Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Thành Phố Sài Gòn : Hòn Ngọc viễn đông pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.6 KB, 10 trang )

Thành Phố Sài Gòn : Hòn
Ngọc viễn đông
HÒN NGỌC VIỄN ĐÔNG
Khi nhắc đến Saigon, người ta liên tưởng đến danh xưng “Hòn Ngọc Viễn
Đông” đã được ban tặng cho thành phố thân yêu đó. Nhưng trong thực tế,
cuộc sống của đại đa số dân chúng hiện nay ở tại Thành Phố được ca tụng
là “Hòn Ngọc Viễn Đông” đó như thế nào ?
Saigon và Chợ Lớn là hai địa danh gắn liền với nhau như chị với em.
Những nơi như Chợ Bến Thành, Chùa Xá Lợi và Vương Cung Thánh
Đường Đức Bà là những địa điểm được nhiều du khách tham quan nhất,
nhưng ít người biết rõ lai lịch của những địa danh đó.
Saigon
Tính theo đường bộ, Thành Phố Saigon cách Hà Nội 1.730 cây số về phía
bắc và cách bờ biển Đông 50 cây số theo đường chim bay, cùng với bờ biển
dài 15 cây số. Từ khi được ghi vào sổ sách đầu năm Mậu Dần (1698), đến
nay Thành Phố Saigon đã được thành lập trên 300 năm.
Vào năm 1864, Chợ Lớn được tách ra khỏi Saigon ( về phương diện địa bạ
), vì là thành phố của người Hoa đang trên đà phát triển.
Cảng Saigon được thành lập từ năm 1862. Các tàu buôn của người phương
Tây và các nước lân cận đã tấp nập ra vào và họ cũng rất quen thuộc với
các địa danh như chợ Cầu Ông Lãnh, chợ Cầu Kho, chợ Rẫy, chợ Bến
Thành, chợ Saigon. Do đó từ lâu, Saigon đã được ca ngợi là “Hòn Ngọc
viễn Đông”.
Cuối thế kỷ 19, tổng thống Cộng Hòa Pháp ký sắc lệnh thành lập Thành
Phố Saigon, vào ngày 15/3/1874. Đầu thế kỷ 20, Chợ Lớn được sáp nhập
vào Saigon và Thành Phố Saigon trở thành đô thị lớn nhất ở Đông Dương.
Chợ Lớn
Năm 1788, một nhóm người Hoa từ cù lao Phố và Mỹ Tho kéo về bờ rạch
Bến Nghé lập chợ buôn bán. Khu chợ đó phát triển thành Chợ Lớn ngày
nay. Chợ Lớn còn gọi là Chợ Bình Tây là ngôi chợ được xây cất năm 1928
do một người Hoa tên là Quách Đàm.


Mặt tiền chợ trông ra đại lộ Hậu Giang. Bên trong chợ, Quách Đàm cho
dựng tượng mình trên bệ cao. Sau 1975, tượng đó đã được gỡ đi.
Chợ Lớn có thể xem như một China Town ( Thành Phố Người Hoa ) của
Việt Nam với những phố chợ san sát và đầy ấp hàng hóa từ lâm thổ sản đến
những hàng tiểu thủ công nghệ.
Chợ Bến Thành ( Chợ Mới )
Chợ Bến Thành nằm ở trung tâm thành phố Saigon. Trước khi Pháp xâm
chiếm Saigon năm 1859, có một chợ nhỏ nằm ở khu đất sình lầy kế bên bờ
sông Bến Nghé và sát Thành Saigon ( lúc bấy giờ ). Từ xuất xứ đó mà chợ
đã mang tên ghép là Bến Thành – một trung tâm buôn bán lớn không những
của Thành Phố Saigon mà còn của các tỉnh phía Nam.
Chùa Xá Lợi
Ở Saigon có nhiều ngôi chùa nổi tiếng như chùa Ấn Quang, chùa Vĩnh
Nghiêm…nhưng chùa Xá Lợi được giới Phật tử ôn hòa mến chuộng nhất vì
nơi đây có Xá Lợi Phật. Chùa nầy tọa lạc tại số 89 đường Bà Huyện Thanh
Quan, quận 3, Saigon.
Chùa được khởi công xây cất ngày 5/8/1956 trên một khuôn viên rộng
2.500 mét vuông, theo bản vẽ thiết kế của hai kiến trúc sư Trần Văn Đường
và Đỗ Bá Vinh, với tổn phí 5,5 triệu đồng, dưới thời cố tổng thống Ngô
Đình Diệm. Đại lễ khánh thành được tổ chức vào các ngày 2-4 tháng
5/1958.
Hội Phật Học Nam Việt tổ chức xây cất chùa để thờ Xá Lợi Phật nên quen
gọi là Chùa Xá Lợi. Điện thờ ở lầu một có đặt thờ ngọc Xá Lợi Phật do
ngài Narada ở Tích Lan dâng cúng cho Phật Giáo Việt Nam.
Bên trái tam quan có tháp chuông cao 7 tầng, được xây cất từ năm 1960
đến cuối năm 1961. Chuông lớn được đưa lên tháp ngày 17/10/1961.
Vương Cung Thánh Đường Đức Bà
Nhà Thờ Đức Bà hay còn gọi là Nhà Thờ Lớn là một công trình kiến trúc
bề thế với hai tháp chuông cao, ở nơi trung tâm thành phố Saigon, tại quảng
trường hiện nay được gọi là “Công Xã Paris”, nhưng trước kia được mang

một cái tên thật dễ thương và được mọi người mến chuộng là “Công
Trường Hòa Bình”.
Vương Cung Thánh Đường nầy được khởi công xây cất ngày 7/10/1877 và
được khánh thành ngày 11/4/1880. Nhà thờ được thiết kế tại Pháp và công
trình xây cất do kỹ sư người Pháp là Bourard chỉ huy thực hiện. Tổng kinh
phí xây cất lúc bấy giờ là 2,5 triệu Phật lăng.
Thánh đường có chiều dài 133 mét, tính từ cửa ngăn đến cuối phòng mặc
áo lễ, chiều ngang 35 mét và chiều cao 21 mét.
Ban đầu, hai tháp chuông được xây cất năm 1895 với chiều cao tính từ mặt
đất lên là 36,6 mét. Sau đó xây thêm hai chóp nhọn lầu chuông 21 mét nữa
và chiều cao của tháp tổng cộng được hơn 57 mét. Sáu đại hồng chung,
nặng 25,850kg được đặt dưới hai lầu chuông.
Ngày 7 và 8 tháng 12/1959, được sự chấp thuận của Tòa Thánh Vatican,
nhà thờ được làm lễ “xức dầu thánh” để trở thành “Vương Cung Thánh
Đường Đức Bà Saigon”.
Hiện nay, vào mỗi sáng Chúa nhật, lúc 10 giờ 30, có Thánh Lễ bằng tiếng
Anh dành cho người ngoại quốc. Thật cảm động khi thấy nhiều du khách
thuộc nhiều quốc gia khác nhau như Hoa Kỳ, Pháp, Úc…già cũng như trẻ,
trai cũng như gái, sốt sắng tham dự Thánh Lễ.
Có lẽ họ đến đây vì tò mò và điều đó cũng nằm trong chương trình du lịch
cá nhân của họ. Nhưng biết đâu ở xứ sở họ, không bao giờ họ đặt chân đến
nhà thờ vào mỗi Chúa nhật. Nhưng tại nơi xa xôi nầy, họ lại gặp gỡ Chúa
trong thinh lặng ngỡ ngàng.
CUỘC SỐNG NHỘN NHỊP
Thành Phố Saigon còn có nhiều địa danh nổi tiếng khác, cũng như những
nơi du lịch thu hút nhiều du khách chẳng hạn Suối Tiên, Đầm Sen… cùng
với một số chùa chiền, thánh đường và thánh thất được nhiều người biết
đến. Nhưng đó không phải là những nơi tôi thăm viếng nên không được
viết ra ở đây.
Cuộc sống ở Thành Phố Saigon thật đa dạng, nhất là những nơi ăn chơi nổi

tiếng với những “cuộc vui suốt sáng, trận cười thâu đêm” đã được mô tả
qua báo chí hay các cuộn băng video được phổ biến ở hải ngoại. Nhưng đó
không phải là những nơi tôi giao lưu.
Ở đây, tôi chỉ ghi lại những gì tôi tiếp cận hằng ngày mà thôi, như những
chuyến di chuyển bằng xe buýt, xe ôm hay xe taxi. Những người mà tôi gặp
gỡ là những người lao động phục dịch trong các tuyến giao thông đó hay
những em học sinh, sinh viên tình cờ tôi gặp gỡ trong các tuyến xê dịch.
Trăm xe đua chạy
Tôi trở lại Saigon vào một buổi xế trưa Chúa nhật. Tuy sắp sửa vào thu,
nhưng trời Saigon vẫn còn nóng nực. Điều đập vào mắt tôi trước tiên là nhà
cửa được xây cất nhiều hơn, so với hai năm về trước, ở dọc hai bên những
đại lộ mà tôi đi qua.
Nạn xe cộ chen chúc nhau như mắc cửi, khiến một vài con đường lớn phải
ngăn đôi bằng những hàng rào sắt để tránh cảnh lấn tuyến, có thể gây ra tai
nạn. Đây là sự kiện mới mẻ mà hai năm về trước chưa có.
Lần nầy tôi tạm trú ở một căn nhà gần chợ Bà Chiểu, tại quận Bình Thạnh,
tức Gia Định trước kia. Quang cảnh ở đây cũng khác xa những quận lỵ
thuộc trung tâm Thành Phố Saigon, nên tôi được tiếp cận với nếp sống của
dân chúng nửa thành thị, nửa thôn quê, mang lại cho tôi một số nhận thức
khá thích thú.
Cảnh kẹt xe ở Saigon có nhiều nét đặc trưng. Vào những giờ cao điểm, các
xe gắn máy tràn lan trên các tuyến đường, chẳng khác nào cơn lũ lụt. Đặc
biệt là hệ thống đèn lưu thông, hình như chỉ cò đèn báo hiệu màu “xanh” và
“đỏ”, còn đèn “vàng” hầu như không có, hay chỉ loé lên trong nháy mắt,
không đủ thời gian báo hiệu cho xe cộ chuẩn bị dừng lại khi đèn đỏ lên
màu. Những người chạy xe gắn máy hình như không quan tâm đến hệ
thống đèn màu : họ chỉ cắm đầu chạy mà thôi, nhất là khi vắng bóng nhân
viên công lực.
Tệ hại hơn nữa, dù đèn đỏ đã bật, nhưng xe cộ ít khi dừng lại ngay. Hầu hết
cứ hối hả chạy tới, tranh thủ thời gian vượt qua ngã tư. Thêm vào đó, thay

vì chỉ được “ghẹo phải” khi đèn đỏ như luật lệ cho phép, ở Saigon ( cũng
như Huế, Hà-Nội là những thành phố lớn ), người ta thoải mái “ghẹo phải,
ghẹo trái”, ngay cả “ghẹo xiên, ghẹo xéo” nữa…gây nên cảnh lưu thông
hổn độn và kẹt xe trầm trọng.
Phương tiện lưu thông
Rất ít người đi xe hơi. Phải chăng đó là phương tiện lưu thông trang trọng
dành riêng cho hạng quyền quí. Đa số đi xe gắn máy: xe nhà hay xe ôm.
Ngoài ra còn có xe taxi và xe buýt nữa.
Có thể nói, xe ôm là phương tiện lưu thông công cộng tiện lợi nhất và đầy
dẫy khắp phố phường, giá cả tương đối trung bình. Đó cũng là phương tiện
sinh sống của một số đông đàn ông gặp cảnh lỡ thầy lỡ thợ. Ở bất cứ góc
đường nào cũng có vài ba chiếc xe ôm chờ sẵn đón khách, chẳng khác nào
những ngư ông ngồi thả câu ở các khúc sông thời xa xưa, chờ đợi cá cắn
mồi, như Nguyễn Khuyến đã mô tả :
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
( Thu Điếu, Nguyễn Khuyến )
Khi vắng khách, tài xế xe ôm, sung sướng ngồi nghỉ hay nằm ngửa trên xe,
thoải mái đọc báo để biết tin tức thời sự đó đây như những chuyện trộm cắp
hay cướp giật nơi nầy nơi khác.
Hiện nay xe xích lô đạp rất hiếm. Thỉnh thoảng mới thấy một chiếc. Hình
như loại xe nầy quá cũ kỹ và ở Saigon hầu như vắng bóng hoàn toàn. Ngoài
ra hành khách cũng không ưa thích mấy. Ở Huế và Hà-Nội thỉnh thoảng
còn sử dụng loại xe nầy.
Vì cảnh kẹt xe ban ngày gần như thường xuyên nên ít người sử dụng taxi vì
phải trả cước phí cao. Trái lại xe buýt là phương tiện giao thông được nhiều
người ưa thích, nhất là những người lớn tuổi, do lợi ích an toàn, ít bị ô
nhiễm hay tai nạn lưu thông, thêm vào đó giá cả rất rẻ ( 2000 đồng VN cho
một lượt đi ở trong thành phố, gần đây được tăng lên 3000 đồng VN ).
Đi xe buýt tránh được việc phải hít khói xăng hay dầu khí như khi đi xe

ôm. Xe buýt cũng tương đối sạch sẽ, có máy điều hòa không khí. Nạn móc
túi trên xe buýt hiện nay ít xảy ra hơn như trước kia.
Những chuyện vui buồn trên xe buýt
Dù thế, xe buýt cũng có phần nguy hiểm, vì tài xế thường dừng lại quá
nhanh mỗi khi hành khách lên xuống, khiến họ có nguy cơ bị té ngã. Những
anh chị lơ xe, ngoại trừ một số ít có lương tâm nghề nghiệp, biết phục vụ
khách hàng, đa số thiếu lịch sự, ít niềm nở. Có lẽ vì đồng lương không cao
nên họ làm việc thiếu tinh thần trách nhiệm.
Đôi khi, thay vì phải đứng nơi cửa hành khách lên xuống để giúp đỡ họ, trái
lại lơ xe thoải mái ngồi ở ghế phía trước xe, cạnh tài xế và cả hai vui vẻ
cười đùa, nói chuyện…không quan tâm đến sự an toàn của hành khách lên
xuống. Lắm khi khách chưa lên xuống hẳn, tài xế đã bắt đầu chạy, khiến
nhiều hành khách suýt phải té ngã, nhất là những người lớn tuổi.
Ngày nay, những em học sinh, sinh viên trên xe buýt đã biết nhường chỗ
ngồi cho những người cao niên. Trái lại những anh chị em nhân công trẻ
tuổi, ít khi nhường chỗ cho những người lớn. Họ cứ ung dung ngồi nghỉ,
dựa lưng vào ghế, mắt lim dim, có lẽ vì đã tốn quá nhiều sức lao động nơi
sở làm nên thời gian ngồi xe buýt là dịp rất tốt để nghỉ xả hơi.
Có vài xe buýt đặt tượng Phật hay tượng Chúa ở đầu xe, với vòng đèn điện
bao quanh. Đó cũng là một ấn tượng khá độc đáo. Trong khi tại các nước
Âu Mỹ, người ta đòi triệt hạ các cây thánh giá treo trong các lớp học hay
yêu cầu dời bảng ghi mười điều răn khỏi các tòa án thì những biểu tượng
tôn giáo được trưng bày như thế trên một vài xe buýt ở Saigon, đã nói lên
niềm tin của dân chúng .
Ở hải ngoại, người ta không quên câu chuyện một người vô thần ở Elk
Crove ( cạnh Sacramento ) đã kiện Ty Học Chánh ra tòa về tội để học sinh
đọc lời thề trung thành với quốc kỳ Mỹ, trong đó có câu: “Hoa Kỳ là một
dân tộc tôn thờ Thiên Chúa” ( “one nation under God” ).
Ty Học Chánh thua kiện và người vô thần đó thắng kiện vì tòa án đồng ý
với ông ta là “dân Mỹ không phải là dân thờ Thiên Chúa”.

Còn có chuyện ông tòa Roy Moore, Chánh Nhất Tối Cao Pháp Viện tiểu
bang Alabama bị nhóm vô thần ACLU lôi ra tòa Liên Bang cấp hạt về tội
đặt bia đá khắc Mười Giới Răn Thiên Chúa trước tiền đình tòa án Tối Cao
Pháp Viện của ông tại Montgomery.
Ông đã thua kiện và kháng cáo lên Tối Cao Pháp Viện Liên Bang tại thủ đô
Hoa-thịnh-đốn. Trong phán quyến ngày 2/10/2004, Tối Cao Pháp Viện
Liên Bang Hoa Kỳ đã y án tòa dưới. Kết quả ông tòa Roy Moore thua kiện
và mất chức Chánh Nhất Tối Cao Pháp Viện Alabama.
Buôn thúng bán bưng
Tôi không có dịp tiếp cận những quan chức trong chính quyền, những đại
gia hoặc những doanh gia là những người thuộc thành phần ưu đãi trong xã
hội Việt-Nam hiện nay, nên không rõ sinh hoạt và nếp sống của họ như thế
nào. Hằng ngày, tôi chỉ tiếp xúc với giới lao động, những người buôn thúng
bán bưng…khiến tôi chứng kiến cuộc sống của họ thật vất vả lầm than!
Từ tảng sáng, những người bán hàng rong đã ngồi sẵn hai bên vệ đường để
bán hàng: đó là những thức ăn ban sáng cho giới bình dân như những gói
xôi, những ổ bánh mì thịt…với giá cả không quá vài ngàn. Hoặc những bó
rau, những nắm đậu cho người có lợi tức thấp mua về làm thức ăn trong
ngày.
Ngoài những phụ nữ bán hàng, khoảng bốn năm mươi tuổi, cũng không
thiếu những bà già trên dưới bảy mươi, mặc dù sức cùng lực kiệt, cũng cố
lê lết với những tay thúng tay xách để kiếm sống.
Với số thu nhập kém cỏi mỗi ngày, ước độ vài chục ngàn ( khoảng ba bốn
Mỹ-kim ), người ta có thể hình dung cuộc sống chật vật của họ như thế nào,
chưa kể tới những lúc đau yếu. Như cha ông chúng ta đã nói từ ngàn xưa:
“Trời sinh voi, sinh cỏ”, nên họ đã âm thầm sống cho qua ngày.
Khi ốm đau, họ chỉ cần ghé vào các tiệm thuốc tư nhân mua vài viên thuốc
độ dăm ba ngàn đồng để uống cho qua cơn đau, rồi lại tiếp tục chuỗi ngày
dài như thế, không biết bao giờ chấm dứt.
Những người lái xe ôm, nếu may mắn lắm mỗi ngày cũng chạy được năm

ba cuốc xe, có thể kiếm được trên năm bảy chục ngàn là nhiều. Với số tiền
thu nhập như thế, cuộc sống của họ cũng rất chật vật.
Giới taxi có thể kiếm tiền khá hơn, ngang bằng hoặc trên mức lương trung
bình của nhân công, khoảng một triệu rưỡi tiền VN một tháng.
Có lần tôi ngồi xe taxi mà anh tài xế là một thanh niên khoảng dưới bốn
mươi tuổi, với vẻ mặt khôi ngô tuấn tú. Anh cho biết cách đây gần hai
mươi năm, anh đã vượt biên, nhưng không được may mắn đi lọt. Nay anh
phải vất vả lái xe taxi. Nhưng anh cũng cảm thấy an ủi phần nào là không
phải chạy xe ôm.
Tôi cảm thấy đau buồn cho anh: nếu lần đó anh may mắn đi trót lọt và được
định cư ở một quốc gia thứ ba, có lẽ anh đã có cơ hội làm lại cuộc đời ở
nước ngoài và biết đâu giờ đây anh cũng trở thành bác sĩ, kỹ sư hay chuyên
viên một ngành nghề nào đó. Và cũng như bao nhiêu Việt kiều cùng lứa
tuổi với anh đã thành công ở xứ người, anh cũng có thể trở về thăm quê
hương mà không phải ôm một nỗi buồn ray rứt là phải lái xe taxi như ngày
hôm nay.
Giới trẻ
Vào một buổi trưa trong tuần, tôi đi ngang qua một tiệm bán vật dụng điện
toán ở góc đường Lê Văn Duyệt trưóc kia ( nay là Cách Mạng Tháng Tám )
và đường Hồng Thập Tự cũ, nhiều xe gắn máy của các bạn trẻ tuôn đến đậu
chật trước một cửa tiệm, họ chen chúc nhau vào mua hàng.
Tôi tò mò bước vào mới biết đó là ngày bán “sale” nhiều vật dụng điện
toán. Cả trăm bạn trẻ ra vào tấp nập, xâm chiếm hai tầng lầu. Ai nấy ôm
đầy những vật dụng điện toán, sắp hàng dài trước các két trả tiền.
Điều nầy khiến tôi đâm ra sửng sốt : giới trẻ Việt Nam hiện nay đang say
mê điện toán như người ta mê say cờ bạc vậy. Có em suốt cuối tuần ngồi
trước máy điện toán, quên ăn quên uống.
Những tiệm công cộng cho mướn các máy điện toán, cứ chiều chiều và đến
tối khuya, các em nam cũng như nữ ngồi chật trước các máy, vào internet
để “chat” trên mạng hoặc chơi “game”. Đó là một hiện tượng đáng vui hay

đáng buồn cho giới trẻ Việt Nam hiện nay ???
Tuy nhiên có một số nhỏ cũng cố vươn lên để chiếm một chỗ đứng cho
tương lai mình. Có lần tôi ngồi cạnh một em nữ sinh viên trên một chuyến
xe buýt. Sau khi hỏi chuyện, tôi được biết em đang theo học ngành ngoại
giao và sáng đó em đi xe buýt đến trường đại học. Tôi nói đùa: chắc rồi đây
em sẽ làm ở Bộ Ngoại Giao. Em cười trả lời: Ở Việt Nam hiện nay, muốn
thành công trong ngành ngoại giao, phải có bốn yếu tố “ngoại” sau đây:
ngoại hình, ngoại ngữ, ngoại giao và ngoại tệ.
Em cười và nói tiếp: nhưng trên hết phải có văn bằng “COCC”. Tôi ngạc
nhiên không hiểu thì em cho biết “COCC” là “con ông cháu cha”. Nghe em
giải thích như thế, tôi cũng bật cười với em qua làn nước mắt.
Lần khác, tôi đang đứng đợi xe buýt ở ngã tư Phú Nhuận để về Gia Định,
một em gái được người dì chở xe gắn máy đến chỗ đó đợi xe buýt. Nhìn
quanh một lúc, em hỏi tôi xe buýt nào đi về bến xe Miền Đông. Tôi chỉ cho
em hai số xe trên bảng hiệu và cho biết tôi cũng đi xe đó để về Gia Định.
Ngồi trên xe buýt, sau khi dò hỏi, tôi được biết em ra bến xe Miền Đông để
trở về quê ở Long Khánh, nơi em mới rời khỏi cách đây hai tuần lễ để lên
đây kiếm việc, nhưng không có kết quả. Em cho biết thêm em 18 tuổi, vừa
mới học xong lớp 12, muốn lên Saigon để kiếm việc, nhưng vì mất thẻ
“chứng minh nhân dân” nên không ai mướn hết. Muốn xin thẻ mới, người
ta đòi hỏi một số tiền mấy triệu đồng.
Tôi thông cảm hoàn cảnh khó khăn của em nên khuyên bảo em phải thận
trọng, kẻo rơi vào những cạm bẫy nơi đô thị đa tạp nầy. Em tỏ ra thông
hiểu, nhưng không biết rồi đây sẽ ra sao. Khi giã biệt, tôi chỉ biết cầu
nguyện cho em thoát khỏi những ảo ảnh của cuộc đời nơi đô thị phồn hoa
để không phải rơi vào vực thẳm như trăm ngàn vạn em khác trước em cũng
vì lỡ lầm, để rồi nghìn thu mang hận.
( Hương Vĩnh )





×