Tải bản đầy đủ (.pdf) (325 trang)

Luận án tiến sĩ huyền thoại về nguồn gốc của các tộc người ở việt nam tiếp cận từ góc độ nhân học văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.57 MB, 325 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LƯ THỊ THANH LÊ

HUYỀN THOẠI VỀ NGUỒN GỐC
CỦA CÁC TỘC NGƯỜI Ở VIỆT NAM
TIẾP CẬN TỪ GÓC ĐỘ NHÂN HỌC VĂN HÓA

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

HÀ NỘI - 2018

z


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LƯ THỊ THANH LÊ

HUYỀN THOẠI VỀ NGUỒN GỐC
CỦA CÁC TỘC NGƯỜI Ở VIỆT NAM
TIẾP CẬN TỪ GÓC ĐỘ NHÂN HỌC VĂN HÓA

Chuyên ngành: Văn học dân gian
Mã số: 62 22 01 25

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


1. GS.TS. Lê Chí Quế
2. TS. Hoàng Cầm

Hà Nội - 2018

z


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi. Khi sử
dụng các thông tin, tài liệu tham khảo của các nhà khoa học khác, tơi đều thực hiện
trích dẫn một cách đầy đủ, trung thực. Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về luận án
của mình.

z


LỜI CẢM ƠN
Luận án của tơi đã được hồn thành trong vòng năm năm (từ năm 2013 đến
năm 2018). Trong suốt thời gian này, tôi luôn nhận được sự hướng dẫn, chỉ bảo tận
tình của hai người thầy hướng dẫn đáng kính: GS.TS. Lê Chí Quế và TS. Hồng
Cầm. Là một người bước đầu thể nghiệm trên con đường nghiên cứu văn học dân
gian từ góc độ nhân học văn hóa, được hai bậc thầy trong lĩnh vực văn học dân gian
và nhân học văn hóa hướng dẫn là một vinh dự vô cùng to lớn đối với tôi, và tôi thực
sự đã được học hỏi rất nhiều điều từ các thầy. Thầy Lê Chí Quế đã dành nhiều tâm
huyết chỉ bảo cho tơi từ khi tơi cịn là sinh viên năm thứ ba tại Trường ĐH
KHXH&NV. Những bài học về nghiên cứu type và motif văn học dân gian, nghiên
cứu văn học dân gian trong môi trường diễn xướng,… đã giúp hình thành nên những
kiến thức nền tảng về nghiên cứu folklore cho tôi. Với những ý kiến tư vấn của thầy,
tơi đã có nhiều động lực trong việc tiếp cận với xu hướng nghiên cứu văn học dân

gian từ góc độ nhân học văn hóa, tiếp cận folklore với góc nhìn đương đại, sử dụng
các lý thuyết hiện hành của ngành folklore trên thế giới để giải quyết các vấn đề của
ngành văn học dân gian tại Việt Nam. Thực hiện một luận án thuộc chuyên ngành
văn học dân gian, áp dụng hướng tiếp cận nhân học văn hóa, tơi may mắn được TS.
Hồng Cầm là người đồng hướng dẫn. TS. Hồng Cầm đã giúp tơi rất nhiều trong
việc củng cố phông lý thuyết liên quan đến tộc người, quan điểm tiếp cận huyền
thoại nguồn gốc trong nghiên cứu tộc người,…Sự tư vấn cụ thể của thầy trong việc
tổ chức kết cấu luận án, thực hiện điền dã dân tộc học, xử lý dữ liệu, lập luận,… đã
giúp cho luận án của tôi ngày càng đạt được gần hơn với mục đích đặt ra ban đầu.
Những phân tích, sự phản biện của thầy từ góc nhìn của một nhà nhân học văn hóa
cùng với nguồn tư liệu mà thầy cung cấp giúp tôi mở mang thêm được nhiều điều về
chủ đề, phương pháp nghiên cứu. Dù rằng trong khn khổ luận án này, tơi cịn có
những hạn chế, nhưng tôi hi vọng rằng trong tương lai, tôi sẽ triển khai được thêm
những ý tưởng nghiên cứu, hoàn thiện hơn những kết quả nghiên cứu từ những gợi ý
của thầy. Tơi xin chân thành cảm ơn GS.TS. Lê Chí Quế và TS. Hồng Cầm đã cùng
giúp đỡ và ln tạo điều kiện tốt nhất để tơi có thể hồn thành nghiên cứu có tính
chất liên ngành này.

z


Cùng với hai thầy hướng dẫn, tôi cũng đã vinh dự nhận được sự hướng dẫn,
góp ý của nhiều thầy cô, nhiều chuyên gia trong lĩnh vực văn học dân gian, dân tộc
học, đặc biệt là các thầy cô đã góp ý cho tơi trong buổi seminar về luận án cấp bộ
mơn (GS.TS. Nguyễn Xn Kính, GS.TS. Vũ Anh Tuấn, PGS.TS. Lâm Bá Nam,
PGS.TS. Phạm Thu Yến, PGS.TS. Nguyễn Thị Huế, PGS.TS. Nguyễn Thị Nguyệt)
và buổi bảo vệ luận án cấp cơ sở (GS.TS. Vũ Anh Tuấn, PGS.TS. Trần Thị An,
PGS.TS. Nguyễn Thị Huế, PGS.TS. Nguyễn Thị Bích Hà, PGS.TS. Nguyễn Văn
Chính, PGS.TS. Nguyễn Thị Nguyệt, TS. Nguyễn Việt Hương). Tôi xin chân thành
cảm ơn các thầy cô, các chuyên gia vì những sự giúp đỡ q báu mà tơi nhận được.

Tôi xin chân thành cảm ơn Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam đã hỗ trợ cho tôi
trong một cơng trình sáng tạo liên quan đến luận án. Xin cảm ơn TS. Phạm Thị
Trâm, Giám đốc Nhà xuất bản Đại học Quốc gia cùng các cán bộ của Nhà xuất bản
đã tạo điều kiện cho tôi xuất bản Tuyển tập huyền thoại về nguồn gốc các tộc người
Việt Nam, giúp tôi công bố phần tư liệu huyền thoại nguồn gốc tộc người liên quan
đến luận án này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đối với Ban Giám hiệu Trường
ĐH KHXH&NV, các cán bộ Phòng Đào tạo và các phòng ban của Trường ĐH
KHXH&NV, Ban Chủ nhiệm khoa Văn học, Trợ lý đào tạo Khoa Văn học đã tạo
điều kiện tối ưu cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án.
Tơi xin chân thành cảm ơn các thầy Lê Chí Quế, Nguyễn Hùng Vĩ, Trần
Thanh Việt tại Bộ môn Văn học dân gian, Khoa Văn học đã giúp đỡ và chia sẻ công
việc chuyên môn, tạo điều kiện cho tơi hồn thành luận án.
Tơi xin chân thành cảm ơn tồn thể các thầy cơ tại Khoa Văn học, các thầy cô
tại Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG Hà Nội và các đồng nghiệp, các nhà nghiên cứu
trân quý thuộc các trường Đại học, Viện nghiên cứu,… đã cho tơi những góp ý, những
thơng tin giá trị cho luận án của tôi và dành cho tôi nhiều sự quan tâm, chia sẻ.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các cơ quan, đồn thể, người dân các dân tộc
mà tơi có dịp tiếp xúc đã cung cấp thơng tin, hỗ trợ tư liệu, tạo điều kiện tốt nhất cho
công việc nghiên cứu, điền dã của tơi và đã khích lệ, cổ vũ tôi trong việc thực hiện
luận án này.

z


Xin cảm ơn những người anh, chị, em, bạn bè thân thiết luôn cổ vũ, chia sẻ
với tôi trong quá trình thực hiện luận án. Đặc biệt, sự cổ vũ thường xuyên của gia
đình là nguồn động lực quan trọng đối với tơi. Tơi xin cảm ơn tồn thể gia đình nội,
ngoại đã ln ủng hộ, chia sẻ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện luận án.
Chồng tôi – Trần Hữu Hưng và con trai lớn - Nguyên Khang đã luôn chia sẻ và tạo

điều kiện tối ưu cho tôi làm nghiên cứu. Con trai nhỏ - Tuấn Tú đã cùng suy nghĩ về
luận án khi còn ở trong bụng tôi và sau này cũng luôn chia sẻ những niềm vui, những
kết quả của luận án với tôi. Luận án này được hồn thành là món q tơi dành tặng
cho những yêu thương, san sẻ mà toàn thể gia đình đã dành cho tơi.
Tơi rất mong tiếp tục nhận được sự phê bình, góp ý và các thơng tin chia sẻ từ
các quý thầy cô, các học giả, các q vị đồng nghiệp,… để tơi có thể tiếp tục phát
triển và hồn thiện nghiên cứu của mình.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng

Tác giả luận án

Lư Thị Thanh Lê

z

năm 2018


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG .......................................................................................... 5
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ .................................................................................... 5
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 6
1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................................... 6
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................ 8
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 8
4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 9
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ................................................................ 14

6. Cấu trúc của luận án ................................................................................................ 15
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI ........................ 16
1.1. Cơ sở lý luận ........................................................................................................ 16
1.1.1. Huyền thoại và huyền thoại về nguồn gốc tộc người ....................................... 16
1.1.2. Tộc người và các tộc người ở Việt Nam ........................................................... 25
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngồi nước liên quan đến đề tài ........ 35
1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngồi .................................................................. 35
1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước .................................................................. 38
Tiểu kết ....................................................................................................................... 45
CHƯƠNG 2. HUYỀN THOẠI VỀ NGUỒN GỐC TRONG KHO TÀNG TỰ SỰ
DÂN GIAN CỦA CÁC TỘC NGƯỜI Ở VIỆT NAM ........................................... 46
2.1. Khái quát về kho tàng tự sự dân gian về nguồn gốc của các tộc người ở Việt Nam ..... 46
2.2. Quan niệm về tổ tiên của tộc người trong các tự sự dân gian về nguồn gốc của
các tộc người ở Việt Nam ........................................................................................... 49
2.2.1. Các vị tổ tiên chung và tổ tiên riêng của các tộc người ................................... 50
2.2.2. Các motif tổ tiên của các tộc người .................................................................. 56
2.2.3. Sự tương đồng, khác biệt trong quan niệm về tổ tiên của người Kinh và các tộc
người thiểu số ở Việt Nam .......................................................................................... 60
2.3. Ký ức về quê gốc, quá trình di cư của tộc người trong các tự sự dân gian về
nguồn gốc của các tộc người ở Việt Nam ................................................................... 72
2.3.1. Ký ức về quê gốc gắn với địa điểm ở trong hay ngoài biên giới Việt Nam ngày
nay ............................................................................................................................... 72
1

z


2.3.2. Ký ức về quê gốc của các tộc người thuộc các nhóm ngơn ngữ khác nhau ..... 74
2.3.3. Ký ức về sự di cư xuyên quốc gia, các nhà nước và các vương quốc cổ .......... 76
2.3.4. Những điểm chưa sáng tỏ trong ký ức về quê gốc của tộc người ..................... 79

Tiểu kết ....................................................................................................................... 84
CHƯƠNG 3. HUYỀN THOẠI VỀ NGUỒN GỐC TRONG CÁC THỰC HÀNH
VĂN HÓA CỦA CÁC TỘC NGƯỜI Ở VIỆT NAM ............................................ 85
3.1. Huyền thoại về nguồn gốc thể hiện trong các nghi lễ gia đình............................ 86
3.1.1. Nghi lễ sinh nở .................................................................................................. 86
3.1.2. Nghi lễ trưởng thành ......................................................................................... 88
3.1.3. Nghi lễ tang ma ................................................................................................. 91
3.1.4. Nghi lễ thờ cúng tổ tiên thực hiện tại gia đình ................................................. 97
3.2. Huyền thoại về nguồn gốc thể hiện trong các nghi lễ, lễ hội của cộng đồng tộc
người ......................................................................................................................... 100
3.2.1. Nghi lễ, lễ hội của cộng đồng người Kinh ...................................................... 101
3.2.2. Nghi lễ, lễ hội của các cộng đồng tộc người thiểu số ..................................... 103
3.3. Huyền thoại về nguồn gốc thể hiện trong các tục lệ của người dân trong đời sống
sinh hoạt hằng ngày .................................................................................................. 107
3.3.1. Tục lệ kể chuyện .............................................................................................. 107
3.3.2. Tục lệ chữa bệnh ............................................................................................. 108
3.3.3. Tục kiêng ......................................................................................................... 110
3.3.4. Phong tục về trang phục, hoa văn, vật dụng .................................................. 111
Tiểu kết ..................................................................................................................... 113
CHƯƠNG 4. ĐỘNG THÁI CỦA CÁC HUYỀN THOẠI VỀ NGUỒN GỐC
CỦA CÁC TỘC NGƯỜI Ở VIỆT NAM TRONG XÃ HỘI ĐƯƠNG ĐẠI ...... 114
4.1. Động thái của huyền thoại về nguồn gốc của người Kinh trong xã hội Việt Nam
đương đại .................................................................................................................. 114
4.1.1. Sự vận động của các tự sự dân gian về nguồn gốc của người Kinh............... 114
4.1.2. Sự vận động của các thực hành văn hóa liên quan đến nguồn gốc của người
Kinh ........................................................................................................................... 127
4.2. Động thái của huyền thoại về nguồn gốc các tộc người thiểu số trong xã hội Việt
Nam đương đại.......................................................................................................... 132
2


z


4.2.1. Sự vận động của các tự sự dân gian về nguồn gốc của tộc người thiểu số .... 133
4.2.2. Sự vận động của các thực hành văn hóa liên quan đến huyền thoại nguồn gốc
của người thiểu số ..................................................................................................... 142
4.3. Một số nhận định, kiến giải về sự tích hợp, tiếp biến huyền thoại nguồn gốc của
các tộc người ở Việt Nam hiện nay .......................................................................... 149
Tiểu kết ..................................................................................................................... 153
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 154
DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN ................................................................................................................ 158
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 159

3

z


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
ĐH: Đại học
QG: Quốc gia
TGLA: Tác giả luận án
Nxb: Nhà xuất bản
[X, Y, tr. 15]: Tài liệu tham khảo của tác giả X, năm Y, trang 15
sđd: sách đã dẫn
tlđd: tài liệu đã dẫn
tr.: trang
TP: Thành phố
TT: Thứ tự


4

z


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Thống kê các motif tổ tiên trong tự sự dân gian về nguồn gốc của
nhóm người Kinh và nhóm người Nguồn ......................................................... 61
Bảng 4.1. Thành phần tộc người của những người tham gia phỏng vấn tại Lễ hội
Đền Hùng năm 2016 ...................................................................................... 121
Bảng 4.2. Quê quán của những người tham gia phỏng vấn tại Lễ hội Đền Hùng
năm 2016 .................................................................................................................. 121
Bảng 4.3. Bảng tổng hợp về việc người dân thuộc tộc người thiểu số biết hay
khơng biết huyền thoại nguồn gốc của tộc người mình ................................... 135

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 1.1. Sơ đồ phân tích huyền thoại của Roland Barthes ....................................... 21
Hình 2.1. Các tầng bậc quan hệ về chủ đề của các huyền thoại về nguồn gốc .......... 48
Hình 2.2. Phả hệ họ Hồng Bàng (theo cách giải thích thứ nhất) ................................ 51
Hình 2.3. Phả hệ họ Hồng Bàng (theo cách giải thích thứ hai) .................................. 51
Hình 2.4. Sơ đồ phân tầng các nhóm motif, tiểu nhóm motif và motif về tổ tiên tộc
người trong kho tàng tự sự dân gian về nguồn gốc của các tộc người ở Việt Nam ... 57
Hình 2.5. Biểu đồ tương quan giữa các nhóm motif tổ tiên và các nhóm ngơn ngữ .. 58
Hình 2.6. Biểu đồ tỉ lệ các quan niệm về đất tổ của loài người, tộc người trong các tự
sự dân gian về nguồn gốc của Việt Nam .................................................................... 73
Hình 2.7. Biểu đồ thể hiện quan niệm về đất tổ trong các tự sự dân gian về nguồn gốc
của các tộc người thuộc các nhóm ngơn ngữ khác nhau ở Việt Nam ......................... 74
Hình 2.8. Quá trình di cư của người Thái theo truyện “Quam tơ mương” (theo cách
giải thích của Nguyễn Văn Hịa) ................................................................................. 82

Hình 4.1. Sơ đồ q trình tiếp thu và trao truyền huyền thoại nguồn gốc quốc gia –
dân tộc của một số người thiểu số ở Việt Nam ......................................................... 127

5

z


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa tộc người với tộc người đa số là người Kinh và
53 tộc người thiểu số khác. Sự đa dạng về thành phần tộc người này cũng gắn liền
với sự phức tạp về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam, bởi để hiểu được nguồn gốc của
người Việt Nam, khơng thể khơng tìm hiểu nguồn gốc của các tộc người cấu thành
cũng như mối liên hệ giữa các tộc người từng sinh sống trên đất Việt Nam trong lịch sử.
Việc hiểu biết về nguồn gốc dân tộc Việt Nam không chỉ là nhu cầu của giới khoa học
mà cịn là mối quan tâm của đơng đảo người dân.
Mặc dù “việc hiểu biết về quá khứ đặc biệt quan trọng đối với con người thời
hiện tại” [Nam C. Kim, 2015, tr. 4], các nhà khoa học Việt Nam ở trong và ngồi
nước vẫn ln gặp những thách thức khi tìm hiểu về nguồn gốc của người Việt Nam.
Chẳng hạn, nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy bày tỏ tâm tư: “Cho đến tận hôm nay,
chúng ta vẫn chưa trả lời được hai câu hỏi cơ bản: người Việt Nam là ai, từ đâu
đến?” Ông cho rằng việc hiểu về nguồn gốc là điều cốt yếu để hiểu về căn cước, bản
sắc của người Việt Nam: “Không biết cội nguồn xuất xứ làm sao biết gốc gác tổ tiên,
làm sao biết bản sắc văn hóa?” [Hà Văn Thùy, 2008, tr. 14].
Bối cảnh quốc gia đa dân tộc của Việt Nam khiến cho việc tìm hiểu về nguồn
gốc của người Việt Nam càng trở nên thách thức với giới nghiên cứu. Nam C. Kim
cho rằng “việc thống nhất rằng cái gì là hoặc đã từng là Việt Nam thật sự khó khăn”
[Nam C. Kim, 2015, tr. 3]. Đã có nhiều thành quả nghiên cứu về nguồn gốc của
người Việt Nam thông qua việc nghiên cứu lịch sử, khảo cổ học, ngôn ngữ học, sinh

học (gen, ADN),…, tuy nhiên giới khoa học trong và ngồi nước vẫn cịn nhiều tranh
cãi về nguồn gốc của người Việt Nam nói chung và từng tộc người ở Việt Nam nói
riêng. Tìm hiểu nguồn gốc của các tộc người thông qua huyền thoại về nguồn gốc là
một hướng tiếp cận khác, nhằm khai thác các dữ liệu folklore để soi chiếu một số góc
khuất về nguồn gốc các tộc người ở Việt Nam. Người dân các tộc người ở Việt Nam
vốn lưu truyền những câu chuyện về nguồn gốc mà các thế hệ đi trước gửi gắm cho
các thế hệ con cháu. Huyền thoại về nguồn gốc (origin myth, hay myth of descent) là
những câu chuyện giải thích về sự hình thành của con người và tạo vật. Mỗi tộc
người thường có những huyền thoại về nguồn gốc riêng, phản ánh cách nhận thức, lí
giải riêng của mình về sự hình thành, quá trình tồn tại, phát triển của tộc người.
Chính những huyền thoại về nguồn gốc được lưu truyền từ thưở xa xưa tới ngày nay
là công cụ quý báu giúp chúng ta hiểu biết thêm quan niệm của các tộc người về gốc
6

z


gác, mối quan hệ nội bộ cũng như quan hệ tương tác giữa các tộc người trong quá
khứ và trong hiện tại.
Các huyền thoại nguồn gốc vừa là di sản riêng của từng tộc người, vừa là tài
sản chung, kết quả của sự giao lưu, tiếp biến văn hóa của các tộc người ở Việt Nam
trong suốt quá trình lịch sử. Huyền thoại nguồn gốc của các tộc người thể hiện mối
quan hệ tương tác giữa các tộc người chung địa bàn sinh sống, các tộc người có mối
liên hệ về nguồn gốc, giữa tộc người đa số và tộc người thiểu số trong một quốc gia
thống nhất đa dân tộc. Cũng như các tác phẩm, các hiện tượng văn học dân gian
khác, các huyền thoại nguồn gốc của các tộc người cũng không tồn tại một cách biệt
lập, tĩnh tại, mà ln có sự biến đổi trong q trình người dân của các tộc người
tương tác với nhau, như đúng nhận định của nhà nghiên cứu Lê Chí Quế: “Mỗi dân
tộc thiểu số, bên cạnh việc tạo cho mình một truyền thống văn học dân gian mang
bản sắc riêng, cịn tham gia vào q trình giao lưu văn hóa nữa. Sự giao lưu này

thường diễn ra trong các mối quan hệ sau đây: giữa một dân tộc thiểu số với dân tộc
chủ thể; giữa các dân tộc vốn cùng một nguồn gốc; giữa các dân tộc trên cùng một
địa bàn cư trú” [Lê Chí Quế, 2001, tr. 220].
Huyền thoại về nguồn gốc của các tộc người ở Việt Nam, dù được ra đời từ
thời xa xưa hay được sáng tạo trong khoảng thời gian gần đây, dù phải trải qua
những thử thách của thời gian, qua những cuộc biến thiên, q trình thiên di của các
tộc người, vẫn ln có sức sống mãnh liệt. Các huyền thoại này vẫn tồn tại trong kho
tàng tự sự dân gian, trong những tín ngưỡng, nghi lễ, các hoạt động sinh hoạt của các
cộng đồng tộc người. Chúng giúp lưu truyền những hiểu biết, quan niệm về cội
nguồn, tổ tiên của mỗi tộc người từ thế hệ này sang thế hệ khác, và góp phần định
hình sợi dây liên hệ giữa những người đồng tộc, giữa các tộc người trong cùng khu
vực sinh sống, các tộc người sinh sống trong cùng quốc gia và thậm chí xuyên quốc
gia. Các huyền thoại về nguồn gốc được xem là có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo
ra và duy trì ý niệm về nguồn gốc chung (shared descent) của các thành viên của các
cộng đồng tộc người, cộng đồng quốc gia – dân tộc, từ đó tạo nên một cộng đồng
tưởng tượng (imagined community) của những người có chung nguồn gốc (dù thực
hay tưởng tượng). Việc hiểu về huyền thoại nguồn gốc tộc người có vai trò quan
trọng trong việc tiếp cận vấn đề tộc người, các quan hệ tộc người ở Việt Nam. Chính
vì vậy, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu về các huyền thoại về nguồn gốc của các tộc
người ở Việt Nam để có thể từ các dữ liệu văn học, văn hóa dân gian mà tìm hiểu về
cộng đồng tộc người, cộng đồng quốc gia – dân tộc ở Việt Nam. .
7

z


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Tiếp cận huyền thoại nguồn gốc của các tộc người ở Việt Nam dưới góc độ
nhân học, tìm hiểu các huyền thoại này cả trong truyền thống và trong đời sống
đương đại, luận án này hướng tới việc tìm hiểu nhận thức, ý niệm của người dân các

tộc người ở Việt Nam về cội nguồn, tổ tiên của tộc người mình qua các tự sự dân
gian về nguồn gốc; tìm hiểu sự biểu đạt huyền thoại về nguồn gốc qua các thực hành
văn hóa của các tộc người; tìm hiểu động thái của các huyền thoại về nguồn gốc tộc
người trong xã hội đương đại Việt Nam để nhận biết sự tiếp biến, tích hợp huyền
thoại về nguồn gốc giữa các tộc người và tác động của chúng với quan hệ nội bộ tộc
người, quan hệ liên tộc người trong cộng đồng quốc gia – dân tộc Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án bao gồm các công việc cụ thể: Tập hợp, hệ
thống hóa các văn bản huyền thoại về nguồn gốc của các tộc người ở Việt Nam trong
các tài liệu nghiên cứu văn học dân gian, dân tộc học, nhân học, lịch sử,… hiện có;
Thống kê, so sánh, đối chiếu các tác phẩm huyền thoại về nguồn gốc của các tộc
người để tìm hiểu quan niệm của mỗi tộc người về tổ tiên sinh ra loài người, tộc
người, quê gốc và quá trình di cư, phân ngành của tộc người, mối quan hệ giữa các
tộc người, nguồn gốc sự khác biệt giữa các tộc người; Khảo cứu các tài liệu thứ cấp,
từ đó mơ tả sự tồn tại của huyền thoại về nguồn gốc trong các thực hành văn hóa của
các tộc người (trong các thực hành văn hóa của gia đình và của cộng đồng tộc
người); Thơng qua các tài liệu sơ cấp và thứ cấp, phân tích những xu hướng biến đổi,
vận động của các huyền thoại về nguồn gốc trong đời sống đương đại, sự tác động
của các huyền thoại về nguồn gốc đối với sự cố kết cộng đồng tộc người, cộng đồng
quốc gia, dân tộc hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là huyền thoại về nguồn gốc của các tộc
người ở Việt Nam. Luận án tập trung tìm hiểu những huyền thoại giải thích về tổ tiên
của tộc người, quê gốc, quá trình di cư của các tộc người và nguồn gốc về mối quan
hệ giữa các tộc người.
Luận án có phạm vi nghiên cứu không chỉ bao gồm các huyền thoại được lưu
giữ trong kho tàng tự sự dân gian (thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích,
truyện thơ,…) mà cịn bao gồm cả các dạng thức kể, các hình thức biểu đạt huyền
thoại nguồn gốc trong các thực hành văn hóa của các cộng đồng tộc người và cộng
đồng quốc gia hiện nay (các nghi lễ, tín ngưỡng, tục lệ, lễ hội, hoạt động giáo dục
quốc dân,…).

8

z


4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận án này, người nghiên cứu sử dụng hướng tiếp cận liên
ngành, sử dụng kết hợp các lý thuyết, phương pháp nghiên cứu của ngành nhân học
văn hóa và khoa nghiên cứu văn học dân gian. Ngoài ra, luận án cũng sử dụng kết
hợp phương pháp nghiên cứu của một số ngành khoa học liên quan khác, như thống
kê toán học. Cụ thể như sau:
4.1. Các phương pháp nghiên cứu của ngành văn học dân gian
Văn học dân gian (folk literature)1 là ngành nghiên cứu về các tác phẩm ngôn
từ được lưu truyền theo phương thức truyền miệng. Trên thế giới, ngành nghiên cứu
văn học dân gian thường ít khi tồn tại với tư cách một khoa học độc lập mà thường
được đặt trong ngành nghiên cứu folklore (văn hóa dân gian), văn học, nhân học,…
Ngành văn học dân gian có các trường phái nghiên cứu như loại hình học, thi pháp
học, chức năng luận,… với các lý thuyết và phương pháp nghiên cứu cụ thể khác
nhau. Phương pháp nghiên cứu của ngành văn học dân gian mà luận án này sử dụng
chủ yếu là phương pháp nghiên cứu loại hình học, sử dụng hệ thống type và motif
AT của các nhà nghiên cứu Antti Aarne và Stith Thompson,… Phương pháp này có
nhiều ưu thế trong việc phân loại, so sánh các văn bản, các dị bản truyện kể đã được
sưu tầm, nhằm tìm hiểu sự tương đồng giữa các câu chuyện, sự lưu truyền của cùng
một câu chuyện trong các cộng đồng, xã hội khác nhau. Phương pháp nghiên cứu
loại hình học văn học dân gian bao gồm việc phân tích các tự sự dân gian theo các
type và motif - những thành tố căn bản của truyện kể2, và đối chiếu các type, motif
truyện theo bảng tra motif hoặc bảng tra type mang tính tồn cầu hoặc khu vực.
Trường phái loại hình học văn học dân gian quan niệm:
“Type là một truyện được lưu truyền, có sự tồn tại độc lập. Nó có thể được kể
như một câu chuyện hồn chỉnh và khơng phụ thuộc vào ý nghĩa của nó trong bất cứ

truyện nào khác. Thực tế, nó có thể được kể trong một truyện khác, nhưng việc nó có thể
tồn tại riêng rẽ đã chứng tỏ tính độc lập của nó. Nó gồm một hoặc nhiều motif”;
“Motif là thành tố nhỏ nhất của truyện, có sức sống bền bỉ trong q trình lưu
truyền. Để có được sức sống này nó phải có cái gì đó khác thường và lơi cuốn”.
[Stith Thompson, 1977, tr. 415]

1

Văn học dân gian cũng được gọi là truyền thống truyền miệng (oral literature), văn học truyền miệng (oral
literature), nghệ thuật ngôn từ truyền thống (traditional verbal art),…
2
Vì thuật ngữ type và motif là thuật ngữ quốc tế đã trở nên thông dụng, được giới nghiên cứu văn học dân
gian ở Việt Nam sử dụng phổ biến nên chúng tơi khơng Việt hóa hai thuật ngữ này nữa.

9

z


Bảng tra motif của Stith Thompson là một công cụ phân loại motif rất hữu
hiệu, đã phân chia các motif phổ biến trong văn học dân gian thế giới và xác định
vùng lưu truyền của chúng [Stith Thompson, 1955-1958]. Sau này, nhiều học giả
thuộc trường phái loại hình học cũng tiếp thu thành tựu của Stith Thompson và xây
dựng các bảng tra cứu motif của thế giới, khu vực và quốc gia. Với quan niệm
“Huyền thoại có thể được phân tích và chia thành các đơn vị nhỏ (các motif)”
[Aleksandar Boskovic, 2002, tr. 132], trong luận án này, chúng tôi sử dụng phương
pháp nghiên cứu loại hình học văn học dân gian để phân tích các motif về nguồn gốc
được sử dụng trong các tự sự dân gian của các tộc người nhằm tìm ra những nét
tương đồng và khác biệt trong quan niệm về tổ tiên loài người, tộc người, quê gốc,
quá trình di cư của tộc người, nguồn gốc của mối quan hệ giữa các tộc người. Chúng

tôi đã tập hợp 185 văn bản huyền thoại nguồn gốc đã được công bố trong các tài liệu
nghiên cứu văn học dân gian, dân tộc học, nhân học,…, phân tầng các motif trong
các tiểu nhóm motif, nhóm motif, và phân loại các bản truyện kể này một cách tương
ứng. Việc thống kê được thực hiện với phần mềm Microsoft Excel và việc phân tích
mơ tả, trực quan hóa bằng các biểu đồ được thực hiện với sự hỗ trợ của phần mềm
SPSS Statistics 22.
Bên cạnh những thế mạnh về việc phân tích các tác phẩm văn học dân gian từ
góc độ văn bản, khoa nghiên cứu văn học dân gian trong thời gian gần đây đã thể
hiện một số hạn chế nhất định trong việc tìm hiểu những vấn đề nằm ngồi văn bản
tác phẩm, tìm hiểu đời sống của các tác phẩm văn học dân gian trong xã hội đương
đại. Do đó, việc tăng cường các lý thuyết nghiên cứu của các ngành khác, trong đó
có ngành nhân học văn hóa là hết sức cần thiết, để có thể tìm ra giá trị nhiều mặt của
tác phẩm văn học dân gian, và luận án này lựa chọn tiếp cận các huyền thoại nguồn
gốc tộc người ở Việt Nam dưới góc độ nhân học văn hóa.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu của ngành nhân học văn hóa
Nhân học văn hóa (cultural anthropology) là khoa học nghiên cứu về xã hội
và văn hóa của con người. Nó mơ tả, phân tích, diễn giải và giải thích những sự
tương đồng và khác biệt về văn hóa. Nhân học văn hóa quan tâm đến nguồn gốc, sự
đa dạng của các nền văn hóa [Conrad Philip Kottak, 2009, tr. 4-5]. Nó “nghiên cứu
văn hóa một cách tổng thể, sử dụng phương pháp, khái niệm và dữ kiện khảo cổ học,
dân tộc học, folklore và ngơn ngữ để mơ tả và phân tích những tộc người khác nhau
trên thế giới” [Paul Mercier, 2007]. Trong luận án này, để tiếp cận đối tượng nghiên
cứu là các huyền thoại nguồn gốc của các tộc người ở Việt Nam dưới góc độ nhân
10

z


học văn hóa, chúng tơi huy động từ ngành nhân học văn hóa các yếu tố sau: 1. Các
dữ liệu, tài liệu; 2. Các khái niệm và lý thuyết; 3. Các phương pháp nghiên cứu. Về

các dữ liệu, tài liệu, chúng tôi khai thác các tài liệu thứ cấp trong các cơng trình
nghiên cứu thuộc các lĩnh vực liên quan đến văn học dân gian như nhân học dân tộc
học, folklore,… Như nhà nghiên cứu Robert A. Segal nói, “những lý thuyết mang
tính nhân học về huyền thoại là những lý thuyết về văn hóa được áp dụng với trường
hợp/ đối tượng là huyền thoại” [Robert A. Segal, 2004, tr. 2]. Để tiếp cận huyền thoại
nguồn gốc các tộc người ở Việt Nam từ góc độ nhân học văn hóa, về các khái niệm
và lý thuyết, chúng tôi sử dụng các lý thuyết của ngành nhân học về huyền thoại, về
tộc người,… để bổ trợ cho các lý thuyết nghiên cứu về huyền thoại của ngành văn
học dân gian – điều này được triển khai cụ thể và chi tiết trong Chương 1 (Cơ sở lý
luận và tổng quan về đề tài). Ở đây, chúng tơi chỉ trình bày về các phương pháp
nghiên cứu nhân học mà chúng tôi sử dụng trong luận án:
Phương pháp nghiên cứu nhân học chủ yếu được khai thác trong luận án là
phương pháp điền dã dân tộc học. Việc nghiên cứu điền dã được tác giả luận án thực
hiện không phải tập trung tại một địa điểm nghiên cứu cố định, trong một thời gian
dài, mà là điền dã đa địa điểm (multi-sited ethnography), ở nhiều địa bàn nghiên cứu
khác nhau, trong các khuôn khổ thời gian khá hạn chế. Phương pháp nghiên cứu điền
dã đa địa điểm “thoát khỏi việc nghiên cứu một địa bàn duy nhất và các tình huống
địa phương trong thiết kế của nghiên cứu điền dã truyền thống để tìm hiểu sự lưu
thơng của những ý nghĩa văn hóa, những đối tượng và những căn cước trong không
gian – thời gian mang tính phân tán” [George E. Marcus, 1999, tr. 96]. Với việc
nghiên cứu điền dã đa địa điểm, chúng tơi có điều kiện để tiếp xúc với người dân
trong các bối cảnh văn hóa khác nhau, tập hợp được các thông tin đa dạng liên quan
đến huyền thoại nguồn gốc của các tộc người khác nhau và của một tộc người trong
các bối cảnh khác nhau. Trong các dịp điền dã đó, người nghiên cứu hết sức chú
trọng việc quan sát tham dự, phỏng vấn sâu để tìm hiểu những quan niệm, ký ức, sự
biểu đạt và thực hành văn hóa của người dân các tộc người liên quan đến huyền thoại
về nguồn gốc.
Trong khuôn khổ luận án này, tác giả đã chọn lọc các địa bàn, các thời điểm
diễn ra các sự kiện được cho là phù hợp với việc tìm hiểu huyền thoại nguồn gốc của
các tộc người và thực hiện nghiên cứu điền dã tại Làng Văn hóa các dân tộc Việt

Nam (các đợt điền dã từ 2015 đến 2017), Lễ hội Đền Hùng (năm 2016), các địa

11

z


phương: Điện Biên, Sơn La, Bắc Kạn, Hịa Bình, Nghệ An, Quảng Bình, Đà Nẵng,
Đắk Nơng (các đợt điền dã từ năm 2015 đến 2017)1.
Trong việc điền dã dân tộc học, tác giả luận án chủ yếu khai thác thông tin với
hai phương pháp chính là quan sát tham dự (participant observation) và phỏng vấn
(interview). Chúng tôi thực hiện quan sát tham dự để tham gia vào đời sống, vào các
sự kiện sinh hoạt và văn hóa của người dân các tộc người, quan sát phong tục, hành
vi, thái độ, thu thập các thông tin về các thực hành văn hóa liên quan đến huyền thoại
nguồn gốc của họ. Phương pháp phỏng vấn được sử dụng (bao gồm phỏng vấn cá
nhân và phỏng vấn nhóm, được tiến hành với những người dân thường, trí thức tộc
người, các già làng, trưởng bản, những người thực hành tơn giáo, tín ngưỡng, các
nghệ nhân của tộc người) nhằm thu thập các thông tin, ý kiến từ các cá nhân và các
nhóm người về huyền thoại nguồn gốc.
Phương pháp nghiên cứu quan sát tham dự (participant observation) được tác
giả luận án lựa chọn khi nghiên cứu một số sự kiện đặc biệt của người Kinh và các
tộc người thiểu số, như: Ngày hội khơi nguồn bản sắc (ngày 15-16/9/2015 tại Đắk
Nơng), Chương trình “Tơi tin tơi có thể - Bản hồ ca đa sắc” được đồng tổ chức bởi
Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE), Tổ chức Oxfam tại Việt
Nam và Trung tâm Nâng cao Năng lực Cộng đồng (CECEM) (ngày 16/10/2015 tại
Hà Nội); Lễ hội Đền Hùng (ngày 15-16/4/2016 tại Phú Thọ); Hội Rằm tháng Ba
Minh Hóa (Quảng Bình, 20-21/4/2016); các dịp sự kiện lớn tại Làng Văn hóa Du lịch
các dân tộc Việt Nam như đợt sự kiện “Tháng Ba mùa ong đi lấy mật” ngày
27/3/2016, Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam (19-20/4/2017), Tuần đại đồn kết –
Di sản văn hóa Việt Nam năm 2017 và Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc (1823/11/2017); Liên hoan hát dân ca của người Thổ ở xã Đột Tân, huyện Quỳ Hợp (1617/5/2016 tại Nghệ An); Ngày hội văn hóa các dân tộc huyện Mộc Châu (ngày 12/9/2016 tại Sơn La). Các sự kiện đặc biệt này được xem là những bối cảnh phù hợp để

người Kinh và người dân thiểu số bày tỏ niềm tự hào về truyền thống của tộc người
mình và thể hiện ý thức tự giác tộc người, ý thức về nguồn cội một cách rõ nét nhất.
Ngồi ra, chúng tơi cũng thực hiện quan sát tham dự và phỏng vấn người dân
các tộc người thiểu số tại các địa phương vào các dịp thông thường, không vào các
dịp sự kiện, như: Bắc Kạn (14-15/5/2016), Điện Biên (24/8/2016), Mai Châu, Hịa
Bình (17/12/2016), Đà Nẵng (10/10/2016), phỏng vấn một số trí thức Chăm tại Hà
1

Một phần tư liệu điền dã mà tác giả luận án thu thập được ở Ninh Thuận nhân dịp lễ Ka Tê của người Chăm
năm 2012 cũng được huy động sử dụng trong luận án này.

12

z


Nội (29/4/2016). Một số tư liệu nghiên cứu điền dã được chúng tôi thu thập từ năm
2011, 2012 tại vùng sinh sống của người Chăm ở Ninh Thuận cũng được sử dụng
trong luận án này.
Vì người dân các tộc người thiểu số không phải lúc nào cũng dễ dàng chia sẻ
những hiểu biết, quan niệm về nguồn gốc tộc người trong các cuộc phỏng vấn chính
thức, thêm nữa, để thống nhất cách hiểu về “huyền thoại nguồn gốc tộc người”,
người phỏng vấn nhiều khi cần có sự dẫn giải cụ thể về nội hàm của khái niệm, nên
các cuộc phỏng vấn của chúng tôi thường không tuân thủ theo một cấu trúc, một
bảng câu hỏi chặt chẽ mà thường là các cuộc trao đổi cởi mở với các câu hỏi hướng
đến mục tiêu nghiên cứu của luận án1. Các câu hỏi phỏng vấn chủ yếu mà chúng tôi
sử dụng để phỏng vấn người thiểu số được ghi lại trong Phụ lục 8. Có những cuộc
trao đổi thơng tin diễn ra trong một thời gian rất ngắn với một vài câu hỏi2, và cũng
có những cuộc phỏng vấn sâu kéo dài 1-2 tiếng. Tuy nhiên, tất cả thông tin thu thập
được đều được tác giả luận án xử lý và đưa vào phân tích. Nội dung các cuộc phỏng

vấn được lưu trong các tệp video, audio và các sổ ghi chép. Các tệp video và audio
được bóc băng bởi tác giả luận án và các cộng tác viên (có sự thẩm định lại của tác
giả luận án). Sau đó các file dữ liệu này được mã hóa theo bối cảnh phỏng vấn, tên
tộc người và số thứ tự (các dữ liệu phỏng vấn ở Đền Hùng được gắn mã ĐH, các dữ
liệu phỏng vấn ở Làng Văn hóa Du lịch các dân tộc Việt Nam được gắn mã LVH,
các dữ liệu phỏng vấn ở các địa phương được gắn mã ĐP), và nhập vào phần mềm
NVIVO 12 để phân tích định tính. Để tuân thủ nguyên tắc ẩn danh trong nghiên cứu
định tính, trong luận án này, chúng tơi viết tắt tên riêng của người cung cấp thơng tin,
và có ghi chú mã phỏng vấn tương ứng với hồ sơ mã hóa của chúng tơi.
Về kỹ thuật phân tích định tính và phân tích định lượng, trong luận án này, dữ
liệu các văn bản huyền thoại được phân tích định tính, phân loại theo các chủ đề (các
vị tổ tiên, quê gốc, quá trình di cư, quá trình phân ngành,…), sau đó phân tích định
lượng với phần mềm Microsoft Excel và SPSS. Các dữ liệu phỏng vấn được xử lý
theo phương pháp nghiên cứu hỗn hợp (mix method), với sự kết hợp của kỹ thuật

1

Chẳng hạn, để tìm hiểu xem thực sự một người dân có biết huyền thoại nguồn gốc của tộc người mình khơng,
những câu hỏi như “Ơng/bà/anh/chị có biết huyền thoại nguồn gốc của tộc người mình khơng” thường không
đem lại câu trả lời thực sự ngay từ đầu. Với câu hỏi này, nhiều người nói là “Khơng biết”, nhưng với sự bổ
sung của các câu hỏi mang tính gợi mở của tác giả luận án, chẳng hạn: “Ơng/bà có biết câu chuyện về khi trên
trái đất chưa có ai sinh ra…?”, “Ơng/bà có biết câu chuyện về quả bầu sinh ra những người con…?” thì người
được phỏng vấn lại nhớ các câu chuyện và chia sẻ nhiều thơng tin hữu ích liên quan.
2
Vì nhiều lí do khác nhau, một số người dân chỉ trả lời một hoặc vài câu hỏi, sau đó họ khơng trả lời tiếp hoặc
giới thiệu sang người khác vì cho rằng người kia biết rõ hơn về vấn đề.

13

z



phân tích định tính (quantitative analysis) và kỹ thuật phân tích định lượng
(qualitative analysis). Một phần dữ liệu được mã hóa (coding) theo các chủ đề
(theme) và phân tích định tính với phần mềm NVIVO 11, một phần dữ liệu phỏng
vấn được phân loại sử dụng Microsoft Excel và phân tích thống kê với phần mềm
SPSS Statistics 22.
Bên cạnh việc thu thập các dữ liệu sơ cấp, tác giả luận án cũng tiếp cận nguồn
tài liệu thứ cấp, gồm các cơng trình nghiên cứu của các học giả đi trước, văn bản
truyện kể, các tài liệu video, các cứ liệu truyền thơng, các cơng trình nghiên cứu…
có liên quan đến huyền thoại về nguồn gốc của các tộc người để bổ sung các thơng
tin hữu ích cho luận án.
Việc nghiên cứu tác phẩm, hiện tượng văn học dân gian dưới góc độ nhân học
văn hóa khơng phải là điều mới mẻ trong khoa nghiên cứu văn học dân gian thế giới
cũng như Việt Nam. Tiếp cận huyền thoại nguồn gốc của các tộc người ở Việt Nam
dưới góc độ nhân học văn hóa, luận án có điều kiện để vận dụng các lý thuyết và
phương pháp của ngành nhân học văn hóa vào việc tìm hiểu những động thái
(dynamics) của huyền thoại nguồn gốc trong xã hội đương đại, trong các cộng đồng
tộc người và trong cộng đồng quốc gia – dân tộc Việt Nam. Điều này giúp bổ trợ cho
những hạn chế của phương pháp nghiên cứu loại hình học văn học dân gian – vốn chỉ có
những ưu thế nổi trội trong việc nghiên cứu văn bản của tác phẩm văn học dân gian.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận án này với việc tập hợp một số lượng lớn các truyện kể nguồn gốc của
các tộc người ở Việt Nam trong các tổng tập, tuyển tập, bộ sưu tập truyện kể của các
tộc người cũng như các cơng trình nghiên cứu về nhân học, dân tộc học, văn hóa dân
gian sẽ góp phần cung cấp tư liệu tham khảo phục vụ cho việc giảng dạy về văn học
dân gian tại Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – đặc biệt là cho nội dung
giảng dạy về thần thoại. Với việc hệ thống hóa và phân loại các motif trong các
huyền thoại về nguồn gốc của các tộc người ở Việt Nam, luận án cung cấp thông tin, hỗ
trợ cho các nhà khoa học trong nước và quốc tế để họ nghiên cứu so sánh huyền thoại

nguồn gốc của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trong những năm qua, ở Việt Nam đã có nhiều cơng trình nghiên cứu trong
đó có phần nào nhắc đến các huyền thoại về nguồn gốc của các tộc người, tuy nhiên
huyền thoại về nguồn gốc tộc người chưa được quan tâm nghiên cứu như một đối
tượng riêng biệt, và chưa được xem xét để tìm hiểu sự ảnh hưởng của chúng tới các
quan hệ nội bộ tộc người, liên tộc người trong một quốc gia. Với sự kết hợp giữa
14

z


cách tiếp cận của văn học dân gian với nhân học văn hóa, kết nối giữa các văn bản
huyền thoại về nguồn gốc tộc người với các thực hành văn hóa, luận án này sẽ đóng
góp những cứ liệu tạo nên một góc nhìn về quan hệ tộc người – quốc gia ở Việt Nam
thông qua sự biểu đạt các huyền thoại về nguồn gốc trong các tự sự dân gian và trong
các thực hành văn hóa.
Luận án này có ý nghĩa thực tiễn, góp phần cung cấp thơng tin tham khảo cho
các nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách dân tộc, chính sách giáo dục, chính
sách văn hóa trong việc khai thác, sử dụng huyền thoại về nguồn gốc của các tộc
người (đặc biệt là các tộc người thiểu số) cho phù hợp với bối cảnh của quốc gia đa
dân tộc, nhằm đảm bảo sự đoàn kết, ổn định chính trị, xã hội và khuyến khích sự
phát triển văn hóa của các tộc người ở Việt Nam.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận
án gồm có 4 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và tổng quan về đề tài.
Chương 2. Huyền thoại về nguồn gốc trong kho tàng tự sự dân gian của các
tộc người ở Việt Nam.
Chương 3. Huyền thoại về nguồn gốc trong các thực hành văn hóa của các tộc
người ở Việt Nam.

Chương 4. Động thái của các huyền thoại về nguồn gốc của các tộc người
Việt Nam trong xã hội đương đại.

15

z


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI
Trong chương đầu tiên của luận án, chúng tôi trình bày các vấn đề lý luận
mang tính then chốt của luận án, bao gồm lý thuyết về huyền thoại, huyền thoại về nguồn
gốc tộc người, lý luận về tộc người và các tộc người ở Việt Nam. Chương này cũng tóm
lược tình hình nghiên cứu trong và ngồi nước liên quan đến chủ đề nghiên cứu của luận
án, để xác định khoảng trống nghiên cứu mà luận án này hướng tới giải quyết.
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Huyền thoại và huyền thoại về nguồn gốc tộc người
1.1.1.1. Khái niệm, bản chất của huyền thoại
Huyền thoại (myth) vốn là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học,
như văn học dân gian, huyền thoại học, nhân học,… Thuật ngữ myth được các nhà
khoa học hiểu theo nhiều cách khác nhau. Về mặt từ nguyên, từ myth có nguồn gốc
từ tiếng Hy Lạp mythos, với hàm nghĩa chỉ lời. Theo nghĩa thông thường, myth
thường được hiểu là điều giả dối, điều sai lầm, tin điều, niềm tin sai lạc [David
Adams Leeming, 2002; Chu Xuân Diên, 2007; Charles H. Long, 2010; Robert A.
Segal, 2015]. Theo khoa nghiên cứu văn học dân gian, myth được định nghĩa là một
tự sự (narrative) mang tính biểu tượng, mang tính thiêng, nói về các vị thần hoặc
những đấng siêu nhiên được sùng bái xuất hiện trong thời khởi thủy, tham gia trực
tiếp hoặc gián tiếp vào việc tạo lập thế giới cũng như tạo lập nên những nhân tố của
nó. Các tự sự này thường khơng rõ xuất xứ , có tính truyền thống, liên quan tới các
sự kiện có thực và thường gắn với niềm tin tôn giáo [Charles H. Long, 2010; Chu
Xuân Diên, 2007]. Diễn giải một cách cụ thể, David Adams Leeming cho rằng huyền

thoại là “câu chuyện kể về việc con người thấy thế nào về cuộc sống hoặc giải thích
một điều gì đó về thế giới – chẳng hạn: thế giới được tạo nên như thế nào hoặc tại
sao một con vật lại có một đặc tính nào đó”, “Tại sao chúng ta lại có mặt trên trái
đất?” [David Adams Leeming, 2002, tr. 83]. Trong ngành nhân học, Victor Turner
quan niệm huyền thoại là một tự sự phổ biến trong các thành viên của một cộng
đồng, giải thích nguồn gốc của những hiện tượng tự nhiên, xã hội và mối quan hệ
giữa con người và thần linh của anh ta, giữa con người và vũ trụ của của anh ta [John
A. Saliba, 1973, tr. 282].
Qua các cách hiểu khác nhau về huyền thoại ở trên, có thể thấy rằng các nhà
khoa học thuộc lĩnh vực văn học dân gian, nhân học trên thế giới quan niệm huyền
thoại là một tự sự mang tính tưởng tượng được lưu truyền phổ biến trong một cộng
16

z


đồng, được họ tin là thật, thể hiện quan niệm, cách giải thích của họ về các hiện
tượng trong đời sống tự nhiên hoặc xã hội.
Ở Việt Nam, để biểu đạt thuật ngữ myth, các nhà nghiên cứu thường dùng hai
thuật ngữ: huyền thoại và thần thoại. Nhiều cơng trình nghiên cứu ở Việt Nam xem
thần thoại là một thể loại văn học dân gian ra đời từ thời kỳ xa xưa nhất trong lịch sử
nhân loại, phản ánh quan niệm của con người thời cổ về nguồn gốc của thế giới và
đời sống con người [Nguyễn Đổng Chi, 1956; Đỗ Đức Hiểu, 1984, tr. 356; Đinh Gia
Khánh, 1972-2003; Hoàng Phê, 2003, tr. 925; Lê Bá Hán, 2013, tr. 298-299,…]. Một
số nghiên cứu khác đã bàn về hai khái niệm huyền thoại và thần thoại, phân biệt
chúng với nhau. Nhà nghiên cứu Nguyễn Hùng Vĩ trong giáo trình Văn học dân gian
Việt Nam của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội, trong khi chia sẻ với các nhà nghiên cứu ở trên trong việc định nghĩa thần thoại
thì cũng đã nhấn mạnh rằng về sau, thần thoại “khơng cịn là một thể loại nữa”;
“người ta cũng gọi thần thoại là huyền thoại”, và có “các tác phẩm nghệ thuật sử

dụng một số yếu tố thi pháp thần thoại như những thủ pháp nghệ thuật” [Lê Chí Quế,
2004, tr. 25-26]. Nhà nghiên cứu Vũ Anh Tuấn cho rằng nếu như thần thoại là thể
loại văn học dân gian ra đời từ buổi bình minh của lịch sử lồi người thì huyền thoại
đã kế thừa, phát triển thủ pháp của thần thoại, “hoàn thiện thành một phương pháp
sáng tạo nghệ thuật ở nhiều loại hình khác nhau cho đến tận ngày hơm nay" [Vũ Anh
Tuấn, 2012, tr. 44-45]. Cùng quan điểm này, nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Bích Hà
cũng cho rằng thần thoại ra đời từ buổi bình minh của lịch sử nhân loại và kết thúc sứ
mệnh của nó khi nhận thức về thế giới của con người đã phát triển, còn huyền thoại
"chính là thần thoại buổi đầu, được tiếp tục phát triển lên và tồn tại đến tận thời hiện
đại" [Nguyễn Bích Hà, 2012, tr. 21].
Một số học giả cũng mở rộng nghĩa của huyền thoại, xem nó khơng chỉ bao
gồm thể loại thần thoại mà còn bao gồm các thực hành văn hóa thể hiện niềm tin nào
đó của một cộng đồng trong đời sống đương đại. Trong cơng trình 150 thuật ngữ văn
học, Lại Nguyên Ân nhận định: “Mặc dù thần thoại tồn tại như những truyện kể về
thế gian, nhưng thần thoại không phải là một thể loại ngôn từ mà là những ý niệm và
biểu tượng nhất định về thế giới”. Ông cho rằng cảm quan thần thoại nói chung
khơng chỉ bộc lộ bằng truyện kể, mà cịn bộc lộ trong nhiều hình thức khác: trong
hành động (nghi lễ, lễ thức, răn cấm), trong các bài ca, điệu nhảy…” [Lại Nguyên
Ân, 1999, tr. 299]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Huế cũng nêu rõ sự tồn tại của
huyền thoại của các tộc người Việt Nam trong các hoạt động tổng thể của đời sống.
17

z


Bà cho rằng thần thoại của các dân tộc không được lưu giữ một cách riêng rẽ như các
thể loại khác mà “thường tồn tại dưới dạng các lễ nghi, các phong tục” mang tính
tổng hợp, phức hợp. Với kinh nghiệm nghiên cứu dày dặn về thần thoại, bà khẳng
định “việc bóc tách để xác định xem đâu là những tác phẩm thần thoại riêng rẽ, độc
lập hoặc đâu là những tác phẩm mang yếu tố thần thoại đã được người dân các dân

tộc thể hiện trong các hoạt động nghi lễ, trong đời sống văn hóa của mình là việc
không đơn giản” [Nguyễn Thị Huế, 2013a, tr. 72-73]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc
Xương cho rằng “thần thoại và truyền thuyết lưu truyền bằng miệng trong dân gian
đã được tái hiện cụ thể và sinh động trước nhân dân qua nghệ thuật diễn xướng hỗn
hợp”; “diễn xướng đã minh họa một số tình tiết nào đó trong những tích truyện về
thần”. Ơng cho rằng có thể coi thần thoại, truyền thuyết là “kịch bản” của diễn xướng
tín ngưỡng phong tục, diễn xướng thần thoại là phương tiện giao cảm giữa người và
thần, mang tính chất tín ngưỡng và màu sắc huyền bí linh thiêng” [Nguyễn Khắc
Xương, 1973, tr. 101]. Như vậy, huyền thoại đã được xem xét như một bộ phận tồn
tại một cách nguyên hợp trong đời sống văn hóa, tín ngưỡng, diễn xướng.
Các tác phẩm huyền thoại khơng chỉ được sáng tác và lưu truyền từ thời nguyên
thủy mà còn được lưu truyền, tái tạo liên tục từ trong quá khứ cho đến hiện tại, được
chuyển hóa giữa các dạng thức, thể loại khác nhau. E.M. Meletinsky cho rằng trong
huyền thoại có những yếu tố phơi thai của tôn giáo, triết học, khoa học và nghệ thuật;
và về sau, huyền thoại vẫn giữ vai trò quan trọng của nó trong lịch sử văn hóa, “một
số đặc trưng của sự nhận thức huyền thoại vẫn được bảo tồn lâu dài trong nhận thức
của nhân dân và các hình thái ý thức xã hội khác như triết học, khoa học, đặc biệt là
tôn giáo và văn học nghệ thuật” (Khoa Ngữ văn và Báo chí, 2007, tr. 121-172). Một
huyền thoại có thể đi từ thần thoại vào truyền thuyết, vào truyện cổ tích, truyện thơ,
hoặc cũng có thể được sáng tác ngay từ đầu trong dạng thức một truyện cổ tích, một
truyền thuyết hay một truyện kể dân gian nói chung, và có thể đi vào các sáng tác
văn chương, nghệ thuật thời đương đại. Một hiện tượng văn học dân gian (chẳng hạn
như tác phẩm mo Mường Đẻ đất, đẻ nước) có thể được xem là thần thoại, hay sử thi,
tùy theo quan điểm của người phân loại. Tuy nhiên, với quan niệm huyền thoại tồn
tại trong nhiều thể loại văn học dân gian và trong các dạng thức thực hành văn hóa
khác nhau, chúng tơi cho rằng, dù các nhà nghiên cứu phân loại nó là thần thoại hay
sử thi thì nó vẫn hồn tồn phù hợp được xem xét với tư cách là một huyền thoại.
Những mẫu gốc (archetype), motif, biểu tượng (symbol) của huyền thoại thường được

18


z


khai thác, huy động, tái tạo trong các thể loại khác nhau của văn học, nghệ thuật trong
suốt quá trình lịch sử của một cộng đồng.
Dựa trên những nghiên cứu tổng quan về huyền thoại ở trong và ngoài nước,
trong luận án này, chúng tôi chọn dùng chữ huyền thoại (chứ không phải thần thoại)
để chỉ những tự sự thể hiện những niềm tin, sự hình dung, sự giải thích của một cộng
đồng về một sự vật, sự việc, hiện tượng. Thuật ngữ “huyền thoại” không loại trừ hay
phủ định thuật ngữ “thần thoại” mà giúp mở rộng biên độ của nghiên cứu, tạo điều
kiện cho tác giả luận án tiếp cận thêm những tài liệu về những dạng thức diễn tiến,
tái tạo của thần thoại trong đời sống đương đại. Huyền thoại không chỉ bao gồm thể
loại thần thoại, mà còn bao gồm nhiều thể loại tự sự dân gian khác, như sử thi, truyền
thuyết, truyện cổ tích, truyện thơ,… Quan niệm về huyền thoại với sự xóa nhịa ranh
giới giữa các thể loại là cơ sở để chúng tơi tiến hành tìm hiểu sự tồn tại của huyền
thoại trong các thể loại khác nhau của kho tàng tự sự dân gian và xem xét sự tồn tại,
biểu hiện của chúng trong các thực hành văn hóa (cultural practices) của các tộc
người – như các nghi lễ, lễ hội, các tục lệ, tục kiêng,…
1.1.1.2. Chức năng và cấu trúc của huyền thoại
Các nhà khoa học trên thế giới đã đưa ra nhiều nhận định về chức năng và cấu
trúc của huyền thoại. Một số nhà nghiên cứu tiếp cận huyền thoại thiên về khía cạnh
chức năng – xem xét vai trò của huyền thoại đối với nghi lễ hoặc với cộng đồng, xã hội
mà nó tồn tại, trong khi một số nhà nghiên cứu lại tiếp cận huyền thoại thiên về cấu trúc
– quan tâm đến ý nghĩa biểu đạt mang tính tự thân của huyền thoại.
Theo các nhà nghiên cứu thuộc trường phái huyền thoại và nghi lễ (myth and
ritual school) – trường phái từng có ảnh hưởng lớn trong khoa huyền thoại học,
huyền thoại có mối liên hệ hết sức mật thiết với nghi lễ. William Robertson Smith
cho rằng huyền thoại là sự giải thích cho các nghi lễ, và có sau nghi lễ [Aleksandar
Boskovic, 2002, tr. 120-122]. Edmund Leach cho rằng thần thoại là nửa tương ứng

của nghi lễ, nghi lễ là sự kịch hóa huyền thoại, và huyền thoại là sự hợp thức hóa
nghi lễ [tlđd, tr. 127]. Max Muller cho huyền thoại là sản phẩm của nhận thức
nguyên thủy về tự nhiên [tlđd, tr. 109]. Andrew Lang quan niệm huyền thoại là một
“khoa học nguyên thủy” (primitive science) [tlđd, tr. 121]. Ernst Cassirer xem huyền
thoại là một trong những giai đoạn của quá trình “con người hóa” (humanization),
được gọi là giai đoạn tư duy huyền thoại (mythic thinking), dưới mức của triết học
hay khoa học [tlđd, tr. 110]. Joseph Campbell nhận định huyền thoại có bốn chức
năng: 1. Thiết lập sự kính sợ trước bí ẩn của sự tồn tại (là cơ sở của các tôn giáo), 2.
19

z


×