tạo theo qui luật của cái đẹp và gọi là năng lực bản chất người, nó có tính phổ
cập toàn diện trong toàn nhân loại, có nghóa cái đẹp thể hiện toàn diện trong cuộc sống con
người. Điều đó được ghi nhận rằng công cụ lao động lúc đầu SX ra trên cơ sở tính ích dụng
của nó, về sau con người lượng hướng tới tạo dáng cho vẽ đẹp của nó và làm cho con người
thích thú khi sử dụng công cụ lao động do chính mình sáng tạo ra.
Chức năng Dự báo: là nắm bắt được qui luật khách quan của tự nhiên XH và tư duy tạo ra
những vấn đề có tính chất dự báo. Dự báo càng chính xác bấy nhiêu thì có ý nghóa bấy
nhiêu đối với XH. Văn hóa có thể đưa ra dự báo cần thiết về tự nhiên, XH và con người.
Lòch sử đã chứng minh cách đây 4 thế kỷ, lúc mà CNTB mới manh nha, nhà viết kòch Sếch
Xpia trong các vỡ kích của mình đã dự báo về vai trò tác oai tác quái của đồng tiền trong
chế độ tư bản và cũng trong may thập kỷ gần đây trước sự phát triển ồ ạt công nghiệp
TBCN, nhiều nhà văn hóa đã dự báo thảm cảnh sẽ xảy ra đối với nhân loại như sự cân bằng
sinh thái bò phá vỡ, sự ô nhiễm bầu khí quyển và sự hài hòa giữa con người và tự nhiên sẽ
mất đi và ngày nay đã trở thành sự thật hiển nhiên của cuộc sống.
Chức năng giải trí: là đáp ứng nhu cầu giải trí của con người. Giải trí là hoạt động sống, là
nhu cầu của con người , nó tồn tại từ xưa đến nay trong quá trình phát triển của XH loài
người, nó cũng là hình thức con người thỏa mãn nhu cầu sáng tạo, nhu cầu nghỉ ngơi, nhu
4
cầu tạo sự quân bình trong đời sống. Vì vậy, giải trí đúng nghóa là nhu cầu rất cần thiết của
con người.
Nhân văn, với những phân tích trên có thể đi đến kết luận là hoạt động nhằm SX ra các
gía trò tinh thần, văn hóa là tổng thể rất nhiều các hoạt động mà tất cả các hoạt động đó
đều hướng vào các gía trò chân, thiện, mỹ. Mục tiêu cao cả nhất của hoạt động văn hóa là vì
con người, vì sự phát triển và hoàn thiện con người. Về phương diện đó mục tiêu của văn
hóa thống nhất với mục tiêu của hoạt động KT chính trò của chủ nghóa XH. Văn hóa không
thể phát triển đầy đủ ngoài q đạo của chủ nghóa XH, và chủ nghóa XH khó phát triển vững
chắc nếu văn hóa không phát triển.
Ngày nay, tư duy mới không cho phép chúng ta coi văn hóa như hoạt động thuần túy có ý
nghóa minh họa và tuyên truyền đường lối, chính sách về KT chính trò. Văn hóa cũng không
chỉ là phương tiện để đạt những phúc lợi trong cuộc sống, mà nó phải nhằm mục đích phát
triển và hoàn thiện con người. XH cần đến văn hóa vi con người là chủ thể và là bộ mặt
trung tâm của văn hóa. Văn hóa tạo ra môi trường và là nguồn năng lượng để hình thành
nhân cách, bản lónh đạo đức và lương tâm. Văn hóa có sức mạnh tạo nên mối quan hệ hài
hòa giữa con người và con người, giữa con người với tự nhiên và tạo nên mối quan hệ cảm
thông giữa các dân tộc và các thời đại.
III/- nội dung của văn hóa phải có ý nghóa giáo dục gắn liền chân, thiện, mỹ.
Hồ Chí Minh quan tâm nhiều đến đời sống tinh thần của dân tộc. Bác coi diệt giặc dốt
vẫn có ý nghóa như diệt giặc dốt, giặc ngoại xâm. Từ những ngày đầu của CM tháng 8 năm
1945, Bác thường nhắc nhở: trong cuộc kiến thiết nước nhà có 4 vấn đề phải chú ý đến và
cùng phải coi là quan trọng như nhau: chính trò, KT, XH, văn hóa. Tư tưởng do trở thành
đường lối chính sách văn hóa của Đảng. Khẩu hiệu: "kháng chiến hóa văn hóa và văn hóa
hóa kháng chiến" do Bác nêu lên đã tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa hoạt động văn hóa
với công cuộc kháng chiến của dân tộc. Sự trưởng thành của nền văn học CM được bắt đầu
bằng phương châm đó. Với tư tưởng của Bác, nhiều anh chò em trí thức văn nghệ só đã hăng
hái vào bộ đội đi dân công, tham gia diệt giặc dốt và có mặt ở tuyến đầu ở cuộc đấu tranh
gỉai phóng dân tộc.
Đối với Bác việc phát huy cốt cách và truyền thống dân tộc không tách rời việc tiếp thu
những tinh hoa văn hóa nhân loại. Bác dạy: "khôi phục vốn cũ thì nên khôi phục cái gì tốt,
còn cái gì không tốt thì phải loại dần ra. Học cái cũ để sáng tạo cái mới, phục vụ cho cuộc
sống mới, chứ không phải quay về cái cuộc. Đối với tinh hoa nhân loại, việc khai thác là để
làm giàu làm đẹp nền văn hóa dân tộc, để phát huy những truyền thống đẹp đẽ vốn có của
dân tộc. Hơn nửa thế kỷ qua, quan điểm giáo huấn của Bác về tư tưởng văn hóa nghệ thuật
đã chỉ đạo đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng ta, là nhân tố quan trọng quyết đònh những
thành tựu của nền văn hóa văn nghệ nước ta. Vì vậy, việc nghiên cứu và quán triệt đầy đủ,
sáng tạo tư tưởng của Bác về văn hóa văn nghệ là cơ sở quan trọng để chúng ta tiến hành
đổi mới, nâng cao trình độ lãnh đạo và quản lý văn học nghệ thuật nhằm khắc phục những
trì trệ yếu kém và phát triển nền văn hóa văn nghệ nước ta hiện nay.
Ngày nay, văn hóa như nhiều người đã thừa nhận là sự biểu hiện những năng lực bản chất
của con người. Những năng lực đó là kết quả của một quá trình phát triển lòch sử lâu dài của
5
con người. Gần đây khi tổng kết công tác giáo dục cộng sản chủ nghóa cho thanh niên, các
nhà giáo dục, các nhà tư tưởng và lý luận đều đi đến kết luận: để công tác giáo dục có hiệu
quả lớn, nhất thiết phải tiến hành giáo dục thẩm mỹ. Giáo dục thẩm mỹ học thuyết Mác -
Lê nin đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong giáo dục cộng sản chủ nghóa, nghóa
là nhằm giáo dục và phát huy những năng lực sáng tạo của con người. Điều đó sẽ mang lại
những hiệu quả to lớn trong lao động SX, hoạt động XH, sáng tạo các gía trò tinh thần. Mặt
khác, quan tâm tới giáo dục thẩm mỹ chính là điều kiện để con người phát triển hài hòa
phong phú, để mỗi người đều có điều kiện phát huy những năng khiếu tiềm tàng.
Song, chúng ta đang ở thời kỳ quá độ lên chủ nghóa XH, trong thời kỳ này những ký ức tập
quán của XH cũ con in đậm nét trong mỗi con người của chúng ta trong khi hình thái KT
XH mới đang dần được hình thành, do đó chưa gây được những ấn tượng sâu sắc. Mặt khác,
chúng ta chưa hoàn toàn thoát khỏi ấn tượng những tâm lý của lao động kiểu cũ, chưa thấy
hết những phẩm chất mới của lao động kiểu mới. Chúng ta cũng chưa hoàn toàn thoát khỏi
quan niệm phát triển con người một cách phiến diện để vươn tới một quan niệm toàn diện
về sự phát triển con người. Những hạn chế đó là nguyên nhân dẫn tới những nhận thức
phiến diện trong việc giáo dục dẫn tới con người mới, đặc biệt trong việc đònh ra những
biện pháp cụ thể xây dựng con người mới.
Chúng ta biết rằng. Việc xây dựng con người mới không thể tách rời tình hình KT - XH.
Con người mới ở thời kỳ quá độ chưa thể mang đầy đủ các nhân tố của con người ở chủ
nghóa XH đã hoàn thiện và cũng không thể mang tính chất của con người ở chủ nghóa cộng
sản. Vì vậy, việc cải tạo con người cũ trở thành con người mới XHCN là điều tất yếu. Song,
hoạt động thực tiễn để đẩy nhanh quan trọng đó còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu
nhất vẫn là sự nhận thức. Trong thực tiễn thường chúng ta chỉ nhìn thấy những nhu cầu trước
mắt, có khi là những nhu cầu thiện cận như chăm lo nhân cách tối thiểu về vật chất của con
người mà không nhìn thấy nhu cầu có tính chiến lược để dần dần hình thành những con
người có sự phát triển hài hòa phong phú. Sự hạn chế là nguyên nhân của tình trạng xem
nhẹ đời sống văn hóa tinh thần của con người. Xem nhẹ yêu cầu phát triển năng khiếu của
người lao động. Kết quả của tình trạng đó để dẫn tới chỗ tạo nên những con người chỉ biết
lo lợi ích vật chất trước mắt bỏ qua những gía trò cao đẹp của cuộc sống.
Vì vậy, sự cần thiết là phải dùng sức mạnh của nhiều biện pháp về KT, chính trò, văn hóa,
XH nhưng tất cả những biện pháp ấy chỉ thật sự có hiệu quả nếu chúng hướng tới việc nâng
cao không chỉ đời sống vật chất mà còn cả đời sống tinh thần của con người. Nói cách khác,
mọi hoạt động XH từ hoạt động KT chính trò, văn hóa, đạo đức … đều phải nhằm giáo dục
kích thích phát huy những năng lực tinh thần cao đẹp của con người, hướng mọi hoạt động
của con người vào việc sáng tạo theo qui luật cái đẹp. Do chính là nhiệm vụ của công tác
giáo dục văn hóa thẩm mỹ cho quần chúng nhân dân lao động.
Văn hóa thẩm mỹ theo quan niệm do là một bộ phận của XH. Bộ phận này có liên quan
đến hoạt động tình cảm, cảm xúc những khả năng và năng khiếu. Tức những hoạt động
tinh tế nhất của con người. Vì vậy văn hóa thẩm mỹ cũng là bộ phận tinh tế nhất của văn
hóa XH. Do gắn chặt với các hoạt động tình cảm, cảm xúc văn hóa thẩm mỹ cần được nuôi
dưỡng và phát huy bằng các ấn tượng trực tiếp như: từ cái đẹp trong đời sống, trong thiên
6
nhiên và trong nghệ thuật. Thông qua việc trực tiếp tiếp xúc với những cái đẹp đó, đời sống
tinh thần của con người sẽ trở nên phong phú thoải mái đồng thời những khả năng thưởng
thức và sáng tạo cái đẹp của con người cũng được phát triển.
Hiện nay, yêu cầu xây dựng con người mới XHCN đang đòi hỏi chúng ta phải quan tâm
giáo dục giáo dục thẩm mỹ cho quần chúng nhân dân lao động. Đó là: giáo dục lý tưởng
thẩm mỹ, thò hiếu thẩm mỹ, tình cảm thẩm mỹ và năng lực thẩm mỹ. Do chưa giáo dục tốt
về thẩm mỹ nhân dân ta đặc biệt là thanh thiếu niên chưa đủ khả năng đánh giá một cách
chính xác các hiện tượng thẩm mỹ trong đời sống. Một bộ phận không ít đang bò trói buộc
bởi chủ nghóa thực dụng, một số khác đang chòu ảnh hưởng của chủ nghóa hình thức.
Từ việc thiết sót trong nhận thức, quan điểm dẫn đến thiếu sót trong hành động, trong
quan hệ XH. Những hành vi thô tục, càn quấy, bất chấp nội quy và qui tắc XH, hiện tượng
làm ẩu, làm dối đang là hiện tượng khá phổ biến trong XH ta hiện nay. Tất cả những hiện
tượng đó là phản thẩm mỹ, đi ngược lại sự sáng tạo theo qui luật cái đẹp, là thể hiện trình
độ văn hóa thẩm mỹ còn rất thấp. Vì vậy, việc giáo dục lý tưởng thẩm mỹ là giáo dục
mục đích sống của Nhà nước trong XH. Người Việt đề cao nhân cách luận là đề cao tính
cộng đồng của dân tộc. Giáo dục tình cảm thẩm mỹ là giáo dục hình thành ở con người
những quan hệ thẩm mỹ, làm cho con người có thái độ sống tích cực, sống có ý thức, có
mục đích, có lý tưởng, giáo dục thò hiếu thẩm mỹ là giáo dục ý thích về cái đẹp, nhưng ý
thích phải theo gía trò văn hóa thẩm mỹ của dân tộc. Giáo dục năng lực thẩm mỹ là trên cơ
sở có được lý tưởng thẩm mỹ, tình cảm thẩm mỹ và thò hiếu thẩm mỹ.
Cùng với nhu cầu nhận thức về cái đẹp trong đời sống, việc nhận thức cái đẹp trong nghệ
thuật cũng là một biểu hiện trình độ văn hóa thẩm mỹ của con người. Thế giới nghệ thuật là
thế giới của cái đẹp, hơn nữa lại là cái đẹp kiểu mẫu, cái đẹp lý tưởng. Tiếp xúc với cái đẹp
trong nghệ thuật, con người có điều kiện rèn luyện các giác quan về thẩm mỹ. Đúng như
Mác nói: đối với một lỗ tai chưa được giáo dục về âm nhạc thì một bản nhạc thật hay cũng
không có gía trò gì hết. Nghệ thuật làm giàu thêm những khả năng thưởng thức cái đẹp của
con người, nghệ thuật còn làm nảy sinh ở con người những khả năng sáng tạo, cái đẹp.
Ngày nay, nghệ thuật trở thành một phương tiện quan trọng trong việc giáo dục văn hóa
thẩm mỹ trong quần chúng nhân dân.
Chúng ta cũng cần chú ý rằng, thiếu thốn về vật chất khó tạo ra sự phong phú về tinh thần,
sự nghèo nàn về tinh thần của quần chúng nhân dân không thể tạo ra được một khối lượng
của cải vật chất phong phú đa dạng. Vả chăng cái mà chúng ta vươn tới không phải chỉ
nhằm SX thật nhiều của cải vật chất. Đều đó CNTB đã làm được, nhưng cái mà CNTB
không muốn và không thể làm được là phát triển và làm phong phú đời sống tinh thần của
quần chúng nhân dân. Đó là cái đích là lý tưởng của chủ nghóa XH.
IV/- kết luận:
Quan điểm về văn hóa của Chủ tòch Hồ Chí Minh được Đảng Nhà nước và nhân dân ta
tiếp thu và phát triển qua từng thời kỳ lòch sử. Từ sau CM tháng 8 thành công, văn hóa văn
nghệ nước ta đã trở thành bộ phận khắng khích của CM, trực tiếp tham gia và đóng góp
xứng đáng vào hai cuộc kháng chiến vó đại của dân tộc.
7
Năm 1975, nước nhà hoàn toàn thống nhất, cùng xây dựng đất nước đi lên chủ nghóa XH.
Đặc điểm thời kỳ này là trọng tâm chuyển từ chống ngoại xâm sang tấn công vào nghèo
nàn lạc hậu, từ đấu tranh chính trò và quân sự là chủ yếu chuyển sang xây dựng KT v trong
tình hình mới. Song, nhìn một cách tổng quát, dưới sự lãnh đạo của Đảng chúng ta đã xây
dựng được cơ sở ban đầu của một nền văn hóa văn nghệ theo hướng đi lên chủ nghóa XH
trong phạm vi cả nước, thể hiện trên các mặt quan điểm lý luận, tổ chức và xây dựng đội
ngũ, từng bước hình thành cơ sở vật chất và hoàn chỉnh nội dung hoạt động. Đây là vốn ban
đầu rất q để xây dựng sự nghiệp văn hóa mới ở nước ta hiện nay.
Đặc biệt trong quá trình đổi mới Đại hội 6 của Đảng như luồng gió mới làm tăng thêm sinh
khí cho đời sống văn hóa văn nghệ nước ta. Đại hội 6 khẳng đònh: "không có hình thái tư
tưởng nào có thể thay thế được văn hóa nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành mạnh
tác động sâu sắc vào đổi mới nếp nghó, nếp sống của con người.
Đại hội 7 của Đảng đã tiếp tục và phát triển những luận điểm cơ bản của Đại hội 6 và đến
Nghò quyết TW 5 khóa 8 mới nhấn mạnh những nhận thức đích thực của văn hóa văn nghệ.
Văn hóa là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần XH, thể hiện trình độ phát triển chung
của mỗi nước, một thời đại, là lónh vực SX tinh thần tạo ra những gía trò văn hóa những công
trình nghệ thuật được lưu truyền từ đời này sang đời khác làm giàu đẹp cho cuộc sống con
người.
Nghò quyết Đại hội 9 của Đảng tiếp tục khẳng đònh: "xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển KT - XH. Mọi hoạt
động văn hóa đều nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trò, tư
tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, lòng
khoan dung, tôn trọng tình nghóa, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa gia đình cộng đồng
và XH.
Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền
thống CM của dân tộc, phát huy ý chí tự lực tự cường. Hiện nay, văn hóa là một bộ phận
trọng yếu của CM tư tưởng và văn hóa , là một động lực mạnh mẽ, là mục tiêu lớn trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghóa XH ở nước ta".
Câu2: NQHN lần 4 BCHTW khoá VII khẳng đònh:" nền văn hoá mà đảng ta
lãnh đạo toàn dân xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc".
( ĐCS VN, VKHN lần 4 BCHTW khoá VII, lưu hành nội bộ, tháng 2/1993, thấy
rằng 54)
Đ/c hãy trình bày:
Quan điểm của Đảng ta về nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Những nhiệm vụ cụ thể xây dựng nền văn hoá nước ta hiện nay.
Nghò quyết Hội nghò lần thứ 4 BCH TW Đảng khóa VII và sau đó là Nghò quyết
Hội nghò lần thứ 5 BCH TW Đảng khóa VIII tiếp tục khẳng đònh và làm rõ hơn
khái niệm về nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cũng như đề ra
8
nhiệm vụ cụ thể về xây dựng nền văn hoá đó trong thời đại ngày nay của đất
nước ta.
Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hoá bao hàm những đặc trưng cơ bản sau:
Yêu nước, đây là giá trò cao nhất trong các thang bậc giá trò của văn hoá. Yêu
nước là tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất cho độc lập của Tổ Quốc, cho tự
do, ấm no và hạnh phúc của nhân dân. Ngày nay, yêu nước là ý chí phấn đấu
đưa đất nước vươn lên thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. và tiến bộ, mà nội
dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghóa XH trên nền tảng của chủ
nghóa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nền văn hóa tiên tiến là, nên văn
hóa tiến bộ mang chủ nghóa nhân văn với mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh
phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan
hệ hài hòa giữa các cá nhân và cộng đồng, giữa XH và tự nhiên, là nền văn hóa
tiên tiến về nội dung tư tưởng và phong cách thể hiện, với phương tiện hiện đại
để chuyển tải nội dung.
Nền văn hóa tiên tiến là yêu nước, là ý chí đưa đất nước thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu, phấn đấu vì nước mạnh XH công bằng dân chủ văn minh. Gắn với
yêu nước là tiến bộ, là nền văn hóa kết tinh những giá trò chân, thiện, mỹ của dân
tộc, của thời đại và của loài người. Hạt nhân cốt lõi của nền văn hóa tiên tiến là
độc lập dân tộc và chủ nghóa XH dưới ánh sáng của chủ nghóa Mác - Lê nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Nói đến văn hóa không thể không nói đến hệ tư tưởng vì hệ
tư tưởng chi phối quan niệm về =giá trò, về đạo đức, lối sống và hành vi con
người. Tuy hệ tư tưởng không đồng nhất với văn hóa, nhưng xét đến cùng trong
XH có giai cấp, văn hóa bao giờ có cốt tủy là hệ tư tưởng giai cấp.
Nước ta phát triển theo đònh hướng XHCN là hệ tư tưởng mang bản chất giai
cấp công nhân. Bản chất của chủ nghóa Mác - Lê nin và học thuyết CM và khoa
học kết tinh những tinh hoa văn hóa của nhân loại, hướng vào giải phóng toàn
XH, giải phóng dân tộc, giải phóng con người, khắc phục triệt để con người bò tha
hóa, tạo điều kiện phát triển và không ngừng hoàn thiện con người. Tính chất tiên
tiến của, nên văn hóa con phi thể hiện ngay trong cả hình thức biểu hiện, trong
những cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện để chuyển tải nội dung. đây tiên
tiến thường có nghìa là hiện đại, song không phải mọi cái hiện đại đều là tiên
tiến, và không phải đã là hiện đại thì loại trừ bản sắc dân tộc và càng không được
nhầm lẫn chủ nghóa hiện đại tắc tò, bệnh hoạn nhất là trong nghệ thuật văn thơ.
1- Nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc:
Tính chất tiên tiến của nền văn hóa Việt Nam không tách rời bản sắc dân
tộc, văn hóa là bộ mặt của tinh thần dân tộc. Bản sắc dân tộc của văn hóa như
người ta nói là cái căn cước chứng chỉ của một dân tộc. Nó chỉ rõ anh là ai? Và
thiếu mất nó thì anh không còn tồn tại như một giá trò. Lòch sử mấy ngàn năm xây
9
dựng và giữ nước đã hun đúc cho dân tộc Việt Nam biết bao nhiêu gia tăng
truyền thống tốt đẹp. Đó là chủ nghóa yêu nước, ý thức tự cường, lòng nhân ái,
bao dung, trọng nghóa tình đạo lý, là tinh thần đoàn kết, tính cấu kết cộng đồng,
đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, sự tế nhò trong cư xử, tính giản dò trong
lối sống… nhờ sức mạnh những giá trò đó dân tộc Việt Nam đã chiến thắng bao
thử thách khắc nghiệt của thiên tai, giặc ngoại xâm và liên tục phát triển. Vì vậy
bảo vệ và phát huy bản sắc dân tộc của văn hóa trước hết là bảo vệ và phát huy
những giá trò tinh thần đó.
Nước ta có 54 dân tộc. Trong nền văn hóa đa dân tộc, mọi dân tộc anh em
đều có bản sắc riêng của mình. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của các
dân tộc anh em sẽ phát huy sức mạnh tổng hợp của cộng đồng dân tộc, tạo ra sự
phong phú đa dạng trong tính thống nhất của nền văn hóa Việt Nam. Bảo vệ bản
sắc văn hóa dân tộc phải gắn kết với åmở rộng hoạt động giao lưu quốc tế, tiếp
thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác, nhưng
không để lai căng mất gốc đồng thời giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, phải đi liền
chống lạc hậu, lỗi thời trong phong tục tập quán lề thói cũ.
Ngày nay, xu hướng toàn cầu hóa đời sống loài người là xu thế khách quan,
tất yếu và mang tính thời đại. Toàn cầu hóa tạo điều kiện cho các quốc gia, dân
tộc xích lại gần nhau, hiểu biết, bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau. Song, toàn cầu hóa
là một quá trình đầu mâu thuẫn, phức tạp. Mặt tất yếu kỹ thuật KT là mặt tích
cực, có lợi thì phải tận dụng nhưng không thể bỏ qua là mặt XH KT, mặt bản chất
giai cấp của quá trình toàn cầu hóa. Xét về mặt này đều mâu thuẫn, phức tạp.
Mặt tất yếu kỹ thuật KT là mặt tích cực, có lợi thì phải tận dụng nhưng không thể
bỏ qua là mặt XH KT, mặt bản chất giai cấp của quá trình toàn cầu hóa. Xét về
mặt này, trên thế giới đang có những lực lượng nuôi tham vọng toàn cầu hóa
CNTB, họ muốn áp đặt hệ giá trò của riêng họ lên toàn cầu. Vì vậy, quên diều đó
là ngây thơ về chính trò và trong thực tiễn không tránh khỏi phải trả giá đắt.
Trong điều kiện của xu thế toàn cầu hóa hiện nay, chúng ta càng thấy rõ
đường lối åmở rộng quan hệ quốc tế trên cơ sở độc lập tự chủ của Đảng ta nói
chung và no riêng trong xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam vừa tiên
tiến vừa đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc là hết sức đúng đắn và sáng suốt.
III/- phương hướng, nhiệm vụ bao quát của sự nghiệp xây dựng và phát triển
văn hóa nước ta hiện nay:
Phương hướng chung đồng thời là nhiệm vụ bao quát của sự nghiệp văn
hóa nước ta là phát huy chủ nghóa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân
tộc, ý thức độc lập tự chủ tự cường, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, xây
dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thắm sâu vào toàn bộ đời sống và
hoạt động XH, vào từng người từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng đòa
10
bàn dân cư và mọi lónh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo nên trên đất nước
ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển phục vụ
đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa. Để xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước cần tiến hành những nhiệm vụ cơ bản mang tính bức xúc sau:
1- Xây dựng hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trên nền tảng của chủ
nghóa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đời sống tinh thần XH có
nhiều hệ tư tưởng tác động vào, song chủ nghóa Mác - Lê nin phản ánh tính CM
và tính khoa học. Tính CM là nó xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ giai
cấp bóc lột, tiến hành CM XHCN trên nhiều lónh vực: KT, chính trò, văn hóa, XH
nhằm xóa bỏ cái củ cái lạc hậu và tổ chức xây dựng XH mới.
Tính khoa học là học thuyết của Mác ra đời trên cơ sở kế thừa những giá trò,
tinh hoa tri thức của nhân loại, kể cả về khoa học tự nhiên và khoa học XH.
Phương pháp luận của nó dựa trên quan điểm: khách quan, toàn diện, lòch sử và
cụ thể. Đồng thời tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm tư tưởng lý luận và
thực tiễn của CM. Bao gồm tư tưởng về KT, chính trò, quân sự, đạo đức, nhân
văn. Trong đó cốt lõi là tư tưởng gỉai phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người. Đạo đức Hồ Chí Minh in đậm sự mẫu mực và tính nhân văn sâu
sắc. Vì vậy, chúng ta phải làm hệ tư tưởng của giai cấp công nhân ăn sâu, bám
rễ và đóng vai trò chủ đạo trong đời sống XH mà nền tảng của nó là chủ nghóa
Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
2- Xây dựng con người mới XHCN với các tiêu chí phát triển về trí tuệ,
cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức. Xây
dựng con người mới là yêu cầu thường xuyên của mọi thời đại nhưng không tách
khỏi điều kiện lòch sử cụ thể của XH. Hiện nay, xây dựng con người mới Việt Nam
với những đức tính cao đẹp là:
Con người có tinh thần yêu nước tự cường dân tộc, phấn đấu vi độc lập dân
tộc và chủ nghóa XH, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc
hậu, đoàn kết nhân dân øtrung gian trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập
dân tộc dân chủ và tiến bộ XH. Là con người có ý thức tập thể, đoàn kết phấn
đấu vì lợi ích chung có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung
thực, nhân nghóa, tôn trọng kỷ cương phép nước, con người có trí tuệ đảm bảo về
thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là con người lao động
chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, có năng suất cao, vì
lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và XH.
3- Xây dựng lối sống mới - lối sống có văn hóa, chú ý đến tất cả các thành
tố cơ bản của lối sống như mức sống, chất lượng sống, nếp sống, phong cách và
lý tưởng sống. Đặc trưng lối sống là phản ánh những đặc điểm về sinh hoạt vật
chất và tinh thần và XH của cộng đồng người đã tạo nên lối sống đó. Lối sống
11
XH là một sản phẩm tất yếu của một hình thái KT - XH nó góp phần củng cố và
phát triển hình thái XH ấy. Lối sống mới là đặc trưng có tính nguyên tắc của
những quốc gia đi theo con đường XHCN.
Trong mọi phương thức SX có nhiều lối sống khác nhau, thậm chí có lối
sống đối lập. Song, chúng ta lưu ý là giai cấp nào thống trò XH thì giai cấp đó
đóng vai trò đònh hướng cho lối sống đó, mọi XH muốn ổn đònh phải xây dựng
được một lẻ sống phù hợp. Lẻ sống là bộ phận cốt lõi nhất của lối sống, vai trò
của nó như chiếc hoa tiêu chỉ đường cho mọi người tiến tới. Chúng ta chọn lẻ
sống "mỗi người mọi vì mọi người và mọi người vi mỗi người" làm nguyên tắc ứng
xử của các công dân trong XH. Ngày nay, Đảng ta chủ trương nâng cao mức
sống nhân dân để tạo điều kiện cho lối sống tốt đẹp, vì bản thân sự gàu có mà
không mang đến sự tốt đẹp cho XH, cho cộng đồng thì XH đó không có lối sống
tốt đẹp và lành mạnh.
Nếp sống là chiều cao của lối sống, là mặt ổn đònh của lối sống, nếp sống
là khuôn mẫu ứng xử của con người. Nếu nếp sống có nhiều thành tố: thói quen,
tập quán, phong tục, tục lệ. Vì vậy xây dựng nếp sống mới là phải xóa bỏ những
tập tục thói quen lạc hậu, lỗi thời. Ngoài ra phải xây dựng được lý tưởng sống tốt
đẹp nghóa là xây dựng cho con người những ước mơ, hoài bão để vươn tới chân lý
chân, thiện, mỹ và phê phán lối sống phản tiến bộ ích kỷ hẹp hòi thực dụng.
4- Xây dựng gia đình văn hóa, hướng vào các tiêu chí gia đình no ấm thuận
hòa, dân chủ, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Trong xây dựng đời sống văn hóa
gia đình được coi là cái nôi hình thành nhân cách con người, nơi giữ gìn và lưu
truyền những di sản văn hóa dân gian, truyền thống. Gia đình là tế bào XH, gia
đình tốt thì XH tốt. Nhưng gia đình cũng có thể là sức mạnh đáng sợ khi nó lá cái
lô cốt kiên cố, nơi ẩn nấp những tập tục và lề thói cổ hũ. Gia đình văn hóa là gia
đình mà những quan hệ cơ bản của nó hình thành và phát triển dựa trên chuẩn
mực về văn hóa, nhất là về đạo đức lối sống. Mối quan hệ cơ bản giữa gia đình là
hôn nhân và huyết thống. Những quan hệ này được xây dựng theo chân lý chân,
thiện, mỹ. Vì vậy đặc biệt chú ý làm gương của các bậc ông bà, cha mẹ, giống
như ở trường học thì đó là vai trò làm gương của Thầy Cô giáo - những tác nhân
giáo dục rất quan trọng này đã được Nghò quyết TW 5 nhấn mạnh.
Ngày nay, chúng ta chủ trương xây dựng gia đình với tiêu chí là: gia đình no
ấm thuận hòa hạnh phúc, dân chủ và bình đẳng. Để thực hiện được các tiêu chí
đó, phải từng bước giải quyết tốt các điều kiện như: nhà ở, việc làm, xây dựng
các quan hệ ứng xử thích hợp voi từng lớp tuổi với tôn ti trật tự trong gia đình,
đồng thời khắc phục thái độ độc đoán bất bình đẳng của các quan hệ gia đình
trong XH cũ.
5- Xây dựng môi trường văn hóa trong lành gồm cả sinh thái tự nhiên và
sinh thái XH. Ngày nay, môi trường văn hóa đang đối mặt tình trạng suy thoái
12
nghiêm trọng về mặt tự nhiên và XH. Về mặt tự nhiên là tình trạng ô nhiễm không
khí, thức ăn, nguồn nước … về mặt XH là tệ nạn tham nhũng, trộm cắp, xì ke mà
túy, mại dâm, suy đồi đạo đức… vì vậy xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh là
giải quyết tốt môi trường tự nhiên và môi trường XH. Ngoài ra, phải xây dựng các
đơn vò cơ sở như: gia đình làng xóm, khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp các vùng dân
cư như có đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng và
không ngừng tăng lên của các tầng lớp dân tộc. Bác Hồ đã dạy: "do nhiều người
nhóm lại mà thành làng. Do nhiều Làng nhóm lại mà thành Nước. Nếu người này
cũng xấu người kia cũng xấu thì thành làng xấu, Nước hèn. Người là gốc của làng
nước. Nếu mọi người làm đều cố gắng làm đúng đời sống mới, thì dân tộc sẽ
nhất đònh phú cường".
6- Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Đặc biệt chú ý đến các dạng hoạt
động văn hóa cơ sở nhằm thế mạnh nhu cầu hoạt động sáng tạo cũng như tiêu
dùng các giá trò, các sản phẩm văn hóa do quần chúng nhân dân ở cơ sở. Đại hội
lần thứ 5 của Đảng chỉ rằng: "một nhiệm vụ của CM tư tưởng và văn hóa là đưa
văn hóa thâm nhập vào cuộc sống hàng ngày của nhân dân". Thực hiện chủ
trương này, Nhà nước phải tổ chức tốt có hiệu quả hoạt động văn hóa cơ sở, đó
là thông tin tuyên truyền cổ động các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước đến từng làng xóm. Tổ chức hoạt động văn nghệ quần chúng với
các loại hình tự biên, tự diễn, đề tài gắn liền với nhiệm vụ KT XH của đòa phương
và đa dạng về thể loại. Hoạt động thư viện của cải nhiều loại sách và tài liệu
nghiên cứu để mở mang trí tuệ, nâng tầm hiểu biết cho nhân dân về khoa học tự
nhiên cũng như về khoa học XH. Đồng thời tổ chức các loại hình CLB nhà văn
hóa, nhà bảo tàng, rạp chiếu bóng, nhà truyền thống, hoạt động triển lãm để
nhân dân vui cho giải trí và tìm hiểu về cội nguồn lòch sử dân tộc.
Tổ chức hoạt động TDTT nhằm nâng cao tinh thần và thể lực cho nhân dân.
Đồng thời tổ chức các hoạt động từ thiện, nhân đạo nhằm chia sẻ, giúp đỡ lẫn
nhau những lúc khó khăn hoạn nạn, và xây dựng nếp sống văn minh gia đình văn
hóa trên cơ sở xây dựng tiêu chuẩn gia đình văn hóa, làng văn hóa, khu phố văn
hóa … Nhìn chung xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là một nhiệm vụ quan trọng
có tần chiến lược, bởi vì nó tạo ra những điều kiện cần thiết để tiến hành công
cuộc xây dựng nền văn hóa mới, lối sống mới và con người mới ngay tại cơ sở.
7- Giữ gìn và phát huy các giá trò các di sản văn hóa của dân tộc. Di sản
văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc là cốt lõi của bản sắc dân
tộc. Di sản văn hóa là hàng trang cải thiện để đi vào hiện đại, là cơ sở để sáng
tạo những giá trò mới và giao lưu văn hóa. Vì vậy phải hết sức ra sức bảo tồn, kế
thừa, phát huy những giá trò văn hóa truyền thống, văn hóa CM, bao gồm cả văn
hóa vật thể và phi vật thể.
13
Văn hóa các dân tộc thiểu số là một bộ phận quan trọng trong văn hóa Việt
Nam. Vì vậy, phải coi trọng, bảo tồn và phát huy những giá trò truyền thống, xây
dựng và phát triển những giá trò mới về văn hóa, văn học, nghệ thuật. Phát hiện,
bồi dưỡng, tổ chức lực lượng sáng tác, nghiên cứu văn hóa, văn nghệ dân tộc. Ưu
tiên tài trợ các tác giả dân tộc thiểu số có tài năng sáng tạo, đào tạo đội ngũ tri
thức và đầu tư việc tổ chức điều tra sưu tầm nghiên cứu, phổ biến các giá trò văn
hóa, văn học nghệ thuật của các dân tộc thiểu số.
8- Xây dựng các thiết chế văn hóa đủ mạnh để tổ chức các hoạt động văn
hóa, xây dựng nền văn hóa dân tộc. Đó là sắp xếp hợp lý các cơ quan hành
chánh, các đơn vò sự nghiệp và kinh doanh, nâng cấp các đơn vò văn hóa nghệ
thuật trọng điểm. Từ đó nâng dần các chỉ tiêu hưởng thụ văn hóa tính theo đầu
người ở nước ta. Đồng thời chú trọng những thiết chế và hiện thực văn hóa riêng
ở đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi và vùng xa xôi hẻo lánh.
9- Tăng cường åmở rộng giao lưu hợp tác quốc tế về văn hóa trên cơ sở phát
triển nền văn hóa dân tộc, giữ gìn độc lập tự chủ với phương châm mở cửa phải
có điều kiện, giao lưu, giữ vững nguyên tắc. Giao lưu, hợp tác là nhằm giới thiệu
văn hóa, đất nước con người Việt Nam với cộng đồng nhân loại. Qua đó tiếu thu
chọn lọc những cái hay, cái tốt để làm giàu đời sống tinh thần của nhân dân và
bản sắc văn hóa dân tộc. Kiên quyết tránh tình trạng tiếp thu một chiều thiếu
chọn lọc, ngăn ngừa sự xâm nhập các trào lưu tư tưởng có hại, lối sống lai căng,
mất gốc không phù hợp với bản sắc văn hóa dân tộc.
Mặt khác, Nhà nước có chính sách, biện pháp giúp đỡ người Việt Nam đònh
cư ở nước ngoài hiểu biết về tình hình đất nước ngày càng nhiều hơn. Đặc biệt là
hướng dẫn tạo điều kiện để đồng bào nêu cao lòng yêu nước, ý thức dân tộc, giữ
gìn truyền thống và bản sắc dân tộc, phát huy trí tuệ, tài năng sáng tạo góp phần
tích cực vào xây dựng đất nước.
10- Phát huy văn hóa khoa học, văn hóa giáo dục và v8nhiều học nghệ
thuật, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước.
Về văn hóa khoa học là tạo ra đội ngũ cán bộ trí thức, công nhân kỹ thuật,
công nhân có tay nghề bậc cao cân xứng với yêu cầu phục vụ cho sự nghiệp văn
hóa khoa học. Xây dựng các cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại để đáp ứng yêu
nước công nghiệp hóa hiện đại hóa. Đồng thời sử dụng hiệu quả thành tựu của
khoa học hiện đại nhằm rút ngắn khoảng cách chênh lệch của các nước phát
triển trên thế giới.
Về văn hóa giáo dục: là mui của thời đại. Xây dựng quan niệm học để biết,
để làm, để chung và học để làm người. Có nghóa là học để hiểu biết vận dụng
kiến thức vào thực tiễn, học để làm người tốt trong XH, giáo dục phải quan tâm
đến chất lượng, không chạy theo số lượng hình thức, gắn giáo dục giữa lý luận và
thực tiễn.
14
Văn học nghệ thuật là nhu cầu thiết yếu của con người trong XH, nó thể
hiện trình độ phát triển chung của đất nước là lónh vực SX tinh thần tạo ra những
giá trò cao q lưu truyền từ đời này sang đời khác và làm giàu đẹp cuộc sống con
người. Văn học nghệ thuật là bộ phận nhạy cảm đặc biệt, thể hiện khát vọng của
con người hướng tới chân, thiện, mỹ. Nó có tác dụng bồi dưỡng tình cảm, tâm
hồn, nhân cách, bản lónh của các thế hệ công dân, xây dựng môi trường đạo đức,
xây dựng con người mới. Hiện nay, cần phải đánh giá lại văn học nghệ thuật
trước CM, trong kháng chiến và trong quá trình đổi mới nhằm phản ánh đúng hiện
thực sôi động của đất nước trong tình hình mới. Đó là: văn học nghệ thuật phải
không ngừng nâng cao tính Đảng, tính nhân dân, phát huy tính sáng tạo, nắm bắt
nhạy bén hiện thực đang diễn biến, biểu dương cái mới và góp phần phê phán
không khoan nhượng những hiện tượng tiêu cực, tạo những điển hình sống động
về những con người trung thực, dũng cảm, năng động, sáng tạo, xây dựng những
tác phẩm có giá trò về tư tưởng và nghệ thuật, qua đó nâng cao nếp nghó, nếp
sống giác ngộ XHCN và trình độ thẩm mỹ của nhân dân. Để thực hiện được điều
đó, những nhà lãnh đạo quản lý về văn học nghệ thuật phải tạo điều kiện vật
chất cần thiết và bầu không khí tinh thần thuận lợi giúp cho giới sáng tác có điều
kiện cho ra đời những tác phong sâu sắc về tư tưởng, cao đẹp về nghệ thuật góp
phần làm phong phú kho tàng giá trò của nhân dân. Ngoài ra, thường xuyên quan
tâm, phát hiện và bồi dưỡng những tài năng đặc biệt làm cho tài năng nghệ thuật
trở thành tài sản của dân tộc và của cả loài người.
11- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước trên lónh
vực văn hóa và văn nghệ, đó là: Đảng lãnh đạo bang cương lónh, đường lối, bang
biện pháp giáo dục, thuyết phục và bằng sự mẫu mực và nêu gương của cán bộ
Đảng viên. Đảng lãnh đạo tất cả các khâu từ SX. Bảo quản, phổ biến cho đến
phân phối và tiêu dùng các giá trò, các sản phẩm văn hóa. Đồng thời Đảng lãnh
đạo về xây dựng lực lượng, đào luyện cán bộ làm công tác trực tiếp văn hóa, văn
nghệ và lãnh đạo các cơ quan đơn vò, các thiết chế văn hóa, lãnh đạo bằng tổ
chức Đảng ngay trong các cơ quan văn hóa. Phương thức lãnh đạo của Đảng là
không ngừng åmở rộng dân chủ để phát huy và khai thác tiềm năng văn hóa của
dân tộc, đồng thời kiểm tra và giám sát tất cả các hoạt động về văn hóa văn
nghệ.
Nhà nước quản lý hoạt động văn hóa bằng pháp qui, bằng Luật pháp nhằm
giám sát, quản lý về lónh vực văn hóa văn nghệ, đó là: xây dựng các luật, pháp
lệnh, và hoàn chỉnh các văn bản luật pháp về hoạt động văn hóa nghệ thuật,
thông tin trong điều kiện nên KT theo cơ chế thò trường. Ban hành các chính sách
khuyến khích sáng tạo văn hóa và nâng mức đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn
hóa của nhân dân. Đồng thời, hoàn thành hệ thống thanh tra chuyên ngành,
thanh tra nhân dân, thanh tra văn hóa và kiên quyết chống tình trạng lợi dụng văn
hóa làm xói mòn nền văn hóa dân tộc.
15
III/- xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc: là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp CM XHCN của nước ta, cho
nên no đòi hỏi ý chí CM kiên đònh, trình độ trí tuệ và tính tự giác cao. Để xây dựng
và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc cần phải tăng cường
các biện pháp KT, luật pháp, giáo dục, hành chính, phối hợp các lực lượng toàn
XH từ gia đình, trường học các đoàn thể các tổ chức KT - XH, các lực lượng trực
tiếp làm văn hóa, văn nghệ, thông tin báo chí, sự lãnh đạo của các cấp Đảng bộ,
sự quản lý của các cấp chính quyền.
Nghò quyết TW 5 vừa đáp ứng những đòi hỏi bức xúc của cuộc sống, vừa là đònh
hướng chiến lược cơ bản cho sự nghiệp xây dựng củng cố và không ngừng tăng
cường nền tảng tinh thần XH Việt Nam trên con đường phấn đấu vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh". Với quyết tâm đó, toàn
Đảng, toàn dân ta ra sức phấn đấu để Tổ quốc ta mãi mãi là quốc gia văn hóa,
dân tộc ta là một dân tộc văn hóa, nền văn hóa ta không ngừng phát triển, xứng
đáng với tầm vóc dân tộc ta trong lòch sử và trong thế giới hiện đại./.
* CÂU 3: đồng chí hãy phân tích các đặc trưng của lối sống lành mạnh và sự hình thành lối
sống lành mạnh ở nước ta hiện nay.
I/- Những vấn đề chung về lối sống:
Khái niệm về lối sống đã được Mác và Ăng Ghen đề cập nhiều lần trong các tác phẩm
của mình. Ngày nay, việc xây dựng lối sống mới là một trong những nhiệm vụ quan trọng
của Đảng và Nhà nước ta. Việc hình thành các quan điểm khoa học về lối sống có ý nghóa
quan trọng liên quan trực tiếp đến vấn đề xây dựng phát triển và hoàn thiện con người trong
XH mới.
Theo Mác và Ăng Ghen, con người muốn sống được nghóa là muốn tái SX ra sự tồn tại thể
xác của mình, trước hết phải SX. Phương thức SX là một hình thức hoạt động của con người,
thông qua hoạt động đó mà con người biểu hiện đời sống của mình, biểu hiện bản thân
mình. Mác và Ăng Ghen đã từng nói: "những cá nhân là như thế nào điều đó phụ thuộc
những điều kiện vật chất của sự SX của họ. Phương thức SX là phương thức sinh sống nhất
đònh của của con người, nó là mặt cơ bản của lối sống, phương thức SX là điều kiện KT -
XH của lối sống, là cơ sở đầu tiên để chúng ta tìm hiểu lối sống. Song, không thể đồng nhất
hai khái niệm phương thức SX và lối sống vì những lẽ sau:
Trong XH có giai cấp không thể có một lối sống cho tất cả mọi người: lối sống hoàn toàn
khác nhau giữa hai giai cấp đối lập, trong cùng một phương thức SX sự khác nhau giữa giai
cấp chủ nô và nô lệ, giữa PK và nông dân, giữa tư sản và vô sản.
Phạm vi của lối sống rộng hơn phạm vi của phương thức SX. Ngoài hoạt động SX con
người còn có nhiều hoạt động phong phú khác như hoạt động XH, hoạt động chính trò, tư
tưởng, văn hóa, bồi dưỡng sức khỏe và rèn luyện phẩm chất cá nhân.
Phạm vi của lối sống tương ứng với phạm vi của hình thành KT - XH. Nhưng hai phạm trù
không đồng nhất với nhau. Hình thành KT - XH gắn liền với hoạt động lối sống của con
người, nhưng nó tồn tại khách quan độc lập với ý thức của con người. Trong khi đó lối sống
phản ánh hoạt động của chủ thể bao gồm nhận thức, tình cảm, thái độ, động cơ trong mọi
hoạt động bản thân của con người.
Với tinh thần trên, chủ nghóa Mác gắn lối sống phương thức sx và hình thái KT - XH. Tuy
nhiên khi đònh nghóa về lối sống còn có những điểm khác nhau, ở chỗ mỗi người thường
nhấn mạnh mặt này hay mặt khác của lối sống. Việt Nam, các Nghò quyết của Đại hội
Đảng đã nêu lên nguyên lý cơ bản của chủ nghóa Mác - Lê nin về XH và con người, vạch ra
bức tranh chung của XH Việt Nam, nhấn mạnh những đặc trưng của con người và lối sống
mới. Từ những phạm vi rộng lớn của lối sống, có thể đònh nghóa lối sống như sau: lối sống
na một phạm trù XH học khái quát toàn bộ hoạt động sống của dân tộc, các giai cấp, các
nhóm XH, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái KT - XH nhất đònh, và biểu
hiện trên tất cả các lónh vực của đời sống: trong lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa
người với người, trong sinh hoạt tinh thần và văn hóa:
II/- Những đặc trưng cơ bản của lối sống lành mạnh:
Lối sống là dấu hiệu phân biệt khác nhau giữa cộng đồng này với cộng đồng khác, là một
tổng thể những hình thái hoạt động của con người, phản ánh những đặc điểm về sinh hoạt
vật chất, tinh thần và XH của cộng đồng người đã tạo nên lối sống đó. Lối sống XH là một
sản phẩm tất yếu của một hình thái KT - XH, nó góp phần củng cố và phát triển hình thái
KT - XH đó. Lối sống mới có những đặc trưng cơ bản của con người đi lên chủ nghóa XH.
Nó được xây dựng trên cơ sở có yếu tố sau:
Chế độ sở hữu đa dạng trong đó sở hữu Nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
Nguyên tắc của lối sống mới là nguyên tắc phân phối theo lao động.
Lối sống mới dựa trên nền tảng chính trò vững chắc. Đó là Nhà nước XHCN là Nhà nước
của dân, do dân và vì dân. Lấy chủ nghóa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm hệ tư
tưởng chỉ đạo.
Xóa bỏ các bất bình đẳng về chủng tộc, dân tộc, giới tính, thực hiện tự do tinh thần, công
bằng dân chủ và nhân ái trong mối quan hệ XH.
Mọi XH muốn ổn đònh phải xây dựng được một lẻ sống phù hợp đạo lý. Lẻ sống là bộ
phận cốt lõi nhất của lối sống, vai trò của nó giống như chiếc hoa tiêu chỉ đường tiến tới.
Chúng ta chọn lẻ sống "mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người" làm nguyên tắc
ứng xử của các công dân trong XH. Để thực hiện được lẻ sống cái đẹp ấy mỗi XH phải lựa
chọn một bản gía trò thích hợp làm hướng phấn đấu cho mọi người. Ngày nay, Đảng ta chủ
trương nâng cao mức sống nhân dân để tạo điều kiện cho lối sống tốt đẹp, vì bản thân sự
16
giàu có mà không mang đến sự tốt đẹp cho XH, cho cộng đồng thì XH đó không có lối sống
tốt đẹp và lành mạnh.
Ngoài ra, nếp sống là chiều sâu của lối sống, là mặt ổn đònh của lối sống, nếp sống là
khuôn mẫu ứng xử của con người. Nếp sống có nhiều thành tố thói quen, tập quán, tục lệ,
phong tục. Vì vậy, xây dựng nếp sống mới là phải xóa bỏ những tập tục, thói quen lạc hậu,
lỗi thời. Ngoài ra, phải xây dựng lý tưởng sống tốt đẹp, nghóa là xây dựng cho con người
những ước mơ, hoài bão để vươn tới chân, thiện, mỹ, và phê phán lối sống phản tiến bộ, ích
kỷ, hẹp hòi, thực dụng.
Do lối sống mới có quan hệ mật thiết với phương thức SX nên vấn đề quan trọng hàng đầu
của lối sống mới là lao động (kể cả lao động chân tay và lao động trí óc). Lao động là lương
tâm là nghóa vụ, là phẩm chất của con người mới.
Nội dung quan trọng nhất của lối sống mới là tinh thần dân chủ XH. Lối sống mới của
nước ta là phải thiết lập được các gía trò dân chủ và nhân bản, thực hiện được quyền bình
đẳng giữa nam và nữ, giữa nông thôn và thành thò, giữa của dân tộc trong cộng đồng nhằm
phát huy mọi khả năng của các dân tộc, các thế hệ. Dân chủ cũng như tự do là quyền sống
thiêng liêng của mỗi người, nó thể hiện quyền tham gia của mọi người vào quyền quyết
đònh chung có liên quan đến họ. Dân chủ còn là sự lựa chọn cách thể hiện mình trong quá
trình tồn tại, vì thế dân chủ là phương tiện cơ bản để thực hiện tiến bộ XH.
Mặt khác, công bằng là một đạo lý xuất hiện ngay từ buổi nguyên sơ của XH loài người.
Ngày nay, công bằng là sự công bằng trong điều kiện xây dựng đất nước đi lên theo đònh
hướng XHCN. chế độ XHCN công bằng trước hết là thực hiện nguyên tắc phân phối theo
lao động, đảm bảo công ăn việc làm cho mọi người lao động, bảo đảm quyền hưởng thụ
mọi phúc lợi XH như: quyền được chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe, quyền được học hành và
quyền được sử dụng thời gian nhàn rỗi theo sở thích.
Lối sống mới Việt Nam còn là lối sống đạo đức, thể hiện ở chủ nghóa nhân đạo, tình
thương yêu và tôn trọng con người. Đó là cái thiện, cái ác lương tâm, danh dự, nghóa vụ đều
phải dựa trên cái đúng, cái đẹp. Xa rời chuẩn mực của cái đúng và cái đẹp, các quan hệ đạo
đức chưa đủ vươn mình ra khỏi những gía trò cũ. Lòng nhân ái Việt Nam vốn bắt nguồn từ
tình cảm cộng đồng đã có từ lâu đời như "thương người như thể thương thân" là nguyên tắc
luân lý cao đẹp từ xưa, nay cần nâng lên tầm cao mới. Lòng nhân ái Việt Nam được tôi
luyện trong phong trào đấu tranh CM gỉai phóng dân tộc và được nâng lên thành tinh thần
quốc tế chân chính. Đây chính là gía trò truyền thống nên phong hóa ngàn xưa của dân tộc
và của cộng đồng, cũng là một phẩm chất mới của lối sống mới. Vì vậy, phải kế thừa nền
phong hóa tiến bộ và tính had của dân tộc.
Một mặt quan trọng của lối sống mới là các giao tiếp văn hóa. Lời ăn, tiếng nói, cách thức
chào hỏi đều dựa trên nền tảng văn minh, lòch sự và tôn trọng lẫn nhau. Các thủ tục về cưới
xin, ma chay, giỗ chạp đều chứa đựng những giá trò văn hóa lâu đời. Chúng ta không được
coi nhẹ việc kế thừa và đổi mới những gía trò q báu đó.
Một trong những mặt cơ bản của lối sống là đời sống hàng ngày. Nó bao gồm toàn bộ lónh
vực sinh hoạt sau giờ lao động, học tập, công tác. Những hoạt động này chiếm khoảnh 2/3
lượng thời gian của một ngày, nhằm bảo đảm cho người lao động phục hồi thể lực, thỏa
mãn những nhu cầu về đời sống như: ăn, ở, học hành, nghỉ ngơi, giải trí, giao tiếp XH, sinh
hoạt gia đình. Thời gian qua, chúng ta thật sự chưa quan tâm đến ý nghóa tích cực này của
thời gian ngoài lao động.
nước ta lối sống XHCN được hình thành là do kết quả những cải cách cơ bản của Đảng
Cộng sản được tiến hành trên tất cả các lónh vực của đời sống XH, trên cơ sở chế độ công
hữu về tư liệu SX chủ yếu, sự thống nhất về các thành phần chính trò, văn hóa của XH và
hệ tư tưởng của chủ nghóa Mác - Lê nin. Lối sống XHCN được xây dựng trên cơ sở sự phát
triển cao của lực lượng SX và các quan hệ SX XHCN dựa trên một nền tảng chính trò vững
chắc là Nhà nước XHCN, trên một nhận thức XH mới của nhân dân và được hình thành
dưới ảnh hưởng của chủ nghóa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Lối sống XHCN được
thực hiện theo các nguyên tắc cơ bản sau: làm việc theo năng lực, hưởng theo kết quả lao
động, sự đảm bảo các quyền XH và sự tự do của quần chúng lao động, chủ nghóa nhân đạo
chân chính, chủ nghóa quốc tế XHCN và sự tin tưởng lạc quan vào XH mới.
Theo qui luật phát triển của hình thái KT - XH thi ở chế độ XHCN, lối sống mới XHCN
được hình thành và phát triển như một kết quả khách quan của các thay đổi sâu sắc trong
điều kiện sống của XH, của quá trình xây dựng chủ nghóa XH. Trên cơ sở nền KT XHCN,
lối sống mới phát triển theo hướng tiến bộ của cơ cấu XH, chế độ chính trò và đời sống tinh
thần của nhân dân. Sự phát triển theo hướng tiến bộ, tích cực của lối sống mới XHCN còn
là kết quả tác động của công tác giáo dục chính trò, tư tưởng trong quần chúng nhân dân lao
động. Lối sống XHCN chứa đựng những gía trò tinh thần cao cả mà biểu hiện cụ thể của nó
là chủ nghóa nhân đạo. Đặc điểm chính của lối sống XHCN là tính tập thể chân chính giữa
người và người, sự giúp đỡ trên tinh thần đồng chí và tinh thần quốc tế XHCN. Lối sống
XHCN là nhằm không ngừng thỏa mãn ngày càng đầy đủ hơn đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân lao động, phát triển toàn diện và cân đối mỗi thành viên trong cộng đồng XH.
II/- thực trạng lối sống nước ta hiện nay:
Nghò quyết 5 BCH TW Đảng khóa 8 đánh giá thực trạng những thành tựu về tư tưởng, đạo
đức, lối sống là những lónh vực then chốt của văn hóa đã có những chuyển biến quan trọng,
đồng thời chỉ ra những mặt yếu kém tồn tại của văn hóa, nổi lên trước hết ở nhận thức tư
tưởng, đạo đức và lối sống. Đó là:
Những thành tựu:
Chủ nghóa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng sáng tạo đã tỏ rõ gía trò
bền vững làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và CM ở nước ta, là
nhân tố hàng đầu bảo đảm cho đời sống tinh thần XH phát triển đúng hướng.
thức phấn đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghóa XH, tinh thần trách nhiệm và năng lực
tổ chức thực tiễn của cán bộ, Đảng viên được nâng lên một bước. Nhiều nét mới trong gía
trò văn hóa và chuẩn mực đạo đức từng bước hình thành. Tính năng động và tính tích cực
công dân được phát huy, sở trường và năng lực cá nhân được khuyến khích. Không khí dân
chủ trong XH tăng lên. Thế hệ tiếp thu những kiến thức mới và có ý chí vươn lên lập thân,
lập nghiệp và xây dựng bảo vệ Tổ quốc.
Những việc làm thiết thực hướng về cội nguồn, về CM và kháng chiến, tưởng nhớ các anh
hùng dân tộc, q trọng các danh nh6an văn hóa, các chương trình đền ơn đáp nghóa đối với
những người có công CM và hoạn nạn đã trở thành phong trào quần chúng. Tự do tín
ngưỡng và không tín ngưỡng được tôn trọng.
Những mặt yếu kém:
Trước những biến động chính trò trên thế giới, một số người dao động, hoài nghi về con
đường đi lên chủ nghóa XH, phủ nhận những thành ủa của chủ nghóa XH hiện thực trên thế
giới, phủ nhận con đường đi lên chủ nghóa XH ở nước ta, phủ nhận lòch sử CM Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Qua đó không ít người còn mơ hồ bàng quan mất cảnh giác
trước những luận điệu thù đòch, xuyên tạc, bôi nhọ chế độ ta.
Dưới sự tác động của nền KT theo cơ chế thò trường, tệ sùng bái nước ngoài, coi thường gía
trò văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng các, cá nhân vò kỷ… gây hại đến thuần
phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền, đòa vò na chà đạp lên tình
nghóa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí đồng nghiệp.
17
Một bộ phận không nhỏ cán bộ Đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức có quyền, suy
thoái về đạo đức lối sống, nạn tham nhũng, dùng tiền của Nhà nước tiêu xài phung phí, ăn
chơi sa đọa, chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Hiện tượng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu
nhân dân, kèn cựa đòa vò,cục bộ đòa phương, bè phái mất đoàn kết khá phổ biến. Những
hiện tượng yếu kém về tư tưởng đạo đức lối sống trong một bộ phận cán bộ Đảng viên đã
làm giảm năng lực sức mạnh của Đảng trong sự nghiệp xây dựng một nền văn hóa vì sự
nghiệp phát triển toàn diện con người, vi hạnh phúc của con người.
IV/- Một số vấn đề cấp bách và xây dựng lối sống lành mạnh ở nước ta hiện nay:
Nghò quyết 5 BCH TW Đảng khóa 8 về việc xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp CM XHCN ở nước ta.
Đây là Nghò quyết lòch sử lần đầu tiên của Đảng ta về văn hóa. Nội dung của Nghò quyết là
khẳng đònh hoạt động trong tầm quan trọng đặc biệt về tư tưởng đạo đức lối sống và xem đó
là những lónh vực then chốt của văn hóa. Đó là tiến hành sinh hoạt tự phê bình và phê bình
trong Đảng và bộ máy Nhà nước từ TW đến cơ sở về tư tưởng đạo đức lối sống nhằm phát
huy vai trò gương mẫu của từng cán bộ Đảng viên và viên chức Nhà nước.
Từ việc đặt vấn đề trên Nghò quyết đề ra nhiệm vụ cụ thể về xây dựng nền văn hóa. Đó là
đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng con người mới trong giai đoạn mới, từ đó xây dựng đời
sống văn hóa, môi trường văn hóa lành mạnh và đề ra những nhiệm vụ cấp bách trong tình
hình mới.
1- Ý nghóa của Nghò quyết TW 5 khóa 8:
Nghò quyết Trung ương 5 khóa 8 đã làm nổi bật vò trí, tầm quan trọng của đạo đức, tư
tưởng lối sống của nền văn hóa Việt Nam. Tư tưởng đạo đức, lối sống có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau và có quan hệ chặt chẽ với các lónh vực khác như: KT, chính trò. Vì vậy, có thể
xem nó là điều kiện của phát triển, ổn đònh XH, động lực của sự phát triển KT với ý nghóa
nó là thành tố văn hóa.
Phải phát huy tính tích cực chính trò XH của mỗi con người, vì con người vừa là chủ thể
sáng tạo gía trò văn hóa, vừa là sản phẩm của văn hóa. Do đó muốn xây dựng lối sống trước
tiên phải phát huy được vai trò tích cực của con người, biến họ thành chủ thể tự giác trong
việc xây dựng lối sống văn hóa. Một trong những vấn đề nhức nhối của XH ta hiện nay là
suy thoái và đạo đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ Đảng viên trong đó có cán bộ có
chức có quyền đã gây bất bình đẳng trong nhân dân. Vì vậy, phải đào tạo và xây dựng cán
bộ có phẩm chất đạo đức có lối sống tốt là công bộc của nhân dân như Bác Hồ đã từng kêu
gọi: cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư.
2- Ý nghóa của việc hình thành lối sống, xây dựng lối sống cộng đồng:
Lối sống xây dựng trên cơ sở bảo đảm sự liên kết cộng đồng. Vì bất cứ cộng đồng nào
cũng có nền tảng của lối sống, phương thức của lối sống, chuẩn mực của lối sống và chỉ có
thông qua cộng đồng như một điều kiện tự nhiên, con người mới là sản phẩm của văn hóa.
Vì vậy, trên cơ sở cấu trúc của lối sống mà siết chặt mối quan hệ liên kết với cộng đồng.
Lối sống là một văn hóa cuộc sống của con người. Các gía trò văn hóa tác động vào con
người bắt nguồn nhiều con đường nhưng quan trọng là phải được thông qua cộng đồng mà
cá nhân tồn tại. Lối sống của con người được thông qua giáo dục trực tiếp, thông qua việc
ảnh hưởng của các cá nhân khác, thông qua quá trình hình thành truyền thống lòch sử và văn
hóa trong bản thân, nhờ giáo dục và ảnh hưởng của các cá nhân khác, thông qua phong tục
tập quán, lễ hội, tín ngưỡng, tôn giáo, ngôn ngữ với quan niệm về nghệ thuật.
Lối sống văn hóa biểu hiện trong lối sống vật chất và trong những gía trò tinh thần. Khi đã
hình thành nhân cách văn hóa thì mỗi con người, cá nhân luôn soi mình vào trong cộng
đồng (dân tộc) để gìn giữ và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc trong mình, tiếp nhận và
giữ gìn gien văn hóa ấy.
Lối sống như là văn bản văn hóa duy trì sự phát triển tinh thần XH. Trong lối sống thể
hiện bản sắc văn hóa dân tộc. Quá khứ trình độ văn hóa chưa phát triển thì thông qua lối
sống để giáo dục con người toàn diện từ SX đến lòch sử truyền đạt kinh nghiệm, giáo dục
con người giữ được truyền thống lòch sử.
Nhờ có lối sống mà những tư tưởng chính trò, triết học quan điểm thẩm mỹ mới được hiện
thực hóa. Đồng thời lối sống tạo ra không gian hết sức rộng lớn, cởi mở, tự do để cho mọi
cá nhân phát triển trong khuôn khổ của cộng đồng.
3- Những vấn đề chung về xây dựng lối sống mới ở nước ta hiện nay:
Nội dung lối sống mới rất phong phú, nó có quan hệ đến con người, đến phương thức SX,
đến hình thái KT - XH, đến nhận thức tư tưởng, tình cảm, thái độ, động cơ hoạt động của
con người. Do vậy xây dựng lối sống mới phải xây dựng một cách toàn diện.
Xây dựng lối sống mới phải trên cơ sở giải quyết tốt mối quan hệ giữa cái chung và cái
riêng giữa cái phổ biến và cái đặc thù, giữa cá nhân và tập thể một cách hài hòa trong cơ
cấu lối sống XHCN.
Xây dựng lối sống mới phải tôn trọng đònh hướng nghiêm ngặt của XH mới, đồng thời tôn
trọng sự tự giác của cá nhân. Chúng ta cũng khẳng đònh rằng không có một lối sống chung
mà chỉ có lối sống của một XH nhất đònh, của dân tộc nhất đònh và ở một thời đại nhất đònh.
Vì vậy, phải biết quan tâm toto mối quan hệ giữa tính truyền thống và tính hiện đại trong
nếp sống.
Những biện pháp xây dựng lối sống mới ở nước ta hiện nay là:
Bắt nguồn nhiều hình thức phong phú, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục làm cho
nhân dân nhận thức rõ và gắn liền với lợi ích XH, đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực của
XH. Trong quá trình đổi mới KT ở nước ta có những bước phát triển khả quan, song một bộ
phận đông đảo dân cư vẫn còn khóÁ nhất trí thì chúng ta vẫn có thể giảm bớt những khó
khăn nếu tổ chức hợp lý đời sống và từng bước khắc phục những hiện tượng tiêu cực của
XH.
Tăng cường dân chủ XH, vì đây vừa là nội dung quan trọng của lối sống, đồng thời nó là
điều kiện quan trọng nhất để phát huy tính tích cực của XH, của nhân dân. Phát huy quyền
làm chủ tập thể nghóa là quyền đó được pháp chế hóa thực hiện cơ chế "dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra" trong mọi hoạt động của đời sống XH.
Công bằng XH nghe qua tưởng rằng là đơn giản nhưng thực hiện sẽ gặp nhiều điều khó
khăn. Bởi lẽ không ai có thể say sưa tích cực lao động khi mà người vất vả nhất thì nghèo
đói mà những kẻ ăn bám, buôn bán gian lận, tham nhũng là những kẻ giàu có sống xa hoa
trên thể xác và tinh thần của họ. Vì vậy, chống hiện tượng tiêu cực là việc làm cần thiết và
cấp bách để tạo dựng môi trường công bằng XH thật sự.
Dân chủ XH là điều kiện quan trọng nhất để phát huy tính tích cực chính trò của mỗi con
người. Dân chủ là nguyện vọng của mọi công dân được góp phần vào sự nghiệp chung và
được chia phần trách nhiệm cùng XH. Dân chủ là điều kiện Đảng mọi công dân góp phần
xây dựng pháp luật của chính mình. Đồng thời pháp luật bảo đảm cho việc thực hiện một
nền dân chủ chân chính hợp tình và hợp pháp.
Những nhiệm vụ cần lưu ý xây dựng lối sống mới ở nước ta hiện nay là:
Tiếp tục phát huy truyền thống bản sắc văn hóa dân tộc. Đó là khôi phục những thuần
phong mỹ tục và xây dựng nền văn hóa mới. Dân tộc ta tự hào về nên văn hiến của mình,
về những qui tắc trong nếp sống được coi là thuần phong mỹ tục. Các phong tục thể hiện
nếp sống và lối sống nghóa là nó chòu sự qui đònh của KT, chòu sự chi phối của hệ tư tưởng
của XH, của chính trò, của pháp luật, của tôn giáo. Do đó trong điều kiện hiện nay với
18
những phong tục không còn phù hợp thì chúng ta phải loại bỏ mà chỉ giữ lấy những phong
tục còn phù hợp yêu cầu đổi mới của đất nước.
Xây dựng lối sống phù hợp với XH hiện đại: công nghiệp hóa hiện đại hóa, lối sống chính
trò, lối sống dân chủ, nhân đạo, lòch sử và tiến bộ … việc cải tạo lối sống cũ lạc hậu và xây
dựng lối sống mới phải tiến hành trên cơ sở phát triển KT, phát triển XH, đẩy nhanh tiến
trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, nâng cao mức sống mọi mặt của nhân dân.
Bên cạnh đó giáo dục chủ nghóa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là việc làm cần
thiết và phổ biến rõ ràng trong nhân dân. Ngoài ra, phải quan tâm nâng cao trình độ học
vấn, sự hiểu biết của nhân dân nhằm đáp ứng nhu cầu của việc xây dựng lối sống phù hợp
XH hiện đại và góp phần thực hiện thành công tiến trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước.
Trong quá trình hội nhập toàn cầu hóa quốc tế hóa ngày càng cao đòi hỏi xây dựng lối
sống phải thống nhất được cái phổ biến và cái đặc thù, hòa nhập cái cá tính cái bản sắc dân
tộc. Có nghóa là chọn lọc tiếp thu lối sống tiến bộ, những nhân tố của lối sống tiến bộ của
nhân loại, ra sức ngăn chặn mặt tiêu cực của đời sống hợp tác không phù hợp với lối sống
văn hóa của dân tộc như: lối sống đi vào mù quáng, lối sống tiêu dùng hàng hóa, lối sống
cô đơn, lối sống ích kỷ nhiều chiều, có nghóa là vừa không thấy đồng loại vừa hủy hoại
chính mình.
Phát động phong trào cho lối sống Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Vì lối sống
nó có phạm vi rộng lớn bao quát nhiều lónh vực đời sống văn hóa XH và cá nhân. Bên cạnh
đó xây dựng đời sống văn hóa với liên quan đến nhiều ngành nhiều cấp như: giáo dục, dẫn
tới, khoa học công nghệ, văn hóa nghệ thuật, cho nên phải xem việc xây dựng lối sống
không phải chỉ là một ngành, một cao nào mà là công việc của toàn XH, và xây dựng lối
sống phải được triển khai mạnh mẽ, thường xuyên và rầm rộ. Điều quan trọng là khơi dậy
được ý thức tự giác trong nhân dân, làm cho họ tự hào về lối sống của dân tộc, phong hóa
của dân tộc.
V/- Kết luận chung:
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là một bộ
phận quan trọng trong sự nghiệp xây dựng CM XHCN ở nước ta. Để xây dựng được lối sống
mới lành mạnh đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải cấp thiết phát động một phong trào rộng
lớn của toàn dân, bao gồm các cấp, các ngành để đặt lại toàn bộ vấn đề nếp sống của XH.
Đồng thời kiên quyết đấu tranh với mọi hiện tượng tiêu cực, xây dựng một nền phong hóa
đáp ứng được yêu cầu của XH mới, xứng đáng là bộ máy văn hóa của chế độ XHCN tốt
đẹp.
Toàn Đảng, toàn dân ra sức phấn đấu để Tổ quốc ta mãi mãi là quốc gia văn hóa, dân tộc
ta là dân tộc văn hóa, nền văn hóa nước ta không ngừng phát triển, xứng đáng với tầm vóc
của dân tộc trong lòch sử và trong thế giới hiện đại ngày nay.
* CÂU 4: cương lónh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghóa XH đã chỉ rõ:
"tiến hành CM XHCN trên lónh vực tư tưởng văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lê nin và
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh giữ vò trí chủ đạo trong đời sống tinh thần XH" (Cương lónh
đất nước xây dựng đất nước Thời kỳ quá độ lên chủ nghóa XH, nhà XBST 1991). Bắt nguồn lý
luận văn hóa đồng chí hãy phân tích luận điểm trên.
I/- Khái niệm văn hóa:
Thuật ngữ văn hóa xuất hiện từ lâu đời trong ngôn ngữ nhân lọai và cho đến nay văn hóa
vẫn là một trong những khái niệm phức tạp và khó xác đònh. Song, có thể đònh nghóa văn
hóa như sau: văn hóa là hoạt động nhằm phát huy những năng lực bẩm sinh và bản chất của
con người , vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ. Là hoạt động nhằm tạo ra những gía trò ,
những chuẩn mực XH là môi trường thứ hai cái nôi nuôi dưỡng sự hình thành nhân cách con
người.
Theo đònh nghóa của tổng thư ký UNESCO: "văn hóa là tổng hòa sống động các hoạt động
sáng tạo (của các cá nhân và các cộng đồng) trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế
kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các gía trò , các truyền thống và thể
hiện những yếu tố xác đònh đặc tính riêng của mỗi dân tộc"
Với ý nghóa đó thi văn hóa có mặt trong bất cứ hoạt động nao của con người , dù đó là
hoạt động SX vật chất và SX tinh thần , hay trong quan hệ giao tiếp XH , trong thái độ ứng
xử với thiên nhiên. Vì vậy, nó đến văn hóa là nói tới con người , là nói đến việc phát huy
những năng lực bản chất của con người nhằm hoàn thiện con người , hoàn thiện XH. Cơ sở
của mọi hoạt động văn hóa là khác vọng hướng tới chân, thiện, mỹ và có thể coi đó là ba
trụ cột vónh hằng của sự phát triển văn hóa nhân lọai.
19
II/- Văn hóa là vừa là nền tảng tinh thần của XH , vừa là mục tiêu , vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển của XH.
Trong tiến trình của lòch sử , sự truyền ba chủ nghóa Mác - Lê nin vào nước ta đã thật sự
mở đầu cuộc CM trên lónh vực tư tưởng. nh áng của học thuyết CM nay đã mở đường cho
Đảng ta soi rọi vào đêm trường của XH thực dân PK làm thức tỉnh một dân tộc đứng lên
giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Với tinh thần đó Đảng ta động viên toàn dân ra mặt trận
với tinh thần ý chí dù phải đốt cháy dãy trường sơn cũng giành kỳ được độc lập cho dân tộc.
Kết quả sau 30 kháng chiến chúng ta đã giành thắng lợi trọn vẹn, Tổ quốc thống nhất bước
vào kỷ nguyên mới theo hướng đi lên chủ nghóa XH.
Phát huy truyền thống đó trên lónh vực tư tưởng hiện nay chúng ta phải xây dựng mỗi động
cơ tinh thần mới. Đó là biến khí phách phục hưng dân tộc trong giải phóng đất nước thành ý
chí phục hưng dân tộc trong việc tấn công vào nghèo nàn lạc hậu, vì nghèo nàn lạc hậu sẽ
là nguy cơ khó giữ được , tư thế độc lập và bình đẳng với với dân tộc trong thế giới hiện
đại. Vì vậy, quyết tâm cá nhân tân đất nước là việc phải làm, là thể hiện nguyện vọng của
Chủ tòch Hồ Chí Minh về một dnu Việt Nam sánh vai cùng cường quốc năm châu, là xây
dựng một đất nước Việt Nam đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.
1- Tích chất tiên tiến của văn hóa XHCN.
Văn hóa là lónh vực rất phức tạp, đònh hướng XHCN trên mặt trận văn hóa là phải bảo
đảm thống nhất của tính dân tộc , giai cấp và nhân lọai. Văn hóa XHCN không phải là tạo
nên một nền văn hóa vô sản thuần túy , mà trước hết xác đònh được những gía trò văn hóa
của dân tộc và của nhân lọai quan hệ trực tiếp đến sự phát triển của XH mà mọi XH phải
giữ gìn và tiếp thu. Nên văn hóa tiên tiến theo Nghò quyết TW 5 thể hiện ở các mặt sau:
Nên văn hóa tiên tiến được xây dựng trên nền tảng thế giới quan khoa học và hệ tư tưởng
tiến bộ của thời đại. Đó là chủ nghóa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ
đạo đời sống tinh thần của XH. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt nền văn hóa tiên tiến là lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghóa XH.
Nền văn hóa tiên tiến biểu hiện ở trình độ văn minh cao, sự tiến bộ về đời sống vật chất
và đời sống tinh thần ,kết tinh mọi gía trò quá khứ vào phẩm chất những gía trò hiện đại đáp
ứng yêu cầu phát triển của dân tộc và con người dân tộc. Là nền văn hóa lấy mục tiêu tất
cả vì con người, cho con người. Con người được tự do phát triển toàn diện , tự do cá nhân
thống nhất với tự do của cộng đồng dân tộc.
Nền văn hóa tiên tiến phải được xây dựng trên cơ sở trình độ dân trí giáo dục, dân trí văn
hóa phát triển cao, trên cơ sở khoa học kỹ thuật hiện đại để giải quyết có hiệu quả những
vấn đề đời sống dân tộc đặt ra trong quá trình phát triển. một thành tố hết sức quan
trọngcua nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa nghệ thuật phát triển phong phú đa dạng ,
thhei sâu sắc khát vọng của nhân dân hướng tới chân, thiện, mỹ. Đồng thời nền văn hóa
tiên tiến , có các phương tiện chuyển tải nội dung văn hóa. đó là kết cấu hạ tầng văn hóa ,
mạng lưới các thiết chế văn hóa …
2- Văn hóa là nền tảng tinh thần của XH:
quan niệm trước đây, chúng ta cho rằng cơ sở KT là nền tảng XH trên đó xây dựng kiến
trúc thượng tầng trong đó có văn hóa. Vì vậy, văn hóa chòu sự qui đònh chặt chẽ của nền KT
20
và tất nhiên rằng văn hóa có tác động trở lại KT. Lónh vực văn hóa tinh thần thường mang
dấu ấncua các hình thái KT - XH. Về phương diện đó văn hóa thống nhất với kiến trúc
thượng tầng. Song, không thể kết luận rằng nó nằm trong kiến trúc thượng tầng vì ở lónh vực
văn hóa có một số các yếu tố nằm ngoài kiến trúc thượng tầng như: các tri thức khoa học tự
nhiên , ngôn ngữ với tư cách là phương tiện giao tiếp XH …
Lâu nay, nói đến hạ tầng cơ sở , chúng ta chỉ chú ý đến cơ sở KT (vốn, nguồn nguyên liệu,
hệ thống kết cấu hạ tầng và công nhân) nhưng ít ai nghó tới một các khác, một nền tảng đó
là cơ sở là nền tảng tinh thần , là tòan bộ những gía trò tinh thần mà dân tộc đã sáng tạo ra.
Những gía trò đó là tiềm năng , là năng lượng tinh thần góp phần hình thành những phẩm
chất năng lực của các thế hệ công dân. Thiếu những phẩm chất và năng lực đó dân tộc khó
có thể phát triển vững mạnh.
Ngày nay, nếu chỉ nhìn thấy cơ sở vật chất thì khó nghó đến sự cất cánh của dân tộc trong
thời kỳ mới. Nhưng nếu biết quan tâm đến nền tảng tinh thần của dân tộc , biết phát huy
những gía trò của nền tảng đó thì hy vọng ở sự cất cánh không phải là điều mơ tưởng. Theo
thăm dò y kiến của nhiều chính khách và nhà kinh doanh nước ngoài họ tỏ ra quan tâm
nhiều hơn những dự trữ tinh thần của dân tộc ta. Vì vậy, họ tỏ ra lạc quan hơn chúng ta về
sự phát triển của đất nước ta trong thời gian tới.
Nghò quyết Trung ương 5 khóa 8 đã chỉ rõ: "văn hóa là nền tảng tinh thần của XH , vừa là
mục tiêu , vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển KT - XH". Đó là văn hóa Việt Nam được
hình thành từ hàng nghìn, đã tồn tại và phát triển cùng dân tộc. Ngay từ thưỡ dựng nước và
giữ nước , bằng lao động và xương máu , sức sáng tạo và ý chí bền bỉ, dân tộc ta đã xây
dựng và bồi đắp nên một nền văn hóa rực rỡ , bao gồm những gía trò tinh thần bền vững ,
kết tinh sức mạnh và in đậm bản sắc dân tộc. Mặt khác , trong sự giao lưu văn hóa với nước
ngòai , Việt Nam đã tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân lọai , làm giàu thêm nền văn hóa dân
tộc và không ngừng phát triển cho đến ngày nay. Vì vậy, noi đến văn hóa là nền tảng của
tinh thần XH có nghóa là:
Văn hóa góp phần tạo nền móng XH. Nền móng có vững chắc thì sự phát triển của đất
nước mới lành mạnh , bền vững. Mặt khác, nói đến văn hóa là nền tảng tinh thần của XH
có nghóa là coi văn hóa là tổng thể các gía trò, tiềm năng sáng tạo của đất nước. Đất nước
muốn phát triển phải dựa trên các giá trò đó, phát huy và khai thác tốt các giá trò đó. Gía trò
văn hóa của dân tộc và của nhân lọai nó được kết tinh trong từng con người, trong cả cộng
đồng, nó trở thành truyền thống bản sắc dân tộc. Nó là cơ sở cho mỗi hoạt động sáng tạo
của con người , cho nên no có vai trò là nền tảng tinh thần.
Cơ sở XH của văn hóa được tạo nên từ nền tảng vật chất và KT đóng vai trò quan trọng
và nền tảng tinh thần chính là văn hóa , là hệ thống tri thức , kinh nghiệm của cá nhân và
cộng đồng tích lũy trong quá trình phát triển của mình , là gía trò các chuẩn mực của XH
truyền thống.
Noi đến văn hóa là nền tảng tinh thần của XH đòi hỏi phải đặt văn hóa vào vò trí quan
trọng cũng như KT tạo nên gía trò vật chất , nền tảng vật chất và tinh thần tạo những điều
kiện cần và đủ để XH tồn tại và phát triển. thiếu những điều kiện vật chất thì không có sự
tồn tại của con người , nhưng thiếu điều kiện tinh thần thì XH không thể phát triển được.
21
Trong quá trình phát triển của lòch sử , cơ sở vật chất và tinh thần thường xuyên thấm lẫn
vào nhau và hỗ trợ lẫn nhau.
Ngày nay, chăm lo phát triển văn hóa là chăm lo phát triển nền tảng tinh thần của XH.
Thiếu nền tảng tinh thần tbio và lành mạnh , không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ
giữa phát triển KT với tiến bộ và công bằng XH thì không thể có sự phát triển bền vững
mặt dù sồng với tiện nghi vật chất dồi dào nhưng XH cũng không tránh khỏ nguy cơ suy
thóai , biến chất. Vì vậy, có chăm lo tốt cho văn hóa thì KT mới phát triển bền vững đúng
hướng XHCN , XH ổn đònh và nhân dân mới có hạnh phúc.
Chủ tòch Hồ Chí Minh nêu văn hóa tinh thần lên trên văn hóa vật chất, vì con người khác
con vật ở chỗ văn hóa tinh thần , và cung chính văn hóa tinh thần mới phân biệt được cá
nhân này với cá nhân khác, cộng đồng này với cộng đồng khác. Chúng ta không nên giải
quyết văn hóa tinh thần một cách đơn sơ và cung không nên cực đoan hóa mọi vấn đề. Văn
hóa tinh thần được giải thích từ vật chất (theo huogn gien di truyền). Bởi vì đời sống vật
chất phải được đònh hình tại tinh thần thì nó mới bền vững , nó mới thành tính người , nếu
không đònh hình thành tinh thần thì vật chất không còn là gì cảÁa Mọi hoạt động vật chất
cuối cùng được đònh hình thành văn hóa tinh thần , và chỉ có gía trò tinh thần mới đònh hình
được gía trò văn hóa vật chất và mới bền vững. Văn hóa tinh thần là làm cho con người thật
sự đi vào cỏi tự do, thông qua văn hóa tinh thần để giữ cho cuộc đời con người thêm hạnh
phúc.
3- Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển KT - XH.
Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển nghóa là phát triển phải hướng tới một nền văn hóa
cao , là nâng cao trình độ phát triển về ý thức , trí tuệ , năng lực sáng tạo của con người.
Chăm lo phát triển văn hóa chính là chăm lo phát triển cho con người, cho môi trường con
người , là điều kiện tạo cho con người phát triển toàn diện. Với sự phát triển của văn hóa,
bản chất nhân văn , nhân đạo của mỗi cá nhân và cả cộng đồng được bồi dưỡng và phát huy
trở thành gía trò cao q và chuẩn mực của toàn XH.
Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển KT nghóa là sự phát triển KT phải nhằm mục đích
nâng cao chất lượng cuộc sống con người , tạo cơ sở vật chất cho sự phát triển lành mạnh về
đời sống tinh thần , là điều kiện để thực hiện công bằng XH. Đó là: đạt được độc lập tự do
hạnh phúc để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa , nhân dân có cuộc sống ấm no, có nhà
ở tương đối tốt, có điều kiện thuận lợi để đi lại , học hành, chữa bệnh , có mức hưởng thụ
văn hóa khá. Quan hệ XH lành mạnh lối sống văn minh , gia đình hạnh phúc. Muốn vậy,
văn hóa phải điều tiết sự phát triển KT , gắn phát triển KT với tiến bộ XH.
4- Văn hóa là động lực thúc đẩy phát triển XH:
Nghò quyết Trung ương 5 đã chỉ rõ: văn hóa không chỉ là kết quả của KT mà còn là động
lực của sự phát triển KT bền vững. Bài học của chúng ta đã từng nói: "Trong công cuộc
kiến thiết nước nhà có 4 vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng coi là quan trọng ngang nhau:
chính trò, KT, XH, văn hóa" và " văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi". Các nhân tố văn
hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động XH trên mọi phương diện chính trò,
KT, XH, luật pháp, kỷ cương … biến văn hóa thành một nguồn lực nội sinh quan trọng nhất
22
của phát triển. Vì vậy, có vai trò to lớn trong việc khơi dậy nhân lên trong mọi tiềm năng
sáng tạo của con người.
Trong thời đại ngày nay, một đất nước giàu hay nghéo không phải có nhiều hay ít lao động
và tài nguyên thiên nhiên mà do có khả năng phát huy tiềm năng sáng tạo của nguồn lực
con người hay không. Tiềm năng sáng tạo nằm trong các yếu tố cấu thành văn hóa , nghóa
là năm trong sự hiểu biết , tâm hồn , đạo lý, lối sống , thò hiếu, trình độ thẩm mỹ của mỗi cá
nhân và cộng đồng.
Trong điều kiện của CM khoa học và công nghệ hiện đại , nói đến phát triển KT phải giải
quyết hai vấn đề cơ bản , đó là: phải giải quyết tốt vấn đề con người và cơ sở vật chất kỹ
thuật của XH. Hai mặt đó không thể tách rời nhau, cơ sở vật chất kỹ thuật phát triển đến
đâu thì con người phát triển đến đó , và con người phát triển đến trình độ nào thì cơ sở vật
chất kỹ thuật mới trang bò doanh nghiệp trình độ đó. Song, con người là yếu tố quan trọng
bậc nhất của văn hóa, vì suy cho cùng mọi hoạt động của con người là vi con người. Nói
cách khác, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ , yếu tố có vai trò cực kỳ quan
trọng cho phát triển là trí tuệ , là thông tin, là sự không ngừng sáng tạo. Hàm lượng trí
tuệ, hàm lượng văn hóa trong lónh vực của đời sống con người càng cao bao nhiêu thì khả
năng phát triển KT XH càng trở nên hiện thực bấy nhiêu.
5- Văn hóa với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước:
Đảng ta khẳng đònh phát triển đất nước theo đònh hướng XHCN , khẳng đònh này đã chi
phối các lónh vực đời sống , chính trò, KT, văn hóa, con người, quan hệ dân tộc, quan hệ
quốc tế … nghóa là các hoạt động đó phải theo đònh hướng XHCN. Mục tiêu đònh hình
XHCN là: dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh, công nghiệp hóa hiện
đại hóa. vậy, những vấn đề đặt ra của văn hóa để thực hiện các mục tiêu đó là:
Văn hóa hình thành cơ sở khoa học cho việc thực hiện các mục tiêu ấy.
Văn hóa hiểu theo nghóa rộng là tòan bộ những hoạt động có ý thức của con người. Bài
học viết: "Vì lẽ sinh tồn và mục đích của củng cố, lòai người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, tôn giáo, văn học , nghệ thuật , những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về ăn , mặc, ở và các phương thức sử dụng tòan bộ những sáng tạo và
phát minh đó là văn hóa". Như vậy, văn hóa theo nghóa rộng đã bao trùm tòan bộ một mặt
của đời sống XH. Song, văn hóa hiểu theo nghóa hẹp hơn là bao trùm tòan bộ đời sống tinh
thần của XH với những lónh vực chủ yếu như: tư tưởng, đạo đức lối sống, giáo dục và khoa
học, văn học, nghệ thuật, thông tin đại chúng, giao lưu văn hóa, thể chế văn hóa … đó là
những mặt cab nhất của đời sống tinh thần con người, tác động trực tiếp và hướng dẫn các
hành vi của con người gop[góp phần hình thành môi trường lành mạnh cho sự phát triển.
Vì vậy, xây dựng văn hóa chính là xây dựng con người , góp phần hình thành nguồn nhân
lực cho việc thực hiện mục tiêu ấy. Chủ tòch Hồ Chí Minh nói: 'muốn xây dựng chủ nghóa
XH cần có những con người XHCN". đây, con người XHCN là con người có những đức
tính cao dp đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh. Để xây dựng con người mới , lónh vực giáo
dục và dẫn tới, khoa học và công nghệ phải được ưu tiên và được coi là nhiệm vụ quốc sách
hàng đầu.
23
Cùng với sự phát triển KT - XH , nhu cầu vật chất và văn hóa của nhân dân không ngừng
tăng lên. Song, nhu cầu vật chất có hạn còn nhu cầu và văn hóa tinh thần có thể nói là vô
hạn. Vì vậy, việc phát triển văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình phát
triển KT - XH.
Ngòai ra, đời sống văn hóa còn là một bộ phận của đời sống XH. Đời sống XH là một
phức hợp của những hoạt động sống của con người nhằm đáp ứng những nhu cầu vật chất
và tinh thần của nó. Về cấu trúc đời sống văn hóa trong đời sống XH bao gồm 3 yếu tố sau:
Sản phẩm văn hóa vô hình và hữu hình: Sản phẩm văn hóa vô hình và hữu hình là lọai sản
phẩm không hình thể, tồn tại được dạng gía trò và được ghi nhận trong ký ức của XH, sản
phẩm văn hóa hữu hình thuộc văn hóa hình thể, nó tồn tại dưới dạng vật thể như tranh,
tượng, kiến trúc , di tích lòch sử…
Các hoạt động văn hóa là nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa của con người. Hoạt động văn
hóa là một bộ phận của hoạt động XH. Đó là quá trình SX sáng tạo bảo quản phân phốoi
và tiêu dùng các sản phẩm văn hóa do quá khứ và đương thời tạo ra. Nhu cầu văn hóa là
biểu hiện của nhu cầu tinh thần , nhưng nó không đồng nhất với nhu cầu tinh thần, nhu cầu
tinh thần là hướng tới các giá trò cao cả và sự đáp ứng nhu cầu này sẽ góp phần phát triển
con người theo hướng nhân bản hóa.
Con người là chủ thể sáng tạo ra gía trò văn hóa nhưng đồng thời là sản phẩm của văn hóa.
các sản phẩm của văn hóa gắn kết với hoạt động văn hóa của con người hình thành nên môi
trường văn hóa. phẩm chất văn hóa của con người thể hiện ở trình độ ứng xử của nó đối với
thiên nhiên , XH và đối với bản thân.
Đời sống văn hóa là một bộ phận của đời sống XH. Đời sống văn hóa nằm trong đời sống
tinh thần, đời sống văn hóa mang tính tích cực. Đời sống văn hóa là đỉnh cao của đời sống
tinh thần.
6- Tổ chức xây dựng đời sống văn hóa cơ sở: từ lâu Đảng ta đã đề ra quan điểm nhân văn
trong lónh vực hoạt động văn hóa , văn nghệ , nhưng đến Đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ
5 quan điểm ấy mới được nâng lên thành chủ trương lớn - chủ trương tổ chức xây dựng đời
sống văn hóa cơ sở. Báo cáo chính trò của Đại hội toàn quốc lần thứ 5 chỉ ra rằng: "Một
nhiệm vụ của CM tư tưởng và văn hóa là đưa văn hóa thâm nhậ cuộc sống hàng ngày của
nhân dân. Đặc biệt chú trọng xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở , bảo đảm mỗi nhà máy,
công trường, nông trường, lâm trường, mỗi đơn vò lực lượng vũ trang , công an nhân dân ,
mỗi cơ quan, trường học, bệnh viện, cửa hàng, hợp tác xã , phường, ấp đều có đời sống văn
hóa".
Vì vậy, việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là thực hiện tinh thần quan điểm của chủ
nghóa Mác - Lê nin , di chúc của Chủ tòch Hồ Chí Minh và là chủ trương của Đảng và Nhà
nước nta. Nó có ý nghóa chiến lược đối với việc xây dựng nền văn hóa mới , lòch sử mới và
con người mới , phù hợp với yêu cầu của đất nước trong tkhy quá độ lên chủ nghóa XH.
nghóa của việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là nhằm:
Xây dựng đời sống văn hóa là đáp ứng nhu cầu văn hóa của nhân dân lao động , cụ thể là
thu hút quần chúng tham gia thưởng thức và sáng tạo các gía trò văn hóa mới. Xây dựng đời
sống văn hóa cơ sở là bước đi ban đầu của việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến tiên tiến
24
đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc theo hướng đi lên chủ nghóa XH. Vì đây là công việc xây
dựng kết cấu hạ tầng về văn hóa để tiến hành ca hoạt động giáo dục XHCN đối với nhân
dân lao động , đồng thời tổ chức giao lưu văn hóa với họ. Mục đích của việc giáo dục là
nhấn mạnh hình thành nhân cách của công dân, hình thành ý thức đầy đủ về nghóa vụ và
quyền lợi của công dân tạo ra con người có phẩm chất đạo đức tốt , đời sống lành mạnh và
có học vấn để tham gia vào quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Điều đó có
nghóa là tạo ra môi trường XH lành mạnh để có đủ điều kiện phát triển KT XH của đất
nước.
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là phu quyền làm chủ của nhân dân trong việc sáng tạo
và hưởng thụ các gía trò văn hóa nghệ thuật nhằm tạo dựng một lối sống văn minh . lòch sự
với phong tục tập quán tốt đẹp, vừa đậm đà bản sắc dân tộc lại vừa phù hợp với trào lưu
văn hóa tiến bộ của nhân lọai.
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở còn là củacu đấu tranh gay gắt trên mặt trận tư tưởng
văn hóa. cuộc đấu tranh này một mặt nhằm khẳng đònh các giá trò dân chủ và tiến bộ của
văn hóa , nó nhằm giáo dục nếp sống có văn hóa và phong cách văn hóa cho mỗi người , nó
phát triển văn hóa dân tộc đồng thời åmở rộng giao lưu văn hóa với nước ngòai , vừa giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc , vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của thế giới. mặt khác nó bảo vệ
văn hóa dân tộc trước sự tấn công của các hiện tượng phản văn hóa , các hiện tượng văn
hóa lai căn, mất gốc, phi đạo đức, phi nhân tính trên cơ sở kế thừa các giá trò văn hóa truyền
thống. Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là xây dựng mạng lưới thiết chế văn hóa như: trung
tâm văn hóa, CLB, thư viện, phòng truyền thống, nhà bảo tàng … Nó tạo nên một cảnh quan
văn hóa tại cơ sở, thể hiện nét đặc trưng bản sắc văn hóa dân tộc và nó là noi lưu giữ bảo
quản và phân phối văn hóa cho nhân dân. Chính những đặc trưng văn hóa ấy mà nghìn năn
Bắc thuộc chúng ta mất nước nhưng không mất làng. Nguyên nhân đó chính là bản sắc văn
hóa riêng của người Việt cổ đã kết tinh vào làng xóm Việt Nam và hun đúc nền truyền
thống văn hóa của dân tộc.
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở nông thôn là xây dựng làng văn hóa. nó có ý nghóa
quan trọng là trong khi chúng ta dang tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, xóa
bỏ từng bước sự cách biệt giữa nông thôn và thành thò đem ánh sáng văn hóa đến đồng bào
vùng sâu, xùng xa. Đặc điểm làng của dân tộc Việt Nam là quê hương văn hóa , nơi đó
sáng tạo lưu giữ các giá trò văn hóa , những truyền thống tốt đẹp , những phong tục tập quán
của cộng đồng, là nơi diễn ra sinh hoạt Hội hè, là nơi quê hương của các di tích, di sản văn
hóa dân tộc.
Vì vậy, khi xây dựng nền văn hóa làng, bản chúng ta không chỉ bảo vệ no mà còn có ý
nghóa xây dựng văn hóa nông thôn , bảo tồn và phát triển văn hóa làng, bản, tổ chức giao
lưu các hoạt động văn hóa của nhiều cộng đồng làng, xã với nhau để phát triển nền văn
hóa Việt Nam đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
Nội dung của việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở:
Đời sống văn hóa là một phức hợp bao gồm những hoạt động sống của con người nhằm
thỏa mãn hai lọai nhu cầu: nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần.
25