Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

các biện pháp trừng phạt phi vũ trang của hôi đồng bảo an liên hợp quốc những vấn đề pháp lý và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.58 KB, 33 trang )

Trừng phạt phi vũ trang trong liên hợp quốc những vấn đề lý luận và thực tiễn

Lời Cảm Ơn
Em xin chân thành cảm ơn sự dạy dỗ tận tình và
chu đáo của Quý thầy cô giáo Khoa luật , Đại học
huế trong 3 năm qua đã truyền đạt cho em những
kiến thức bổ ích.
Em xin trận bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến cô
Nguyễn Thị Hà đã giúp đỡ hướng dẫn em nhiệt tình
và đầy trách nhiệm trong suốt q trình hồn thành
bài niên luận này.
Xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã
đóng góp ý kiến cũng như sự động viên, khích lệ
trong q trình học tập, nghiên cứu và thực hiện niên
luận.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song không thể
tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót khi thực hiện
khố luận này . Kính mong Q thầy giáo, cơ giáo và
bạn bè đóng góp ý kiến để bài Niên luận được hoàn
thiện hơn .
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn !
Huế, 10 tháng 9 năm 2013
Sinh viên
Nguyễn Thị Phượng

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hà

1

SVTH: Nguyễn Thị Phượng



Trừng phạt phi vũ trang trong liên hợp quốc những vấn đề lý luận và thực tiễn

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hà

2

SVTH: Nguyễn Thị Phượng


Trừng phạt phi vũ trang trong liên hợp quốc những vấn đề lý luận và thực tiễn

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hà

3

SVTH: Nguyễn Thị Phượng


Trừng phạt phi vũ trang trong liên hợp quốc những vấn đề lý luận và thực tiễn

A. LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Liên Hợp Quốc chính thức ra đời vào ngày 24/10/1945 khi Hiến chương
Liên Hợp Quốc được Trung Quốc, Pháp, Liên Xô, Vương quốc Anh, Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ và đa số các quốc gia ký trước đó phê chuẩn. Tên gọi “Liên Hợp
Quốc” đã được Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt sáng lập ra và được sử
dụng lần đầu tiên trong Tuyên ngôn của Liên Hợp Quốc” vào ngày 1/1/1942,
trong đó có 26 quốc gia đã khẳng định cam kết tiếp tục cuộc đấu tranh chống lại
các nước thuộc phe Phát Xít.

Việc Liên Hợp Quốc ra đời là một sự kiện quan trọng và là sự kết hợp của
nhiều yếu tố khác nhau như: vai trò kém hiệu quả của Hội Quốc Liên trong việc
giữ gìn hịa bình, an ninh quốc tế, sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ hai
cùng những hậu quả thảm khốc đối với loài người và nỗ lực lớn lao cảu các
nước trong việc thiết lập một thể chế tồn cầu có vai trị hiệu quả hỏn đối với
hịa bình và an ninh quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu quan trọng đạt được, trong các thập
niên gần đây, người ta bắt đầu bàn luận nhiều hơn tới những tác động tiêu cực
của các biện pháp trừng phạt phi vũ trang và đơi lúc khía cạnh tiêu cực này còn
trở thành chủ đề bàn tán được bàn tán được quan tâm hơn cả những tác dụng mà
các biện pháp này đã đạt được. Hơn thế nữa, trong một thế giới mà xu thế đối
thoại, hợp tác đang ngày càng mạnh mẽ thì các biện pháp trừng phạt phi vũ
trang với tâm điểm là việc cắt đứt quan hệ ngoại giao, kinh tế đang ngày càng có
những ảnh hưởng to lớn đối với không chỉ quốc gia là mục tiêu của các biện
pháp trừng phạt mà còn cả đối với các quốc gia khác. Chính vì những lý do trên
mà việc nghiên cứu những vấn đề xung quanh các biện pháp trừng phạt phi vũ
trang trở nên vô cùng hấp dẫn. Đây cũng chính là lí do tại sao e chọn đề tài “các
biện pháp trừng phạt phi vũ trang của Hôi Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc Những vấn đề pháp lý và thực tiễn” là đề tài niên luận của mình.
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hà

4

SVTH: Nguyễn Thị Phượng


Trừng phạt phi vũ trang trong liên hợp quốc những vấn đề lý luận và thực tiễn

2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề pháp lý và thực tiễn của các biện pháp
trừng phạt phi vũ trang của Hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc (HĐBALHQ) đề

tài đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm đống góp cho việc nâng cao hiệu
quả cảu việc áp dụng các biện pháp này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
+ Đối tượng nghiên cứu
- Hiến chương Liên Hợp Quốc
- Tuyên bố năm 1970 của Đại hội đồng LHQ về những nguyên tắc của Luật
quốc tế
+ Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi về không gian: Niên luận nghiên cứu những vẫn đề lý luận và
thực tiễn trên phạm vi toàn cầu
- Pham vi về thời gian:
Cơ sở lý luận, nội dung và ý nghĩa của các biện pháp chủ yếu được dựa
trên cơ sở khoa học của pháp luật quốc tế hiện đại
Thực tiễn áp dụng biện pháp phi vũ trang đã được áp dụng ở một số nước
trong những năm gần đây
4. Phương pháp nghiên cứu
Nội dung của niên luận được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luật chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
Để giải quyết những vấn đề khoa học của niên luận tác giả chủ yếu sử dụng
các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
- Phân tích số liệu thống kê;
- Phương pháp so sánh;
- Phương pháp phân tích quy phạm (những quy phạm của Hiến chương
Liên hợp quốc…)

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hà

5

SVTH: Nguyễn Thị Phượng



Trừng phạt phi vũ trang trong liên hợp quốc những vấn đề lý luận và thực tiễn

-Phương pháp trừu trượng hóa được sử dụng để khái quát ý nghĩa của các
biện pháp;
- Phương pháp quy nạp
5. Nội dung nghiên cứu
Ngoài lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, niên luận được kết cấu
thành hai chương như sau:
- Chương 1. Các biện pháp trừng phạt phi vũ trang trong hiến chương
LHQ.
- Chương 2. Thực tiễn áp dụng các biện pháp trừng phạt phi vũ trang cảu
HĐBALHQ và những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các
biện pháp trừng phạt phi vũ trang của HĐBALHQ.

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hà

6

SVTH: Nguyễn Thị Phượng


Trừng phạt phi vũ trang trong liên hợp quốc những vấn đề lý luận và thực tiễn

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1.
CÁC BIỆN PHÁP TRỪNG PHẠT PHI VŨ TRANG
TRONG HIẾN CHƯƠNG LIÊN HỢP QUỐC
1.1. Chức năng và nhiệm vụ của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc

Trong khoa học luật Quốc tế, khái niệm, chức năng của tổ chức Quốc tế
liên chính phủ đã được nhắc tới khá nhiều nhưng theo cách hiểu chung nhất thì
đó là các phương thức tiến hành hoạt động mà tổ chức sử dụng nhằm đạt được
mục đích và nhiệm vụ được giao trong phạm vi thẩm quyền và quyền hạn của
mình.
Là một trong sáu cơ quan chính của LHQ – Tổ chức quốc tế có vai trò và
ảnh hưởng to lớn nhất trên thế giới, thẩm quyền và quyền hạn của HĐBA không
vượt quá những thẩm quyền và quyền hạn chung mà các quốc gia thành viên
trao cho LHQ, hay nói cách khác, việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của nó
đều nhằm tới việc thực hiện các mục tiêu của LHQ được quy định rõ ràng, cụ
thể tại điều 1 của Hiến Chương. Hơn thế nữa, điều 24 HCLHQ quy định: “Để
đảm bảo cho LHQ hành động mau chóng và có hiệu quả, các hội viên LHQ trao
cho HĐBA trách nhiệm trong việc duy trì hịa bình và an ninh quốc tế …” [1].
Khi thực thi những quyết định liên quan đến vấn đề này, HĐBA hành động với
tư cách thay mặt cho các thành viên LHQ nhưng vẫn đảm bảo tuân thủ đầy đủ
những mục đích và nguyên tắc của LHQ đã được quy định tại Điều 25 của Hiến
chương. [1].
Để thực hiện chức năng của mình, các hoạt động của HĐBA tập trung vào
hai lĩnh vực chính:
Đó là giải quyết hịa bình các tranh chấp Quốc tế ( quy định cụ thể tại
chương VI của hiến chương ) và duy trì hịa bình và đấu tranh chống xâm lược
( theo quy định tại chương VII của hiến chương ).
Nội dung cụ thể như sau:
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hà

7

SVTH: Nguyễn Thị Phượng



Trừng phạt phi vũ trang trong liên hợp quốc những vấn đề lý luận và thực tiễn

Thứ nhất, đối với việc giải quyết các tranh chấp quốc tế, thì:
- HĐBA có quyền yêu cầu, kiến nghị và mời các bên tranh chấp giải quyết
tranh chấp bằng một trong những biện pháp giải quyết hịa bình nêu ở điều 33
như: đàm phán, điều tra trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án, sử dụng phương
thức hoặc những hiệp định khu vực, hoặc bằng các biện pháp tự lựa chọn khác;
- Khi xét thấy sự tiếp diễn của một tranh chấp hay tình thế có nguy cơ đưa
đến sự bất hịa giữa các dân tộc hoặc đe dọa hịa bình và an ninh Quốc tế,
HĐBA có quyền tiến hành điều tra ( điều 34 );
- Soạn thảo các kế hoạch bằng cách thiết lập hệ thống các quy định về vũ
trang;
- Khi thực hiện thẩm quyền này, HĐBA thường dùng phương thức khuyến
nghị, Hội đồng đề nghị các bên nên dựa vào một phương thức giải quyết xác
định để đi đến một giải quyết tối ưu nhất;
Thứ hai, về việc duy trì hịa bình và đấu tranh chống xâm lược, thì được
quy định cụ thể từ điều 39 đến điều 51 trong chương VII của hiến chương.
Theo đó, ở giai đoạn thứ nhất, HĐBA tiến hành xác định thực tại một sự đe
dọa hịa bình, phá hoại hịa bình hoặc hành vi xâm lược, kiến nghị các biện pháp
giải quyết, kể cả các biện pháp tạm thời ( điều 39 và điều 40 cảu hiến chương ).
Giai đoạn thứ hai, HĐBA quyết định và yêu cầu các quốc gia thành viên
tiến hành các biện pháp trừng phạt phi vũ trang như: đình chỉ toàn bộ hay một
phần quan hệ kinh tế, đường sắt, hàng hải, hàng khơng, bưu chính, điện tín, vơ
tuyến điện và các phương tiện liên lạc khác, cắt đứt quan hệ ngoại giao nhằm
thực hiện các nghị quyết của Hội đồng ( điều 41 hiến chương ).
Giai đoạn thứ ba, HĐBA quyết định áp dụng các biện pháp vũ trang nhằm
trừng phạt quốc gia có hành vi xâm lược theo đúng thủ tục ( điều 42 của hiến
chương ).
Ngoài các thẩm quyền chính nêu trên, HĐBA cịn có thẩm quyền trong:


GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hà

8

SVTH: Nguyễn Thị Phượng


Trừng phạt phi vũ trang trong liên hợp quốc những vấn đề lý luận và thực tiễn

-Kiến nghị kết nạp thành viên mới và các điều kiện để các quốc gia có thể
trở thành thành viên quy chế Tịa án công lý quốc tế;
-Thực hiện các chức năng quản thác cảu LHQ trong các “vùng chiến lược”;
- Kiến nghị Đại hội đồng bổ nhiệm tổng thư kí và cùng đại hội đồng tổ
chức bầu cử các thẩm phán của Tòa án công lý Quốc tế;
Qua các quy định cảu hiến chương Liên Hợp Quốc có thể thấy LHQ nói
riêng và cộng đồng quốc tế nói chung đã trao cho HĐBA những trọng trách vơ
cùng to lớn trong việc gìn giữ hịa bình và an ninh thế giới. Để thực hiện tốt
trọng trách này địi hỏi HĐBA phải ln đề cao tính minh bạch và khách quan
khi đưa ra những quyết định giải quyết các vấn đề liên quan.
1.2. Các biện pháp duy trì hịa bình và an ninh thế giới của HĐBALHQ.
Thay mặt cho tất cả các thành viên của LHQ, HĐBALHQ có trách nhiệm
chính về duy trì hịa bình và an ninh quốc tế. Trên thực tế, những chức năng mà
HĐBALHQ được trao có thể được coi là nhằm ba mục tiêu: gìn giữ hịa bình,
vãn hồi hịa bình và kiến tạo hịa bình. Do đó, để có thể thực hiện được chức
năng của mình trong việc duy trì hịa bình và an ninh thế giới, HĐBA đã sử
dụng rất nhiều biện pháp khác nhau. Việc sử dụng các biện pháp nào trước hết
căn cứ trên những quy định chung của luật quốc tế, quy chế hoạt động của
HĐBA và đặc biệt phải dựa trên diễn biến của tình hình cụ thể. VÀ trong quá
trình hoạt động của mình, đã có một số biện pháp được HĐBA sử dụng liên
quan tới các sự kiện cụ thể trên thế giới như sau:

- Biện pháp tố cáo một quốc gia nào đó về hành vi vi phạm pháp luật quốc
tế.
Ví dụ: trước chủ nghĩa Apacthai với chủ trương phân biệt chủng tộc và đối
xử dã man với người da đen ở Nam Phi cũng như các dân tộc Châu Á đến định
cư, đặc biệt là người Ấn Độ của chính quyền Nam Phi, nhiều văn kiện của LHQ
coi Apactahi là “một tội ác chống nhân loại”, vi phạm luật pháp quốc tế, hiến
chương của LHQ, đe dọa nghiêm trọng hịa bình và an ninh của các nước. Từ
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hà

9

SVTH: Nguyễn Thị Phượng


Trừng phạt phi vũ trang trong liên hợp quốc những vấn đề lý luận và thực tiễn

năm 1986, Đại Hội đồng của LHQ thông qua nghị quyết chống Apacthai trong
các hoạt động thể thao, kêu gọi các nước thành viên cắt đứt quan hệ ngoại giao
và áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với Nam Phi. [2]
-Biện pháp kêu gọi các quốc gia tranh chấp.
Ví dụ: trường hợp xung đột ở Biển Đơng.
- Biện pháp đóng vai trị hịa giải để giải quyết tranh chấp.
Ví dụ: các biện pháp áp dụng đối với các vấn đề Palextin [3], tranh chấp
giữa Ấn Độ và Pa-kit-xtan, tranh chấp gần đây ở các nước Châu Á. [4]
- Biện pháp xác nhận ( đưa ra kết luận về nhận định tình hình ).
Ví dụ: Hội đồng cho rằng chế độ Apacthai là tôi ác chống nhân loại.
- Biện pháp khẳng định quyết định và nghị quyết của Đại Hội đồng, kế
hoạch và đề xuất của tổng thư ký LHQ.
Ví dụ: các khuyến nghị liên quan Đảo Síp, Trung Đơng.
-Biện pháp cử các quan sát viên quân sự và thành lập ủy ban để giám sát

việc tuân theo yêu cầu về đình chỉ chiến sự, thõa thuận đình chiến.
Ví dụ: lực lượng quan sát viên ở Trung Đông.
- Biện pháp giải quyết một cách trực tiếp các tranh chấp quốc tế, xác định
các điều kiện giành độc lập của các dân tộc.
Ví dụ: sự kiện Bangladet, sự kiện Namibia.
- Biện pháp cưỡng bức và trừng phạt.
Ví dụ: biện pháp trừng phạt kinh tế chống lại chế độ Apacthai Nam Phi
trước đây, Trừng phạt kinh tế đối với Triều Tiên để làm chậm chương trình vũ
khí của nước này.
-Biện pháp tiến hành chiến dịch quân sự để cũng cố hịa bình.
Ví dụ: lực lượng qn sự của LHQ vào Đảo Síp năm 1964, tham gia giải
quyết tranh chấp Siri – Do Thái năm 1974, vào Li Băng năm 1978.
- Biện pháp thảo luận về tình hình thế giới ở cấp độ ngoại trưởng của các
Quốc gia ủy viên Hội đồng.
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hà

10

SVTH: Nguyễn Thị Phượng


Trừng phạt phi vũ trang trong liên hợp quốc những vấn đề lý luận và thực tiễn

Ví dụ: cuộc thảo luận nam 1990 đã thiết lập vùng cấm bay ở I rắc.
Các biện pháp được HĐBALHQ áp dụng đã đóng một vai trị vơ cùng quan
trọng trong việc giải quyết hịa bình và các tranh chấp quốc tế cũng như bảo vệ
và giữ gìn nền hịa bình, an ninh của thế giới.
Tuy nhiên, trên thực tế thì khơng phải tất cả các biện pháp này trong mọi
trường hợp đều có hiệu quả, bởi việc áp dụng các biện pháp ấy ra sao còn phụ
thuộc vào từng bối cảnh trên thực tế của quốc tế, thiện chí và sự hợp tác của các

quốc gia với nhau.
1.3. Khái niệm biện pháp trừng phạt phi vũ trang
Hiện nay, trong luật quốc tế cũng như trong hiến chương LHQ cũng chưa
đưa ra được khái niệm về trừng phạt phi vũ trang. Song mặc dù chưa đưa ra
được khái niệm nhưng tại điều 41 hiến chương LHQ đã ghi nhận: “HĐBA có
thẩm quyền quyết định những biện pháp nào phải được áp dụng mà không liên
quan tới việc sử dụng vũ lực để thực hiện các nghị quyết cảu Hội đồng và có thể
yêu cầu các thành viên LHQ áp dụng những biện pháp ấy. Các biện pháp này có
thể là cắt đứt tồn bộ hay từng phần quan hệ kinh tế, đường sắt, đường hàng hải,
hàng khơng, bưu chính, điện tín, vơ tuyến điện và các phương tiện liên lạc khác,
kể cả cắt đứt quan hệ ngoại giao”[1]. Như vây, các biện pháp trừng phạt phi vũ
trang có thể là các biện pháp kinh tế, tài chính, ngoại giao...
Từ đây HĐBA đã đưa ra một định nghĩa như sau: “trừng phạt phi vũ trang
là việc HĐBA sử dụng các biện pháp kinh tế, tài chính, ngoại giao hay các biện
pháp khác khơng sử dụng tới lực lượng vũ trang nhằm tác động một cách gián
tiếp hay trực tiếp tới chủ thể bị trừng phạt theo các quy định hiện hành của luật
pháp quốc tế”.
Theo định nghĩa này, có thể nêu ra một số đặc trưng của các biện pháp
trừng phạt phi vũ trang do Hội đồng bảo an áp dụng như sau:
- Được HĐBA thơng qua trên cơ sở các nghị quyết có tính bắt buộc đối với
các quốc gia thành viên.
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hà

11

SVTH: Nguyễn Thị Phượng


Trừng phạt phi vũ trang trong liên hợp quốc những vấn đề lý luận và thực tiễn


- Đây là những biện pháp không liên quan tới việc sử dụng vũ lực nhằm
thực hiện các nghị quyết của HĐBA.
- Khác với biện pháp trừng phạt vũ trang hay các biện pháp khác được
HĐBA sử dụng nhằm thực hiện mục tiêu gìn giữ hịa bình và an ninh thế giới,
các biện pháp trừng phạt phi vũ trang có phạm vi rộng. Theo quy định tại điều
41 hiến chương LHQ “những biện pháp trừng phạt có thể gồm những việc đình
chỉ một phần hay toàn bộ những qua hệ kinh tế, đường sắt, hàng hải, hàng
khơng, bưu chính, điện tín, vơ tuyến điện và các phương tiện liên lạc khác, cũng
như việc cắt đứt quan hệ ngoại giao” [1]. Trên thực tế, các biện pháp trừng phạt
thường được áp dụng gồm:
- Cấm xuất khẩu, nhập khẩu những hàng hóa nhất định.
- Phong tỏa tài sản của các ngân hàng, cá nhân, tổ chức của quốc gia đó tại
nước ngồi mà có liên quan tới các hoạt động đe dọa hịa bình và an ninh thế
giới.
- Cấm mọi giao dịch kinh tế, thương mại,của quốc gia đó với các quốc gia
khác.
- Cấm, hạn chế việc đi lại của cơng dân quốc gia đó.
- Cấm, hạn chế thực hiện các hoạt động giao thông với bên ngoài bằng
những phương tiện nhất định.
- Yêu cầu các nước thành viên LHQ không được mua bán, chuyển giao một
cách trực tiếp hay gián tiếp bất kỳ laoij hàng hóa nào liên quan tới các hoạt động
đe dọa hịa bình, an ninh của quốc gia vi phạm cũng như các loại hàng hóa xác
định khác, ngoại trừ các nhu yếu phẩm thiết yếu cho đời sống; phong hóa, đóng
băng các quỹ, các trợ giúp về mặt tài chính.
Việc chấp hành những quy định này của các nước thành viên phải được báo
cáo bằng văn bản lên HĐBA trong khỏa thời gian xác định kể từ ngày nghị
quyết của HĐBA được thông qua.

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hà


12

SVTH: Nguyễn Thị Phượng


Trừng phạt phi vũ trang trong liên hợp quốc những vấn đề lý luận và thực tiễn

1.4. Cơ sở của các biện pháp trừng phạt phi vũ trang của HĐBALHQ
Thứ nhất, theo hiến chương LHQ, tổ chức quốc tế này có thẩm quyền áp
dụng các biện pháp trừng phạt quốc tế cần thiết nhằm mục đích duy trì hịa bình
và an ninh quốc tế, tăng cường sự phát triển mạnh mẽ và ổn định của cộng đồng
quốc tế. Trong số các biện pháp này, biện pháp trừng phạt phi vũ trang ln
được xem xét một cách thích đáng. Cụ thể, điều 41 hiến chương LHQ ghi nhận
“HĐBA có quyền quyết định những biện pháp nào phải được áp dụng mà không
liên quan tới việc sử dụng vũ lực để thực hiện các nghị quyết của Hội đồng và
có thể yêu cầu các thành viên LHQ áp dụng những biện pháp ấy…”.
Thứ hai, với tư cách là một tổ chức quốc tế liên chính phủ do các quốc gia
thành viên, quyền năng chủ thể luật quốc tế của tổ chức này phụ thuộc vào phạm
vi đó. Vì vậy các biện pháp trừng phạt phi vũ trang do HĐBA áp dụng cũng phải
tuân thủ các quy định của hiến chương. Hiến chương không những quy định về
chức năng và quyền hạn của các cơ quan thực thi việc cưỡng chế mà còn quy
định những trường hợp nào thì các biện pháp chế tài có thể được sử dụng. Cụ
thể, khoản 1 điều 1 hiến chương quy định: “LHQ theo đuổi những mục đích duy
trì hịa bình và an ninh và để đạt được mục đích đó, tiến hành những biện pháp
cụ thể có hiệu quả, để phịng ngừa và loại trừ mối đe dọa hịa bình, cấm mọi
hành vi xâm lược hoặc phá hoại hịa bình khác” [1] và nhằm “đảm bảo cho LHQ
hành động nhanh chống và hiệu quả, các thành viên LHQ trao cho HĐBA trách
nhiệm chính trong sự nghiệp duy trì hịa bình và an ninh quốc tế và thừa nhận
khi làm những nhiệm vụ do trách nhiệm ấy đặt ra thì HĐBA hành động với tư
cách thay mặt cho các thành viên LHQ” ( khoản 1 điều 24 ) [1].

Thứ ba, bên cạnh các yếu tố trên, một yếu tố qua trọng không thể bỏ qua
vơi stuw cách là cơ sở để HĐBA áp dụng các biện pháp trừng phạt phi vũ trang
đó là mức độ vi phạm của hành vi cũng như nguy cơ đe dọa của hành vi đó đối
với hịa bình và an ninh thế giới. Cụ thể, việc không tuân thủ đầy đủ và nghiêm
túc nghị quyết của HĐBA khiến cho nguy cơ và mức độ phá hoại hịa bình và an
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hà

13

SVTH: Nguyễn Thị Phượng


Trừng phạt phi vũ trang trong liên hợp quốc những vấn đề lý luận và thực tiễn

ninh thế giới gia tăng, đây là cơ sở để HĐBA ban hành một nghị quyết trừng
phạt buộc các chủ thể phải thay đổi thái độ và cách hành xử sao cho phù hợp với
các quy định chung của luật pháp quốc tế.
1.5. Mục đích và ý nghĩa của các biện pháp trừng phạt phi vũ trang.
1.5.1. Mục đích
Thứ nhất, đảm bảo thi hành các nghị quyết của HĐBA nói riêng và cảu luật
quốc tế nói chung. Tức là các nghị quyết cảu HĐBA có hiệu lực pháp lý bắt
buộc và các quốc gia thành viên có nghĩa vụ phải tuân thủ đầy đủ, phù hợp với
hiến chương LHQ. Tuy nhiên trên thực tế, việc tuân thủ các quy định này không
phải lúc nào cũng được thực hiện, vì khi bị buộc áp dụng tức là quốc gia đó đã
vi phạm, làm trái với quy định của luật quốc tế, nên họ luôn đứng trước hai sự
lựa chọn, một là tiếp tục vi phạm những nguyên tắc, quy định của hiến chương
LHQ và luật quốc tế và chấp nhận những hậu quả bất lợi từ các biện pháp trừng
phạt, hai là chấp hành đầy đủ những yêu cầu pháp lý đặt ra để những quyền lợi
của mình được khơi phục. Mà trên thực tế, nhiều nước lựa chọn cách thứ nhất,
như Triều Tiên chẳng hạn, hiện tại đang chịu sức ép từ nhiều phía, gánh chịu các

biện pháp trừng phạt phi vũ trang do LHQ sử dụng về mặt kinh tế.
Thứ hai, mục đích mà các biện pháp trừng phạt phi vũ trang hướng tới là
việc thực hiện mục tiêu và ý nghĩa cao cả của LHQ trong việc góp phần duy trì
hị bình và an ninh thế giới. Với tính chất là những biện pháp cưỡng chế phi vũ
trang, các biện pháp này là công cụ quan trọng điều chỉnh mối quan hệ giữa các
quốc gia, là cơ sở để đảm bảo cho các mục tiêu ổn định, hịa bình thế giới.
1.5.2. Ý nghĩa
Thứ nhất, bằng việc thông qua một nghị quyết trừng phạt tại HĐBA, các
biện pháp trừng phạt phi vũ trang thể hiện sự lên án, phản đối mạnh mẽ của
cộng đồng quốc tế đối với hành vi của quốc gia vi phạm. Trước những hành vi
có nguy cơ đe dọa tới hịa bình và an ninh thế giới, tất cả các quốc gia với tinh
thần u chuộng hịa bình mong muốn nhanh chóng thống nhất những biện pháp
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hà

14

SVTH: Nguyễn Thị Phượng


Trừng phạt phi vũ trang trong liên hợp quốc những vấn đề lý luận và thực tiễn

hữu hiệu để có thể đẩy lùi nguy cơ này, và một nghị quyết được thơng qua chính
là sự thể hiện rõ ràng nhất mong muốn đó. Điều này cũng đồng nghĩa với việc
quốc gia vi phạm sẽ phải đối mặt với rất nhiều bất lợi khi trở thành mục tiêu của
sự trừng phạt.
Thứ hai, các biện pháp trừng phạt phi vũ trang có những tác đọng tích cực
tới ý thức và hành vi tôn trong pháp luật quốc tế của các chủ thể luật quốc tế. Cụ
thể, những hạn chế đối với các quốc gia mục tiêu được tạo ra trên cơ sở các biện
pháp trừng phạt phi vũ trang chính là lời cảnh báo sâu sắc đến tất cả các chủ thể
khác của luật quốc tế về một hệ quả xấu có thể xảy ra nếu bất cứ chủ thể nào cố

ý vi phạm các quy định của pháp luật quốc tế. Điều này buộc các chủ thể phải có
những cân nhắc thận trọng trước khi có bất cứ hành vi nào có khả năng đe dọa
hịa bình và an ninh thế giới. Đây khơng chỉ là mục đích riêng của các biện pháp
trừng phạt phi vũ trang mà là biện pháp chung của tất cả các biện pháp cưỡng
chế được quy định trong hiến chương LHQ.
1.6. Điều kiện áp dụng các biện pháp phi vũ trang
Để có thể áp dụng các biện pháp trừng phạt phi vũ trang, HĐBA phải tuân
thủ những quy định được ghi nhận tại hiến chương LHQ. Cụ thể, theo điều 39
và điều 40 của Hiến chương [1], HĐBA trước hết sẽ xem xét một tình hình cụ
thể để xác định liệu rằng tình hình đó có đe dọa hịa bình hoặc có một hành vi
xâm lược hay khơng. Nếu nhận thấy có những nguy cơ từ những hành vi trên,
HĐBA sẽ ra quyết định xác nhận tình hình và yêu cầu của bên liên quan thực
hiện các nghĩa vụ để khôi phục lại trật tự pháp lý đã bị xâm hại. Khi những nguy
cơ đe dọa này vẫn tiếp tục tiếp diễn, HĐBA có quyền đưa ra nghị quyết áp dụng
những biện pháp trừng phạt đẻ đảm bảo cho việc thi hành các quy định của
mình. Như vậy, các biện pháp trừng phạt của HĐBA sẽ được áp dụng khi thõa
mãn các điều kiện sau:

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hà

15

SVTH: Nguyễn Thị Phượng


Trừng phạt phi vũ trang trong liên hợp quốc những vấn đề lý luận và thực tiễn

- Thứ nhất, Hội đồng đã ra nghị quyết xác nhận có hành vi đe dọa hịa bình
và an ninh thế giới, đồng thời yêu cầu quốc gia đã thực hiện những hành vi đó
phải tuân thủ những quy định được đưa ra trong nghị quyết.

- Thứ hai, quốc gia vi phạm không chấp hành những nghĩa vụ theo yêu cầu
của HĐBA, vẫn tiếp tục có hành vi được xác định là sự đe dọa hịa bình và an
ninh quốc tế.
- Thứ ba, theo khoản 2 điều 27 HĐBA phải ra được nghị quyết về các biện
pháp trừng phạt với sự chấp thuận của ít nhất chín ủy viên, trong đó tất cả năm
thành viên thường trực phải bỏ phiếu thuận.[1]
Sau khi ba bước trên được tiến hành, một nghị quyết trừng phạt chính thức
ra đời làm cơ sở pháp lý cho việc áp đặt các biện pháp trừng phạt phi vũ trang
đối với các chủ thể có hành vi vi phạm theo quy định của hiến chương LHQ.
1.7. Cách thức tiến hành các biện pháp trừng phạt phi vũ trang
Theo quy định tại điều 25 hiến chương LHQ, khi một nghị quyết của
HĐBA được thơng qua thì tất cả các quốc gia thành viên đều có trách nhiệm
phải phục tùng và thực hiện các quyết định đó, đây là nguyên tắc quan trọng thể
hiện rõ nét vai trò chủ đạo của HĐBA trong việc giữ gìn hịa bình và an ninh thế
giới[1] và tại điều 48 của hiến chương LHQ quy định những hành động cần thiết
cho việc thi hành hành những nghị quyết của Hội đồng bảo an đẻ duy trì hào
bình và an ninh quốc tế sẽ do tất cả các thành viên hay một số thành viên của
LHQ áp dụng tùy theo nhận định của HĐBA.[1]
Những nghị quyết ấy sẽ do thành viên của LHQ trực tiếp thi hành hay thi
hành bằng những hành động của họ trong các tổ chức quốc tế hữu quan mà họ là
thành viên. Điều này, để đảm bảo cho việc thực thi có hiệu quả nhứng biện phát
trừng phạt của mình, HĐBA sẽ xem xét, nhận định xem các biện pháp này sẽ do
tất cả các thành viên hay một số thành viên của LHQ áp dụng, bên cạnh đó, việc
áp dụng chúng sẽ được các quốc gia chấp hành một cách trực tiếp và thông qua

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hà

16

SVTH: Nguyễn Thị Phượng



Trừng phạt phi vũ trang trong liên hợp quốc những vấn đề lý luận và thực tiễn

những hành động cảu quốc gia trong các cơ quan quốc tế hữu quan mà họ tham
gia.
Sau khi ra quyết định những biện pháp trừng phạt phi vũ trang sẽ được áp
dụng, HĐBA đồng thời đóng vai trị là cơ quan giám sát hoạt động tuân theo các
nghị quyết mà mình đưa ra nhằm mục đích đảm bảo tính cưỡng chế của những
quyết định đó.
Việc tiến hành áp dụng các biện pháp trừng phạt phi vũ trang của HĐBA
bao gồm các giai đoạn tổng thể từ khâu thủ tục ( ra quyết định, vân bản hướng
dẫn thi hành ) cho đến các khâu triển khai thực sự trên thực tế một chế độ trừng
phạt đối với chủ thể vi phạm, trong nhiều truongf hợp cịn có giai đoạn khắc
phục hậu quả. Việc triển khai các biện pháp trừng phạt phi vũ trang trên thực tế
khơng hề đơn giản, do đó để đảm bảo thi hành một cách có hiệu quả những biện
pháp này, song song với việc ban hành các nghị quyết, để thực hiện các biện
pháp trừng phạt, các ủy ban trừng phạt sẽ được thành lập nhằm phối hợp với
quốc gia chịu trách nhiệm trong thực thi và giám sát các nghị quyết này. Thành
viên của các ủy ban bao gồm đại diện tại LHQ của các quốc gia là thành viên
của HĐBA. Các ủy ban sẽ phải tuân theo các hướng dẫn của HĐBA, đồng thời
chịu trách nhiệm báo cáo lên cơ quan có liên quan.
Trong q trình triển khai thi hành các nghị quyết trừng phạt, các biện pháp
trừng phạt sẽ được xem xét áp dụng sao cho tương xứng với hành vi của quốc
gia và do đó có thể được thay đổi theo hướng nới lỏng hoặc gia tăng các biện
pháp trừng phạt phù hợp với biến chuyển của tình hình. Và khi các quốc gia mục
tiêu chấp nhận những điều kiện được đưa ra bởi các nghị quyết hay các biểu
hiện của sự đe dọa tơi hịa bình và an ninh thế giới khơng cịn nữa, HĐBA sẽ
tiến hành bàn bạc thơng qua một nghị quyết mới chính thức tuyên bố chấm dứt
việc áp dụng các biện pháp trừng phạt phi vũ trang đối với các quốc gia mục

tiêu.

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hà

17

SVTH: Nguyễn Thị Phượng


Trừng phạt phi vũ trang trong liên hợp quốc những vấn đề lý luận và thực tiễn

Vấn đề khắc phục hậu quả do việc thực thi các lệnh trừng phạt của HĐBA
nói chung và trừng phạt phi vũ trang nói riêng cũng được dự liệu theo quy định
tại điều 50 hiến chương. Theo đó: “nếu HĐBA áp dụng những biện pháp đề
phòng hoặc cưỡng chế đối với một quốc gia nào đó thì bất cứ một quốc gia nào
khác dù là thành viên của LHQ hay khơng nếu gặp khó khăn đặc biệt về kinh tế,
do sự thi hành những biện pháp nói trên gây ra đều có quyền đề xuất ý kiến lên
HĐBA về việc giải quyết những khó khăn ấy”.[1] Đây là một sự quan tâm hợp
lý, giúp cho các biện pháp trừng phạt phát huy tối đa hiệu quả của mình cũng
như ngăn chặn những thiệt hại khơng đáng có trong q trình thực thi trên thực
tế.

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hà

18

SVTH: Nguyễn Thị Phượng


Trừng phạt phi vũ trang trong liên hợp quốc những vấn đề lý luận và thực tiễn


CHƯƠNG 2.
THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP
TRỪNG PHẠT PHI VŨ TRANG CỦA HỘI ĐỒNG BẢO AN
LIÊN HỢP QUỐC
2.1. Các biện pháp trừng phạt vi vũ trang được Hội đồng bảo an liên
hợp quốc áp dụng trong một số trường hợp cụ thể
2.1.1. Các biện pháp áp dụng trong thời kỳ chiến tranh lạnh
Thời kỳ chiến tranh lạnh ( 1946 – 1991 ), HĐBA chỉ có hai lần sử dụng
được các biện pháp trừng phạt phi vũ trang, một đối với Rhodesia vào năm
1966, lần hai với Nam Phi năm 1977 [5]. Nguyên nhân là do sự phân chia hai
khối Đông – Tây ( Mỹ - Liên Xô ) tranh giành, lôi kéo các nước mới độc lập, sự
xuất hiện của vũ khí hạt nhân,… cho nên vào thời điểm này HĐBA rất khó có
được sự đồng thuận đối với các vấn đề quốc tế, dẫn đến việc các điều khoản của
LHQ khó có thể được thực hiện. Theo cơ chế hoạt động của Liên hợp quốc, các
biện pháp trừng phạt quốc gia thành viên Liên hợp quốc phải có sự nhất trí của
các thành viên thường trực Đại hội đồng bảo an trong khi đó thời kỳ này thế giới
phân chia thành hai khối mâu thuẫn với nhau gay gắt (giữa Liên xơ với Hoa Kỳ)
cho nên Liên hợp quốc khó có cơ hội đề thơng qua các nghị quyết trừng phạt
bằng các biện pháp phi vũ lực đối với những quốc gia vi phạm luật quốc tế.
2.1.2. Các trường hợp áp dụng biện pháp trừng phạt phi vũ trang.
Giai đoạn thứ hai, sau chiến tranh lạnh kết thúc, thực tế này hoàn toàn thay
đổi. HĐBA ngày càng trở nên năng động hơn và đồng thuận hơn trong việc đạt
được các nghị quyết duy trì hịa bình và an ninh quốc tế. Kể từ năm 1990, đã có
nhiều nghị quyết trừng phạt được ban hành nhằm giải quyết hịa bình và các sự
kiện xảy ra trên thế giới. Cụ thể, từ năm 1990 đến 2007, HĐBA đã áp đặt hang
loạt các biện pháp trừng phạt: đối với I rắc vào năm 1990; Lybya năm 1992 và
năm 2001; Sômali năm 1992; Siera Leone vào năm 1997; Afghanistan vào năm
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hà


19

SVTH: Nguyễn Thị Phượng


Trừng phạt phi vũ trang trong liên hợp quốc những vấn đề lý luận và thực tiễn

1999;… Các năm gần đây như Bờ biển Ngà năm 2004; Xu - đăng năm 2005;
Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên năm 2006; Cộng hịa hồi giáo Iran năm
2006…[5]
Từ đó cho thấy, ngoài sự tăng lên về số lượng các biện pháp trừng phạt phi
vũ trang được áp dụng sau khi chiến tranh lạnh kết thúc còn thể hiện được vai
trò trung lập, khách quan của HDBALHQ trong việc giải quyết hòa bình các sự
kiện diễn ra trên thế giới. Điều này giúp cho vai trò và tầm ảnh hưởng của LHQ
cũng không ngừng gia tăng. Liên hợp quốc đã áp dụng biện pháp trừng phạt vi
vũ trang trong một số trường hợp cụ thể:
Về trường hợp của Triều Tiên
Sau khi Bắc Triều Tiên tiến hành vụ thử hạt nhân năm 2009, Hội Đồng Bảo
An Liên Hợp Quốc thông qua biện pháp cấm cung cấp vũ khí và thiết bị quân sự
cho nước này. Hầu hết các sán phẩm có tiềm năng sử dụng kép – tức là có thể được
quân đội sử dụng – bao gồm máy vi tính, có thể thuộc hạng mục cấm được xuất
khẩu từ hầu hết các quốc gia vào Bắc Triều Tiên. Ngoài ra họ cũng cấm xuất khẩu
các xa xỉ phẩm, nhưng cho phép mỗi quốc gia tự đưa ra định nghĩa riêng đó gồm
những đồ gì. Nhật Bản đưa ra danh sách cấm xuất khẩu sang Bình Nhưỡng gồm
thịt bị, trứng cá muối, cá ngừ, xe hơi loại sang, xe máy, camera. [7]
Chính phủ Mỹ cũng trừng phạt kinh tế Bắc Triều Tiên bằng cách cấm xuất
khẩu những vật dụng như máy nghe nhạc iPod, tivi plasma và xe chạy điện
Segway sang nước này, đó là nỗ lực hướng địn trừng phạt thương mại vào
những vật dụng mà họ cho rằng Chủ tịch Kim Chính Nhật và những người giàu

có ở Bắc Triều Tiên có thể ưa thích. Danh sách dự kiến cịn bao gồm cả rượu
cognac, đồng hồ Rolex, thuốc lá, xe hơi, xe máy Harley Davidson, thậm chí cả
motor lướt song Jet Ski. Lệnh cấm bao gồm cả các thiết bị thể thao và âm nhạc.
Trước đây, Bắc Triều Tiên từng thu 13,5 triệu USD/năm từ dự án hợp tác
khai thác khu du lịch vùng núi Kim Cương và đã thu tổng cộng 20 triệu USD từ
dự án phát triển khu công nghiệp Kaesong liên doanh với Hàn Quốc. Tuy nhiên
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hà

20

SVTH: Nguyễn Thị Phượng


Trừng phạt phi vũ trang trong liên hợp quốc những vấn đề lý luận và thực tiễn

đến năm 2009, nhiều nước tẩy chay hoạt động thương mại và phong tỏa tài
khoản của Triều Tiên, do lệnh trừng phạt của LHQ theo nghị quyết số 1874 của
Hội Đồng Bảo An LHQ được HĐBALHQ nhất trí thơng qua vào ngày 12 tháng
6 năm 2009. Nghị quyết này, thể theo Chương VII, Điều 41 của Hiến chương
Liên Hợp Quốc, thi hành sự trừng phạt về kinh tế và thương mại đối với Cộng
hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên ( Bắc Triều Tiên ) và khuyến khích các quốc
gia thành viên Liên Hợp Quốc lục soát tàu hang của Bắc Triều Tiên, sau vụ thử
hạt nhân dưới lòng đất do nước này thực hiện vào ngày 25 tháng 5 năm 2009.
Với việc nhất trí thơng qua nghị quyết, Hội đồng đã lên án vụ thử hạt nhân là sự
“vi phạm và rõ rang không tôn trọng” các nghị quyết 1695 và 1718 trước đây
của Hội đồng. Nghị quyết này giờ đây đã gắn liền với luật pháp quốc tế.[9]
Liên quan các vụ thử tên lửa của nước này, đã đẩy nền kinh tế vốn yếu kém
của Bắc Triều Tiên càng lún sâu vào khó khăn. Một thiệt hại lớn với kinh tế
Triều Tiên là quan hệ lien Triều đã xấu đi nghiêm trọng đã khiến kim ngạch
thương mại của nước này với Hàn Quốc giảm mạnh, trong khi nguồn viện trợ từ

miền nam cũng giảm đáng kể. Bộ Thống Nhất Hàn Quốc cho biết, tháng 6 năm
2009, kim ngạch thương mại liên Triều gmar 20% so với cùng kỳ năm 2008, từ
mức 147 triệu USD vào tháng 6 năm 2008 xuống còn 118 triệu USD trong năm
2009. Kim ngạch thương mại của các dự án kinh tế liên Triều, trong đó có khu
cơng nghiệp Kaesong đã giảm gần 12%. Dặc biệt, mức hỗ trợ đối với miền Bắc
đã giảm 83% từ gần 5,7 triệu USD xuống còn 1 triệu USD trong cùng kỳ. Việc
quan hệ liên Triều căng thẳng cịn đe dọa cơng ăn việc làm của hàng chục nghìn
người lao động Triều Tiên tại khu công nghiệp Kaesong vốn là biểu tượng hợp
tác kinh tế giữa hai miền, nhiều doanh nghiệp Hàn Quốc đã lên phương án rút
khỏi khu công nghiệp Kaesong.[9]
Việc Liên Hợp Quốc và các nước siết chặt lệnh cấm vận đồng thời quan hệ
kinh tế liên Triều xấu đi nghiêm trọng, trong khi 1/3 dân số thiếu đói, khiến tình
hình kinh tế của Bắc Triều Tiên được đánh giá là tồi tệ đặc biệt là năm 2009,
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hà

21

SVTH: Nguyễn Thị Phượng


Trừng phạt phi vũ trang trong liên hợp quốc những vấn đề lý luận và thực tiễn

được đánh giá như thời kỳ năm 1994 Tổ chức lương nông thế giới ( FAO ) từng
dự báo, trong năm 2009, Mặc dù Triều Tiên nhập khẩu lương thực, vẫn có
khoảng 9 triệu người, tức là hơn 1/3 trong tổng số 24 triệu dân ở nước này thiếu
đói trong khi tổ chức này chỉ có thể giúp được 2,27 triệu người.[9]
Trường hợp của Liberi
Vào năm 2001 sau khi cơ quan này phát hiện cựu tổng thống Chales Taylor
đã bán kim cương để tài trợ cho các cuộc xung đột dân cư trong nước và tạ các
nước khác ở Tây Phi. Cùng lúc đó, một ủy ban trừng phạt cũng được thành lập

nhằm giám sát quá trình thực hiện nghị quyết này. Đến năm 2003, một ủy ban
mới được thành lập nhằm thay thế ủy ban cũ đồng thời củng cố thêm những
nhiệm vụ mới cho ủy ban này. Nghị quyết 1521 ( 2003 ) được ban hành khi mà
những biện pháp được áp đặt theo nghị quyết 1341 ( 2001 ) tiếp tục bị vi phạm,
đặc biệt thông qua sự tranh giành ảnh hưởng quân sự. Mặc cho mọi nỗ lực nhằm
khôi phục lại sự ổn định của khu vực này, chiến sự và thỏa thuận hịa bình tồn
diện vẫn khơng được thi hành một cách thống nhất tại Liberi, nhiều khu vực vẫn
tiếp tục tồn tại ngồi tầm kiểm sốt của chính phủ chuyển giao của Liberia, đặc
biệt là tại các khu vực nơi mà các phái đoàn của LHQ chưa được triển khai.
Sự khai thác bất hợp pháp những tài nguyên thiên nhiên như kim cương, gỗ
và việc buôn lậu những tài ngun này cùng với tình trạng bn bán vũ khí bất
hợp pháp tiếp tục là những nguyên nhân làm trầm trọng them tình trạng xung
đột về chất đốt và khủng hoảng tại Tây Phi, đặc biệt là tại Liberia.
Để giả quyết tình trạng này, sau nghị quyết 1521 hàng loạt các nghị quyết
khác được ban hành trong đó ghi nhận những thay đổi trong các biện pháp trừng
phạt và yêu cầu đối với ủy ban, đáng kể nhất là tại nghị quyết 1532 ( 2004 ),
1683 ( 2006 ), 1903 ( 2009 ). Chế độ trừng phạt này được mở rộng gần đây nhất
và được thay đổi bởi nghị quyết 1903 vào ngày 17 tháng 12 năm 2009. Các biện
pháp có hiện tại gồm: Biện pháp cấm vận vũ trang, cấm đi lại và đóng băng tài
khoản.
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hà

22

SVTH: Nguyễn Thị Phượng


Trừng phạt phi vũ trang trong liên hợp quốc những vấn đề lý luận và thực tiễn

Trong nghị quyết 1903 chấm dứt việc cấm vận vũ trang đối với chính

quyền của Liberia, đoạn 6 nghị quyết, HĐBA quyết định rằng tất cả các quốc
gia sẽ thông báo tới UB bất kỳ tàu vũ khi và những vật liệu liên quan được cung
cấp cho chính quyền Liberia, hay bất kỳ sự cung cấp tài trợ cũng như sự tư vấn
hoặc đào tạo liên quan tới các hoạt động quân sự.
2.2. Những ưu điểm và hạn chế trong việc áp dụng biện pháp phi vũ
trang của LHQ.
2.2.1. Những ưu điểm
Là một trong những biện pháp được HĐBA sử dụng nhằm gìn giữ hịa bình
và an ninh thế giới, các biện pháp trừng phạt phi vũ trang có những ưu điểm nổi
bật so với các biện pháp khác.
Với mục tiêu không sử dụng tới lực lượng vũ trang, các biện pháp trừng
phạt phi vũ trang được đánh giá là không tạo ra những thương vong hay thiệt hại
to lớn ngay tức thì. Bên cạnh đó, với phạm vi rộng bao gồm các biện pháp về
kinh tế, tài chính, ngoại giao và các lĩnh vực khác, các biện pháp trừng phạt phi
vũ trang đem lại nhiều lựa chọn hơn khi áp dụng vào giải quyết những tình
huống cụ thể. Hơn thế nữa, các biện pháp trừng phạt phi vũ trang cũng được
đánh giá là ít tốn kém hơn so với việc chi phí cho những biện pháp quân sự.
Cụ thể:
Về trường hợp của I rắc xâm lược Cô oét năm 1990, hang loạt các nghị
quyết của HĐBA đã được thông qua nhằm chấm dứt hành động xâm lược này.
Trong số các nghị quyết được ban hành, nghị quyết 661 là nghị quyết đầu tiên
chính thức áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với quốc gia này. Sau khi
hàng loạt các biện pháp trừng phạt phi vũ trang khác được ban hành, Chính phủ
nước này đã hợp tác khi cho phép các thanh tra vũ khí của LHQ giám sát phá
hủy vũ khí của quốc gia này.
Đối với Triều Tiên, mặc dù hiện tại về vấn để của Triều Tiên là một bài
tốn khó đối với LHQ, song LHQ đã áp dụng biện pháp phi vũ trang về kinh tế
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hà

23


SVTH: Nguyễn Thị Phượng


Trừng phạt phi vũ trang trong liên hợp quốc những vấn đề lý luận và thực tiễn

và tài chính đối với Triều Tiên, Reuters ngày 15/5 dẫn nội dung một báo cáo bí
mật của LHQ cho biết, lệnh cấm vận vũ khí và các hạn chế quốc tế khác về
thương mại với Bắc Triều Tiên đã không dừng được chương trình vũ khí hạt
nhân bất hợp pháp của Bình Nhưỡng nhưng dường như đã làm trì hỗn nó đáng
kể.
“Trong khi việc áp dụng các biện pháp trừng phạt đã không làm dừng lại
sự phát triển của các chương trình hạt nhân và tên lửa đạn đạo, nhưng nó đã làm
trì hỗn đáng kể… thơng qua việc đã bóp nghẹt các khoản tài trợ lớn của Tiều
Tiên” – bản báo cáo 52 trang cho biết.
Sự thành công quan trọng nhất là ở Nam Phi, nơi mà những nghị quyết đã
buộc chính quyền Apacthai phải chấp nhận những nguyên tắc quan trọng
( Coovadia, 1999 ).
2.2.2. Những hạn chế trong việc áp dụng các biện pháp trừng phạt phi
vũ trang
Bên cạnh những thành công đạt đucợ trong việc giải quyết hiệu quả các
nguy cơ xảy ra góp phần quan trọng vào việc gìn giữ hịa bình và an ninh thế
giới, thì nó cịn tồn tại một số hạn chế.
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, các biện pháp trừng phạt phi vũ trang
được LHQ sử dụng một cách phổ biến hơn và nó được đánh giá là một biện
pháp cưỡng chế tập thể mang ít tính bạo lực hơn là các biện pháp quân sự. Tuy
nhiên, việc sử dụng gia tăng biện pháp này của LHQ đã tạo ra rất nhiểu khó
khăn đặc biệt đối với những đối tượng bị áp dụng cũng như việc giám sát quá
trình áp dụng, ảnh hưởng và tác động khơng đúng mục đích của chúng.
Những hạn chế này trước hết xuất phát từ một thực tế là mục đích của việc áp

đặt biện pháp trừng phạt thường không xác định một cách rõ rang. Thực vậy, trong
nhiều trường hợp chúng dường như thay đổi nhiều lần. Sự kết hợp giữa tính hay
thay đổi và khơng rõ ràng tạo ra những khó khăn cho HĐBA trong việc xác định
liệu mục đích của các biện pháp trừng phạt đã được hay chưa và thời điểm nào là
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hà

24

SVTH: Nguyễn Thị Phượng


Trừng phạt phi vũ trang trong liên hợp quốc những vấn đề lý luận và thực tiễn

hợp lý để bãi bỏ các biện pháp trừng phạt. Trong khi đó, HĐBA thường được xem
xét như một cơ quan mang tính chính trị hơn là một cơ quan tài phán, do đó khi
quyết định áp đặt một nghị quyết trừng phạt đối với một quốc gia, điều quan trọng
là HĐBA thường được xác định những tiêu chí để có thể xác định được khi nào
mục đích của những biện pháp trừng phạt được coi là đạt được.
Việc giám sát và đánh giá hiệu quả của quá trình triển khai áp dụng các
biện pháp trừng phạt phi vũ trang của HĐBA cũng gặp phải rất nhiều khó khăn,
trở ngại. Nhiệm vụ này trở nên phức tạp do miễn cưỡng chấp nhận việc triển
khai những chương trình giám sát hay điều tra quốc tế của các chính phủ vì
những lý do chủ quyền hay lợi ích kinh tế.Hay trong nhiều trường hợp, chính
quyền của quốc gia mục tiêu đã lợi dụng vai trị chính trị của mình nhằm đưa ra
những thơng tin sai lệch về việc áp dụng các biện pháp trừng phạt của HĐBA,
điều này tạo ra những cách hiểu sai lầm về mục tiêu của việc trừng phạt, cũng
như tâm lý chống đối, bất hợp tác của cộng đồng dân cư.
Ví dụ 1:
Ở Yugoslavia trong những năm 1990, các công ty của bộ y tế nhận định
rằng các biện pháp trừng phạt đã gia tăng gấp đôi tỉ lệ tử vong ở trẻ em. Trong

thực tế, thay vì đó tỷ lệ này đã giảm đi nhanh chóng hơn bất kỳ Quốc gia láng
giềng nào. Ở Serbia, giửa những năm 1992 và 1995, cá biện pháp trừng phạt bị
lên án là đã làm ngăn cản việc nhập khẩu thuốc men bằng việc gây ra cuộc trì
hỗn đối với các hợp đồng cung ứng thuốc. Tuy nhiên trong cùng thời điểm
đó,các cuộc giám sát của LHQ về nhập khẩu đã đưa ra những đảm bảo cho việc
thanh toán đối với các nhà cung ứng thuốc men đối với quốc gia này. Tuy nhiên,
những biện pháp trừng phạt chấm dứt thì nhiều cơng ty lại chấm dứt việc buôn
bán với bộ y tế và sự thiếu hụt những loại dược phẩm cần thiết bắt đầu trở nên
tồi tệ hơn. Như vậy là trái với những nhận thức cho rằng các biện pháp trừng
phạt phi vũ trang của HĐBALHQ chính là nguyên nhân gây ra sự thiếu hụt
ngiêm trọng về thuốc men ở Serbia, các biện pháp này đã giúp sự đảm bảo sự
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hà

25

SVTH: Nguyễn Thị Phượng


×