Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

KIM LÂN VÀ TRUYỆN NGẮN “ VỢ NHẶT” docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293 KB, 25 trang )

KIM LÂN VÀ TRUYỆN NGẮN “ VỢ NHẶT”



I-Tác giả Kim Lân
Tiểu sử
Ông quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn
cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết bậc tiểu học rồi phải đi làm. Kim Lân
bắt đầu viết truyện ngắn từ năm1941. Tác phẩm của ông được đăng trên các báo Tiểu
thuyết thứ bảy và Trung Bắc chủ nhật. Một số truyện (Vợ nhặt, Đứa con người vợ
lẽ, Đứa con người cô đầu, Cô Vịa, ) mang tính chất tự truyện nhưng đã thể hiện được
không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của
người nông dân thời kỳ đó.
Ông được dư luận chú ý nhiều hơn khi đi vào những đề tài độc đáo như tái hiện
sinh hoạt văn hóa phong phú ở thôn quê (đánh vật, chọi gà, thả chim ). Các
truyện: Đôi chim thành, Con mã mái, Chó săn kể lại một cách sinh động những thú
chơi kể trên, qua đó biểu hiện một phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân
trước Cách mạng tháng Tám - những người sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng vẫn yêu
đời, trong sáng, tài hoa.
Sau Cách Mạng tháng Tám, Kim Lân tiếp tục làm báo, viết văn. Ông vẫn
chuyên về truyện ngắn và vẫn viết về làng quê Việt Nam - mảng hiện thực mà từ lâu
ông đã hiểu biết sâu sắc. Những tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (tập truyện
ngắn, 1955), Con chó xấu xí (tập truyện ngắn, 1962).
Sinh thời ông sống tại Hà Nội. Ông từ trần năm 2007 tại Bệnh viện Hữu Nghị
Hà Nội, sau một thời gian dài chống chọi với căn bệnh hen suyễn, hưởng thọ 87 tuổi
Sự nghiệp văn học
Trong cả hai giai đoạn sáng tác, tuy viết không nhiều nhưng giai đoạn nào Kim
Lân cũng có những tác phẩm hay. Là một cây bút truyện ngắn vững vàng, ông đã viết
về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là
con đẻ của đồng ruộng.
Truyện ngắn Vợ nhặt và Làng của Kim Lân đã được đưa vào trong sách giáo


khoa ở Việt Nam. Năm 2005, truyện Vợ nhặt được đưa vào đề thi môn văn kỳ thi
của Đại học Kinh tế Huế và Nguyễn Thị Thu Trang đã đạt điểm 10, gây xôn xao dư
luận một thời. Truyện Làng được viết về nông thôn Việt Nam thời kháng chiến chống
Pháp và một gia đình người tản cư thời đó.
Về tác phẩm Vợ nhặt, Kim Lân viết:
"Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết
về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết.
Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên
cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự
sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người."
Ông là cha của họa sĩ Thành Chương, nữ họa sĩ Nguyễn Thị Hiền.
Sự nghiệp diễn xuất
Ngoài sáng tác văn học, Kim Lân còn tham gia đóng phim và kịch. Một số vai
tiêu biểu ông tham gia diễn xuất có thể kể:
 Thống lý Pá Tra trong phim Vợ chồng A Phủ
 Lão Hạc trong phim Làng Vũ Đại ngày ấy
 Lý Cựu trong phim Chị Dậu
 Lão Pẩu trong phim Con Vá
 Cả Khiết trong vở Cái tủ chè của Vũ Trọng Can
Một số tác phẩm tiêu biểu
Truyện ngắn
 Đứa con người vợ lẽ
 Nên vợ nên chồng
 Làng
 Vợ nhặt
II- Một số đề bài tham khảo về truyện ngắn “ Vợ nhặt”
Đề 1: Phân tích tình huống truyện đặc sắc của tác phẩm “ Vợ nhặt”
Một trong những sáng tác nghệ thuật đặc sắc của Kim Lân trong truyện ngắn
Vợ nhặt là đã xây dựng đựơc tình huống truyện đặc sắc và hấp dẫn. Hãy phân tích
truyện Vợ nhặt để chứng minh ý kiến trên.

Bai lam
Đọc Vợ nhặt của Kim Lân tôi lại rờn rợn nhớ đến Một đám cưới nghèo của
Nam Cao với những bóng đen lầm lũi đi trong màn sương chiều nhập nhoạng. Cái đói,
cái nghèo ấy sao đầy kinh hoàng và u ám đến thế. Chính cái đói, cái nghèo đó tạo nên
cho Vợ nhặt một tình huống hết sức độnc đáo và hấp dẫn. Và vì thế, Kim Lân đã đóng
góp một truyện ngắn vào loại hay nhất trong văn học Việt Nam hiện đại
Ngay từ tựa đề của tác phẩm cũng gợi lên sự chua xót, mai mỉa, một nỗi đâu
không thể nói thành lời. “Nhặt vợ”, một hành động nghe sao đơn giản và dễ dàng đến
như vậy? Điều đó hoàn toàn trái ngược với quan niệm của dân gian:
Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà
Trong ba việc ấy thật là khó thay
Vậy mà ở đây Tràng đã nhặt được vợ hẳn hoi, trong cơn đói khủng khiếp mà có
lẽ “đến năm 2000 con cháu chúng ta vẫn kể cho nhau nghe để rùng mình” đang hoành
hành. Cái lạ thường, kì dị của hành động đã tạo nên một tình huống vô cùng độc đáo
mang ý nghĩa phân phối toàn bộ tác phẩm.
Đã từ lâu, dân làng cái xóm ngụ cư này đã quá quen với hình ảnh vộp vạp, thô
kệch của Tràng với cái cười “hềnh hệch” vô hồn lúc nào cũng nở trên môi, Tràng
nghèo túng, xấu xí, đần độn hơn cả những con người tồi tàn, bèo bọt ở cái xóm làng
thì làm gì có thể lấy được vợ? Thế nhưng hôm nay, bên cạnh cái lưng to rộng như
lưng gấu của hắn lại có cả một người đàn bà rón rén và e thẹn. Điều đó gợi nên sự
kinh ngạc cho cả xóm. Sự tòm mò, xoi mói cứ lan dần theo từng bước đi của Tràng và
người đàn bà trên con đường xao xác, heo hút. Mọi người cứ xì xầm bàn tán “Ai đấy
nhỉ ! Hay là người nhà bà cụ Tứ mới lên?” “Chả phải, từ ngày còn mồ mả ông cụ Tứ
có thấy họ mạc nào lên thăm đâu?” thỉnh thoảng lại “rung rúc” vang lên tiếng cười
đầy ghê rợn như tiếng cú báo hiệu tai ương và chết chóc vọng mại theo đôi uyên ương
về cuối xóm. Mặc cho những lời bàn tán, Tràng vẫn lầm lũi bước dưới những gốc gạo
sù sì có “bóng những người đói đi lặng lẽ như những bóng ma thay cho khách” và
tiếng quạ gào lên thê thiết từng hồi thay cho pháo cười. Câu chuyện chìm trong nặng
nề và sợ hãi, đầy những cảnh ma quái, đen tối. Cái đói đã luồn những làn gió chết
chóc mọi nơi. Vậy mà Tràng lại có vợ “Ôi chao! Biết có nuôi nổi nhau qua được cái

thời này không”
Tình huống Tràng có vợ gây ra ấn tượng rất mạnh. Cả xóm ngạc nhiên đã đành,
mà ngay cả bà cụ Tứ, mẹ Tràng cũng rất ngạc nhiên. Làm sao kể xiết sự sững sờ của
bà khi trông thấy người đàn bà đứng ở đầu giường của con mình, lại còn chào mình
bằng u nữa. Bà không thể nghĩ rằng con mình lại có vợ, ngay trong cái thời buổi đói
kém này. Bà cứ hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn mà càng lúc nó cứ nhoèn mãi ra.
Tình huống càng bất ngờ đến hài hước khi chính Tràng cũng vẫn còn “ngỡ
ngàng như không phải”. “Ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như
không phải. Ra hắn đã có vợ đấy ư?”. Mọi chuyện xảy ra quá bất ngờ, dường như chỉ
là cơn mơ. Người đàn bà chỉ gặp mới hai lần lại trở thành vợ hắn. Mà thật ra, hắn
cũng không có ý định gì với thị Thị liều lĩnh đến với hắn chỉ bằng mộ câu nói suông.
Thị theo hắn như phó mặc cho số phận. Cái đói đã đẩy họ đến với nhau.
Trong cái thời tao đoạn ấy, việc Tràng lấy vợ quả là một tình huống oái ăm. Ta
sẽ mừng hay lo, buồn hay vui cho cặp vợ chồng này? Tâm trạng của những nhân vật
trong câu chuyện chứa đầy những cảm xúc ngổn ngang và mâu thuỗn. Bà cụ Tứ vui vì
cuối cùng con mình cũng có vợ nhưng lại tủi vì sự trớ trên của số phận : có phải thời
“tao đoạn” như thế, người ta mới hcịu lấy con mình? Bà mẹ nghèo nặng trĩu những lo
âu cho tương lai của con mình, “liệu chúng nó có nuôi nhau nổi sống qua được cơn
đói khát này không?”. Câu hỏi từ tận đáy lòng của bà mẹ “chất chứa nỗi hoang mang,
ám ảnh của kiếp bần hàn không lối thoát và cả sự rình rập trước ngõ của cơn ác mộng
về cái đói chưa bao giờ dữ dội đến thế”. Trong lòng bà, ta cảm thấy cả nỗi buồn của
một người mẹ không được thấy con trong ngày vui, không được một vài mâm làm lễ
gia tiên. Trong lời nghẹn ngoài tâm sự của à có cả sự xót xa, một chút ân hận vì đã
không làm được đầy đủ bổn phận của một người mẹ đối với con.
Tâm trạng của Tràng cũng biến đổi liên tục từ khi thị quyết định theo hắn về
nhà. Tình huống nhặt vợ mang đầy vẻ bi hài, chỉ bằng những câu bông lơn và bốn
chén bánh đúc, thị đã đồng ý làm bạn với hắn. Thị theo hắn dường như để giải quyết
nhu cầu ăn. Những chuyện tưởng như rất thô luậ và trơ trẽn nhưng dưới ngọi bút tài
tình của Kim Lân, nó trở nên nhẹ nhàng hơn và lấp ló tình thương. Tràng hoàn toàn
mờ mịt về tương lai của mình “thóc gạo này đến thân mình còn chả biết có nuôi nổi

không lại còn đèo bòng” nhưng hắn vẫn ra tay cưu mang người đàn bà nghèo khổ. Đói
kém đã đẩy đưa người phụ nữ đến với hắn, mang đến cho hắn niềm hạnh phúc của
một người có được mái ấm gia đình với bao ước mơ về tương lai dung dị nhưng đầy
cảm động. Chính vì thế, hắn nhận ra trách nhiệm của mình đối với hạnh phúc mà mình
vừa có được. Lòng hắn chợt loé lên một ý nghĩa được đổi đời, tự dưng hắn thấy ân
hận , tiếc rẻ, vẩn vơ, khó hiểu.
Không cần dùng đến những lời lẽ đanh thép hay “đại ngôn” nhưng tác phẩm
Vợ nhặt mang đến một giá trị nhân bản vô cùng to lớn. Bằng tình huống đầy bi hài, nó
xoáy vào tố cáo chế độ thực dân phát xít, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái đói kinh
hoàng. Cái đói mang đến sự chết chót, tang thương khắp mọi nơi và cũng chính nó
làm những giá trị con người bị hạ xuống mức thấp nhất. Con người dường như mất
hẳn tính ngươờ, chỉ còn sống theo bản năng để được ăn, được sống Cơn đói khát làm
cho ngừoi đàn bà quên cả sĩ diện, đượcmì ăn hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên
tức thì, thế rồi “thị sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền
chẳng chuyện trò gì”. Đoạn văn làm cho bất cứ ai có lương tâm cũng phải xấu hổ, phải
quay mặt đi để cười ra nước mắt. Thì làm ta liên tưởng đến bà lão trong Một bữa no
của Nam Cao. Con người trở nên trơ trẽn, mất nhân cách khi cái đói lởn vởn trong tâm
trí. Giận thị nhưng ta vẫn xót xa trước dáng hình tiều tịu của thị “hôm nay thị rách
quá, quần áo tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ
còn thấy hai con mắt”. Cái đói, với bóng đen kinh hoàng của nó bao trùm khắp mọi
nơi, đè nặng lên cuộc sống bình thường của mỗi con người. Còn gì thê thảm bằng đám
“rước dâu” có tiếng quạ kêu thê thiết đón chào, đêm tân hôn có tiếng ai hờ khóc tỉ tê
“có mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt”. Thân
phận bọt bèo của những con người như Tràng, những cám cảnh bần cùng ấy tự thân
nó đã có sức tố cám mạnh mẽ cái tội ác của thực dân phát xít
Thế nhưng, chính trong cái cảnh thê lương ấy, những tấm lòng nhân hậu lại
sáng ngời lên mà tiêu biểu trong tác phẩm là bà cụ Tứ. Trong lòng người mẹ nghèo ấy
lúc nào cũng mang sẵn tình thương con vô bờ bến “vừa ai oán vừa xót xa cho số kiếp
của đứa con mình”. Trong cái nhìn đăm đăm vào người đàn bà đang “cúi mặt xuống,
tay vân vê tà áo đã rách bợt” có sự xót thương, thông cảm sẻ chia. Tình thương con dù

bao la đến mấy cũng có thể chỉ làm bà “rũ xuống hai dòng nước mắt”. Cái khổ đau vất
vả một đời đã vắt kiệt nước mắt người mẹ. Nó không đủ để chảy thành dòng “rũ”
xuống như chết non một cách tức tưởi. Không còn nước mắt nhưng bà vẫn nhận lấy
nguy cơ bị cái chết gần thêm bước nữa.
Bằng ngòi bút tài năng của mình, Kim Lân có lúc đã đưa người đọc đến tận
cùng màn đêm tối tăm, u ám, nhưng rồi lại nhẹ nhàng hé ra một khe sáng lấp ló đâu đó
khiến chúng ta hướng về và vươn tới. Người dân Việt nam mà đại diện là những bà
mẹ Tràng, anh Tràng và người đàn bà vẫn khát khao cuộc sống hạnh phúc tươi sáng
hơn. “Bà lão nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này”. Trong tâm trí bà đã có
sẵn một viễn cảnh tươi sáng gia đình. Niềm vui làm bà mẹ Tràng nhẹ nhõm, tươi tỉnh
khác thường , “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Ta vui lây niềm vui
của gia đình hoà thuậ, đầm ấm, niềm vui của Tràng được thấy xung quanh mình hôm
nay có gì vừa thay đổi mới mẹ, khác thường. Niềm vui bất chợt của gia đình làm ta
cười sung sướng nhưng nước mắt vẫn cứ tuôn mãi nghẹn ngào. Ta múôn tha thứ tất
cả, kể cả sự trơ tráo của người đàn bà và cả tội phung phí đến hai hào dầu của anh
Tràng.
Chỉ một tình huống nhỏ nhoi nhưng Kim Lân đã gợi nên biết bao điều. Mỗi ý
nghĩ của tình huống lại mang một giá trị nhân bản,tấm lòng nhân đạo bao la của nhà
văn. Chính vì thế, tác phẩm mang đầy tình yêu thương nồng ấ mnư một ngọn lửa nhỏ
lấp loé mãi trong cuộc đời. Và tác phẩm đã cho ta phát hiện thêm một bản chất tuyệt
vời nhân hâu., tuyệt vời đứa hi sinh của những người nông dân Việt Nam. Dù đứng
trước sự mất còn của mạng sống ( hiểu theo nghĩa đen trần trụi nhất) vẫn cưu mạng,
vẫn lấy lại phẩm giá để làm người, để sống với hi vọng, với tương lai. Lá cờ đỏ sao
vàng của Việt Minh dẫn đoàn đói khát đi phá kho thóc của Nhật đâu chỉ là mộng
tưởng ? Tương lai mới “bạch sắc” (màu trắng) nhưng “dĩ thành hồng” (đã thành đỏ)
rồi. Cách mạng đã gần kề, suối nguồn của chủ nghĩa nhân đạo sẽ tắm gội những con
người bình dị nhưng có phẩm chất nhân đạo như cụ Tứ, như Tràng và cô “vợ nhặt” tội
nghiệp Họ sẽ viết tiếp truyện thống về phẩm giá con người Việt Nam trong tương
lai.


Đề 2: Phân tích tác phẩm Vợ nhặt- Kim Lân
Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài. Ông sinh ngày 1/8/1920, quê ở làng
Phù Lưu, xã Tân Hồng , huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh.Do hoàn cảnh gia đình khó
khăn, ông chỉ được học hết bậc tiểu học rồi phải đi làm. Kim Lân bắt đầu viết truyện
ngắn bắt đầu từ năm 1941. Tác phẩm của ông được đăng trên các báo “Tiểu thuyết thứ
bảy” và “Trung Bắc chủ nhật”. Một số truyện (“Đứa con người vợ lẽ”, ” Đứa con
người cô đầu”, ”Cô Vịa”…) mang tính chất tự truyện, nhưng đã thể hiện được không
khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của người
nông dân. Ông được dư luận chú ý nhiều hơn khi đi về đề tài độc đáo: tái hiện sinh
hoạt văn hoá phong phú ở thôn quê (đánh vật,chọi gà,thả chim…). Các truyện: ”Đôi
chim thành”, ”Con mã quái”, ”Chó săn”… kể lại một cách sinh động những thú chơi
lành mạnh, qua đó thể hiện một phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách
mạng _những người sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, tài hoa.
Sau Cách mạng tháng tám, Kim Lân tiếp tục làm báo, viết văn. Ông vẫn chuyên về
truyện ngắn và vẫn viết về làng quê Việt Nam _mảng hiện thực mà từ lâu ông đã hiểu
biết sâu sắc. Những tác phẩm chính: ”Nên vợ nên chồng” (tập truyện ngắn 1955),
”Con chó xấu xí” (tập truyện ngắn 1962). Trong cả hai giai đoạn sáng tác, tuy viết
không nhiều nhưng giai đoạn nào Kim Lân cũng có những tác phẩm hay. Là một cây
bút vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm
hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng. Nói như Nguyên Hồng, ông là nhà
văn một lòng đi về với “đất”, với “người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống
nông thôn (Bước đường viết văn NXB Văn học Hà Nội 1971). (SGK Văn học 12)
Với một tâm hồn luôn hướng về cuộc sống và con người nông thôn, Kim Lân
luôn đặt ra những vấn đề xã hội làng quê rất tự nhiên và gần gũi ,dễ đi vào lòng người
đọc. Đặc biệt dựa trên bối cảnh nạn đói năm 1945, Kim Lân đã thể hiện tài năng của
mình qua tác phẩm “Vợ Nhặt”_một tác phẩm thấm đẫm tinh thần nhân đạo, phản ánh
cuộc sống nghèo khổ, cơ cực và khát vọng về hạnh phúc gia đình của người nông dân
Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Qua đó bày tỏ tiếng nói chung của những ngừơi
nông dân trong thời chiến và những ao ước giản dị của họ , tạo nên sự đồng cảm và
suy nghĩ trong lòng người đọc .

Ngay trong tựa đề,Kim Lân đã gợi sự tò mò cho người đọc.Chuyện dựng vợ gả
chồng là chuyện hệ trọng trong cả đời người,thế mà Kim lân lại dùng hình ảnh “Vợ
Nhặt”,một sự gặp gỡ tình cờ và nhanh chóng tiến đến hôn nhân trong cái bối cảnh
hiện thực của truyện ngắn là nạn đói mùa xuân Ất Dậu 1945,một trong những thời kỳ
đen tối trong lịch sử.Kim Lân đã thổi vào tác phẩm thứ ánh sáng nhập nhoạng,mù mờ
của một buổi tối chiều “chạng vạng”.Và thấp thoáng trong thứ ánh sáng đó là hình ảnh
những con người “xanh xám như những bóng ma”,”nằm ngổn ngang khắp lều
chợ”,”những cái thây nằm cong queo bên đường”,một cuộc sống đang mấp mé bên bờ
vực thẳm giữa sự sống và cái chết,một không khí “vẩn lên cái mùi ẩm thối của rác
rưởi và mùi gây của xác ngừơi”.Những yếu tố mở đầu cho tác phẩm đã gợi lên một
không khí nặng nề,phản ánh được cuộc sống của người nông dân lúc bấy giờ mới khó
khăn,cực nhọc đến dường nào,gây xúc động cho mỗi chúng ta khi ông cha ta đã trải
wo những thời gian khó khăn, ăn “bo bo” thay gạo,chịu đói rét.
Trong khung cảnh đó,nhân vật Tràng hiện lên như một con người hoang sơ
ngật ngưỡng bước đi trong ánh chiều tàn của một cuộc sống không ra cuộc sống.Tràng
được Kim Lân miêu tả với diện mạo chung của người dân lúc bây giờ: hai con mắt gà
gà,nhỏ tí,hai bên quai hàm bạnh ra,bộ mặt thì thô kệch,thân hình thì “vập vạp”,cùng
với cái kiểu “ngửa mặt lên cười hềnh hệch”,”cái đầu trọc nhẵn”,”cái lưng to rộng như
lưng gấu”,và cái áo nâu tàng vắt ở một bên tay,một hình ảnh hết sức hoang dã trong xã
hội đói nghèo .Ngay cả nơi ở của Tràng cũng không kém phần hoang dã như thế: cành
dong rấp cổng,tấm phên rấp che nhà,mảnh vườn lổn nhổn toàn cỏ dại,mà Tràng cũng
chỉ là kẻ ngụ cư,loại người lúc bấy giờ bị coi khinh,ruồng bỏ,một thứ cỏ rác hương
thôn.Và Kim Luân đã dùng sáng tạo nghệ thuật của mình,gây ra những bất ngờ cho
người đọc ở đầu truyện :”Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy,một buổi chiều
người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa.”Một người đàn bà đã
bước vào cuộc sống của Tràng.
Tràng có vợ.Người như Tràng mà có vợ.Cái “kẻ” mang bộ dạng giống như con
gấu hoặc gốc cây xù xì,trần trụi ấy,lại trong một cuộc đời đang bị đẩy sát tới cái ranh
giới phân chia giữa tồn tại và ko tồn tại thế kia,mà lại nhặt được “thứ” vốn biểu trưng
cho hạnh phúc.Tràng có vợ một cách hiển hách,oanh liệt,cứ như một anh chàng tốt số,

đào hoa: chỉ buông ra có một lời ỡm ờ tán tỉnh,mà “cô nàng” đã vội vã theo
không.Tưởng đâu một truyện truyền kỳ về một thời thảm hại. Nhưng đó không phải là
một chuyện cổ tích hay theo một mô tuýp chàng ngốc gặp tiên nữ,nhưng đây lại là
một sự thật não lòng.Người vợ mà được Tràng nhặt về được trên đường đời thảm đạm
cũng thuộc về một dạng người giống như Tràng.Chân dung của chị ta cũng là một bức
ký họa khác với tự nhiên,với những đường nét tai hại cho người phụ nữ:”cái ngực gầy
lép,khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”, gầy xọp,rách mướt,” áo quần tả tơi như tảo đỉa”,
đấy là hình ảnh người đàn bà đã làm đảo lộn cuộc đời Tràng.Nhưng khéo nhất là
những dòng được viết,Kim Lân cho ta nhận thấy:cái người phụ nữ đói rách kia còn xa
mới có thể coi là hiền thục;làm sao mà Kim Lân có thể tả cái đanh đá,cái trơ của
người đàn bà lao động nghèo tài thế,sinh động đến là như thế.Kim Lân cũng rất tài
tình khi tả vợ của Tràng rất cong cớn nhưng không nanh nọc,trơ trẽn.Và cũng chính
cái cong cớn,sưng sỉa, đanh đá,trơ trẽn kia,nó có thể sinh ra từ dốt nát, đói nghèo,tâm
tối chứ tuyệt không sinh ra từ cái ác,cái xấu xa.
Vậy là hai thân phận bọt bèo ấy đã dạt đến nhau qua những lời yêu đại loại
như:”Rích bố cu,hở”,”Hà,ngon!Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”,”Làm đếch gì có
vợ.Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.”. Đó là ngôn
ngữ của tình duyên,hay cũng chỉ là bốn bát bánh đúc mà người đàn ông nổi hứng khao
và người đàn bà cắm đầu ăn liền một chập,chẳng buông một lời trò chuyện gì.Bốn bát
bánh đúc trong những ngày tháng đói kém,chúng đủ phép màu để làm hai con mắt
trũng hoáy của người phụ nữ đói rách sáng lên.Có xót xa không,khi cái đói tuy mang
lại nhiều đau khổ lại cũng có thể xe duyên cho một mối tình giữa hai tâm hồn cũng
nghèo khó. Điều đó,ta nhận thấy dường như không có sự cách biệt giữa Kim Lân và
người nông dân,nên ông mới có thể miêu tả người nông dân trong những năm nghèo
đói mới chân thật đến như vậy,và những tình tiết có vẻ buồn cười thì bên dưới đó lại
là những nỗi buồn và niềm thương cảm.Những trang viết về những con người “dưới
đáy” thế này thì không làm ta khinh ghét họ mà xót thương và buồn cho họ vì họ
không thể sống trong điều kiện tốt hơn trong cái xã hội mà được mọi người gọi là con
người mà chính cái xã hội đó cũng đang từ bỏ họ, để mặc họ trong cái nghèo đói.Ở
đây ,tác giả không phải nói về những nét thấp kém của con người bộc lộ qua nhân

hình và nhân cách.Ngược lại ,với việc đặt nhân vật vào một khoảng sống mờ tối,lắt
lay,nhà văn đã tìm ra một cơ hội song để biểu hiện nỗi bất diệt của niềm khao khát
thèm được sống, được thương yêu và hy vọng.Niềm ao ước hạnh phúc đó không thể
diệt trừ cái đói hay sự u tối của một tương lai không mấy sáng sủa và nó cũng không
bị diệt trừ.Nó cứ âm thầm vươn lên từ đói khát,tối tăm và chính bởi thế mà nó trở nên
cảm động và đáng qúy biết chừng nào.
Khi “nhặt” vợ về,Tràng không phải là không biết suy nghĩ:”thóc gạo này đến
cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bồng”.Nhưng rồi anh lại tặc
lưỡi:”Chậc,kệ!”.Một quyết định có vẻ rất tầm thường với một sự việc hết sức trọng
đại trong thời điểm bấy giờ.Nhưng ta có thể hiều rằng,cái tặc lưỡi đó đồng nghĩa với
việc là Tràng đã đánh cuộc với đời,với cái nghèo đói, để sống “đầy đủ” cuộc sống
bình thường như mọi người. Đó là khát vọng làm người mà một kẻ thô kệch,chất phác
như Tràng vẫn có đã khiến Tràng liều lĩnh một phen.Và Tràng cũng đã được đền
bù:”Trong một lúc,Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề,tăm tối hàng
ngày,quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa từng ngày,và quên cả những tháng
ngày trước mặt.Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn và ngừơi đàn bà đi
bên.Một cái gì mới mẻ,lạ lắm,chưa từng tấhy ở người đàn ông nghèo khổ ấy,nó ôm
ấp,mơn man khắp da thịt Tràng,tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng.”Qua
đó,Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc những cảm xúc: Khác với những người có
đầu óc bi quan thường nghi,sự đói khát,nghèo khổ không làm giảm đi giá trị của lòng
người.Bao giờ cái hạnh phúc được thương yêu cũng qúy hơn tất cả,ngay cả khi người
ta tưởng như rằng không còn cần gì hơn là một miếng cơm ăn.
Con người ai ai cũng mong có được hạnh phúc.Và Kim Lân,hạnh phúc, đến
lượt nó,lại có thể làm thay đổi cả một con người như chính Tràng chẳng hạn.Tràng
hôm nay đã không còn giống như Tràng của những ngày hôm qua.Anh Tràng hôm
nay ngượng nghịu,khổ sở,tay nọ xoa xoa mãi vai kia,chỉ vì đi bên một người đàn bà ở
một nơi vắng vẻ,muốn buông một câu tình tứ mà chịu không sao nói nổi.Rồi đến khi
vợ hỏi,anh chàng to xác ấy lại trả lời một cách đến là vô cùng ngờ nghệch,ngây
thơ:”Có một mình tui mấy u”. Ắt hẳn nhiều người sẽ cười Tràng,cũng đúng
thôi,nhưng có ai đã từng sống qua mà không thấy: có những cái ngượng nghịu,cái

ngẩn ngơ,những sự “khổ sở êm ái” chỉ đến với con người vào những phút giây thật là
hạnh phúc.Cái xúc động mà Tràng đang có vào buổi lần đầu đi bên người vợ
nhặt,ngẫm ra cũng không ít điều xót xa,cay đắng,nhưng ít nhất cũng là một thứ xúc
động,lâng lâng,bồi hồi,biến người đàn ông thô nhám và chai sạn thành một đứa trẻ lớn
tuổi hiền lành.
Cái chi tiết Tràng khoe chai dầu con trong tay cũng thế.Nó không chỉ là một sự
việc buồn cười.Có lẽ cũng nên nhận ra dưới cái cười,một tiếng thở dài thương cảm
cho những kiếp người mà cuộc đời khốn khổ đến mức việc mua có hai hào dầu là
cũng đã là một cái gì hoang phí lắm,một cử chỉ có vẻ lãng mạn,ga-lăng lắm
lắm.Nhưng dẫu sao thì Tràng đã có cái hãnh diện mà trước kia anh ta chưa từng có.cái
hãnh diện được làm một người chồng, đuợc có một đêm tân hôn, được biết mùi vị tiêu
hoang một chút để có lấy một lần sáng sủa trong cái thực tại mù mờ:”Hai hào đấy, đắt
quá,có mà thôi chả cần.”,một lời nói nghe sao mà thật tội nghiệp,nhưng trong cái tội
nghiệp đó là một niềm vui không tầm thường,bởi trong hoàn cảnh như thế của Tràng
lúc ấy, được coi thường đồng tiền vì một đềiu gì đó lớn hơn, trong trẻo,qúy báu hơn
đâu có thể cho là một niềm vui hạ cấp?”
Cũng có thể nghĩ như vậy về cái câu Tràng giới thiệu vợ mình với mẹ:”Kìa nhà
tôi nó chào u.”.Kim Lân quả thật rất tài trong việc sử dụng những lời thoại ít chữ,văn
xuôi hết sức,những câu văn không hề cầu kỳ,gọt giũa,mơ mộng,mà mang đậm phong
cách làng quê và lại rất tình cảm chứa đọng trong từng câu nói.Người mà Tràng gọi là
“nhà tôi” ấy,cái người con dâu đang thực hiện những nghi lễ đầu tiên ra mắt mẹ chồng
tuy là chỉ nhặt được,chưa trải qua cưới hỏi,chưa gặp mặt qua một lần,chưa được mẹ
chồng diện kiến “nhan sắc” của mình một lần nhưng những tiếng của Tràng gọi nghe
thật nở ruột nở gan như một sự chứng nhận hẳn hoi,rành rọt trước mẹ Tràng,người đàn
bà ấy và chính Tràng,một sự thật hiển nhiên:”Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?Hà!…”.Tuy
sự xác nhận ấy có chút nặng nề nhưng cũng giúp Tràng có được một cuộc sống của
con người bình thường:”Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của
hắn lạ lùng.Hắn đã có một gia đình.Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy.Cái nhà như
cái tổ ấm che mưa che nắng Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người.” Đó cũng là những
ao ước của những người nông dân luôn mong có được một gia đình hạnh phúc.Giống

như nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao,từng có khát vọng cùng
Thị Nở xây dựng gia đình,dù rằng đi làm thuê mướn cho người ta,cùng nhau mỗi ngày
được thưởng thức “bát cháo hành” của vợ.Chính những cái ước mơ vô cùng giản đị
như thế đã tạo nên nét đẹp trong tâm hồn người nông dân Việt,và Kim Lân đã đưa vào
tác phẩm những điều tinh túy và tiếng nói đầy tính nhân bản ,tạo nên sự đồng cảm
thiết tha cho người đọc.
Nói về người vợ của Tràng,người đã tìm ra một chốn để nương tựa thân phận
người phụ nữ của mình trong cảnh đói nghèo,Kim Lân đã bộc lộ vài sự thất vọng thầm
kín khi thấy cảnh tù túng nhà chồng chồng: một tiếng thở dài cố nén trong “cái ngực
gầy lép nhô hẳn lên” trước túp nhà rách nát và rúm ró;cách nhếch cười nhạt nhẽo và
nét mặt bần thần khi bước vào nơi ở của anh chàng mới lúc ban ngày còn vỗ túi khoe
“rích bố cu”;hai con mắt thoáng tối lại khi được bà lão đon đả mời ăn bát cám.và khi
trên đường “rước dâu” dài dặc giữa xóm ngụ cư.cái cô nàng cong cớn và trơ trẽn hồi
nào bỗng trở nên e dè ngượng ngập;và có khó chịu lắm trước những sự tò mò trêu cợt
thì cũng chỉ dám càu nhàu trong miệng,khẽ đến mức ông chồng đi bên cũng không
nghe thấy. Đôi mắt tư lự khi đặt bước trên con đường về nhà chồng,cả cái dáng điệu
khép nép ngồi mớm ở mép giừơng và tiếng chào u lúng túng tất cả những cái đó chỉ
làm cho người đàn bà gầy nhom,xám xịt và rách rưới c1o được cảm giác m2inh đã là
một nàng dâu thực sự,một bông hoa đã có chủ.Và chính Tràng cũng ngạc nhiên trước
những thay đổi của nàng ta:”Tràng nom thị hôm nay khác lắm,rõ ràng là người đàn bà
hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở
ngoài tỉnh.”Cuộc đời éo le và nhận hậu bao nhiêu dưới ngòi bút của Kim Lân khi chị
vợ kia lại chịu đi theo một người đàn ông như Tràng ,xấu xí và xa lạ như để tránh sự
cô đơn và nghèo đói.Thế mà khi đến nhà chồng thì nàng ta vẫn chẳng thoát được cái
đói của cuộc đời.Nhưng bù cho điều đó nàng lại nhận được một món quà khác đó là
tình thân,tình thương,một mái ấm gia đình,một nghĩa vụ phải biết lo lắng cho nửa kia
của mình và cũng là điều mà Kim Lân muốn nói:dù đói khổ,khó khăn vất vả nhưng
không thể thiếu trong cuộc sống tình thương yêu gia đình, điều đó mới có thể giúp ta
cảm thấy được mình vẫn là một con người bình thường như bao người khác.
Kim Lân thật tài trong những câu đối thoại giữa vợ chồng Tràng.Nó lửng lơ,với

những câu nói trổng không,dân dã,bình thường,nghe rất lạ lẫm đối với những cặp vợ
chồng khác đến hay đối với hai người dân đói khổ bỗng thoáng chốc trở thành vợ
chồng,ngay cả khi đi chung với nhau vẫn còn chưa hết ngượng ngùng.Và nó không
chỉ thể hiện qua lời nói,mà còn qua cái củng vào trán cùng với một tiếng “dơ”,cái cười
hì hì của gã đàn ông,và trước đó là cái lườm của chị vợ giống như nhân vật Thị Nở
của Nam Cao:”Một người đàn bà thật xấu khi yêu cũng lườm.”Nhưng đối với chị vợ
của Tràng thì đó còn là một người đàn bà đói rách đang đong đưa con mắt để quên cái
xấu,cái nghèo của mình mà nghĩ đến “tình yêu vợ chồng”.Một cái nét đẹp, đáng quý,
đáng yêu, đáng buồn cho cái hạnh phúc của đời thường,nạn nhân của xã hội nghèo
khổ,nắm bắt ngay những thời cơ để được yêu, để được biết thế nào là hạnh phúc, được
hưởng thụ một lần trong đời và để được sống như bao ngừơi khác,và nếm được hương
vị của gia đình.
Và một nhân vật được Kim Lân đưa vào ngay giữa truyện đó là bà cụ Tứ,mẹ
của Tràng,một nhân vật làm nổi bật cái khát khao của hai chữ “gia đình” lúc bấy
giờ.Bà cụ không hài hước như đôi vợ chồng Tràng,mà đó là một con ngừơi đã một
kiếp phải sống trong nỗi đau,vất vả,nuôi con khôn lớn.Và cũng chính cái kinh nghiệm
từng trải,lòng ám ảnh của một quá khứ nặng nề với nhiều nỗi đắng cay và những băn
khoăn của người làm mẹ:”Bà lão nhớ đến ông lão,nghĩ đến đứa con gái út.Bà lão nghĩ
đến cuộc đời cực khổ dái dằng dặc của mình.Vợ chồng chúng nó lấy nhau,cuộc đời
chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?”. Điều đó cho ta thấy rằng bà cụ Tứ về
những nghịch cảnh éo le của việc hôn nhân, đặc biệt là một cuộc hôn nhân “vội vã” và
trong cái thời điểm cũng chẳng ư là thích hợp.Và bà cụ cũng tự nghĩ rằng đó là một
duyên kiếp không nên có:”Chao ôi,người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong
nhà ăn nên làm nổi,những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này.Còn mình thì…biết
rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”.Nhưng sự
tình đã rồi,trứơc mắt bà là ngừơi con dâu,mặt cúi xuống,”tay vân vê tà áo đã rách
bợt”.Và rồi bà cụ Tứ cũng chuyển cách nghĩ về việc có vợ là một cơ may:”Người ta
có gặp bước khó khăn đói khổ này,người ta mới lấy đến con mình.Mà con mình mới
có vợ được…Thôi thì bổn phận bà là mẹ,bà đã chẳng lo lắng được cho con…”câu văn
nghe thật cảm động nhưng có chút gì nhoi nhói,một chút tủi hờn,ai oán số phận,nén

cái cảm giác bất đắc dĩ trứơc việc đã bày ra trứơc mắt,hoà với chút rưng rưng,xao
xuyến một niềm vui.Qua đó ta càng lại thấy qúy trọng người mẹ chồng này hơn khi bà
nói nhẹ nhàng với nàng dâu mới:”Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau,u
cũng mừng lòng”,lột tả cái thần thái của tấm lòng vị tha cao cả,giấu đi những giọt
nứơc mắt xót thương vì sợ gây cho người mình thương xót nhiều lo lắng:”Có đèn đấy
à? Ừ thắp lên một tí cho sáng sủa…Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ.” Đó là thứ ánh
sáng mờ trong đêm tối,một ánh sáng cho cái tương lai không ổ định,một thứ không
biết lúc nào tắt,nhưng cũng là niềm hy vọng nhỏ nhoi của bà cụ Tứ dành cho vợ chồng
Tràng.Có thể nói bà cụ Tứ là người có nhiều hy vọng nhất:từ cái việc đan cái phên
ngăn riêng chỗ của vợ chồng đứa con trai cho kín đáo;rồi việc”khi nào có tiền ta mua
lấy đôi gà” và những ước mơ nghe thấy chạnh lòng “rồi may ra ông giời cho khá…Có
ra thì rồi con cái chúng mày về sau.”Tuy đã gần đất xa trời nhưng bà không ước ao gì
cao xa,bà chỉ ao ước cho con mình,cho gia đình ,cho thế hệ con cháu mai sau,vun vén
những gì tốt đẹp nhất cho con cháu Có ai ngờ rằng một bà cụ đang chờ về thế giới
bên kia,lại có niềm hy vọng tràn trề không bị tàn lụi theo năm tháng và tuổi tác.
Tác phẩm luôn đề cập hai vần đề trái ngược nhau, đan xen thành một chỉnh thể
nghệ thuật chung.Ta có thể thấy rõ khi nói về việc Tràng đưa vợ về nhà,cái nhìn của
người dân xóm chợ khi “nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về
bến”,:”Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên.Có cái gì lạ
lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát,tăm tối ấy của họ.”,rồi sau đó là “một
người thở dài”,và sau tiếng cười rung rúc bất chợt nổi lên là sự nín lặng_nín lặng của
nỗi buồn lo.Rồi lại trong lời bà cụ nói:”Cốt làm sao chúng mày hoà thuận là u mừng
rồi.năm nay thì đói to đấy.Chúng mày lấy nhau lúc này,u thương quá…”.Và rõ nhất là
những giờ phút hạnh phúc của đôi vợ chồng son trên cái nền âm thanh của tiếng ai hờ
khóc người chết đói cứ tỉ tê lúc to lúc nhỏ,dai dẳng tận đêm khuya.Sự đan xen tình
huống truyện ngây ngô của những ngừơi nông dân chất phác,bình thường với những
ước mơ nhỏ nhoi giữa một thế giới ,một tương lai mở nhạt, một cuộc sống u ám, ranh
giới giữa sự sống và cái chết.
Truyện mở ra là buổi chiều chạng vạng mặt người và khép lại trong “ánh nắng
buổi sáng mùa hè sáng loá”.Mở đầu là một anh Tràng cô đơn bước cao bứơc thấp trên

con đường khẳng khiu dưới ánh chiều mờ của một gầm trời đầy đói khát,nhưng kết
thúc là Tràng đã có một gia đình,mọi ngừơi đang xăm xắn quét tước,thu dọn nhà cửa
cho quang qủe và cố làm cho nhau vui trứơc một bữa ăn loãng thếch và đáng chát,và
cũng có len lỏi vào đó một nỗi tủi hờn trứơc việc phải ăn món ăn vốn không phải là
của con người,rồi lại tiếng trống thúc thuế trên mảnh đất đầy người chết đói,xua đoàn
quạ hốt hoảng vù bay,khiến nền trời thành đen vẩn.Song lại có câu chiện về phá kho
thóc Nhật và hình ảnh lá cờ đõ phấp phới trong óc Tràng.Anh đã nhận thức được con
đường để thoát nghèo đói là đấu tranh,hình ảnh lá cờ soi sáng anh đi đến lý tưởng
đúng đắn nói riêng,và tinh thần đấu tranh của người nông dân đang thôi th1uc họ
mạnh mẽ tháot khỏi kiếp nghèo và một ngọn lửa hy vọng rực cháy về một tương lai
sáng sủa,một khát vọng tình yêu,hơi ấm gia đình,hoà bình và tự do.Qua đó Kim Lân
đã gửi gắm tiếng nói chung của những người nông dân rũ bùn đứng dậy sáng
loà,chiến đấu vì đất nứơc,vì để thoát khỏi số phận tối tăm trứơc mắt.Hình dáng người
nông dân nổi bật trước lá cờ đỏ sao vàng,lá cờ lý tưởng cách mạng,lá cờ của niềm tin
chiến thắng.Và qua đó nói lên một niềm tin,một hy vọng tràn trề về một chiến
thắng,sự thoát khỏi cuộc sống cơ cực và hai từ “hoà bình” ,”tự do”.
Với vốn liếng ngôn ngữ giàu có và đặc sắc,mang đậm tính chất nông thôn,cái
lối viết văn tưởng như dễ dàng mà không thể phỏng theo ,giản dị vô cùng mà vẫn ánh
lên được chất hào hoa Kinh Bắc.những tâm trạng kín đáo nhất cũng phải hiện lên qua
những cử chỉ hành động một cách tinh tế :tiếng gắt vô duyên vô cớ,một tiếng khẽ ho
bình thừơng,những bứơc chân bứơc vội ra sân,thái độ điềm nhiên và miếng cám vào
trong miệng…Nhưng cái đọng lại cúôi cùng là cái nhìn đời,nhìn đời đầy xót xa và
thương yêu của nhà văn,là niềm tin mà ông muốn trao gửi đến tất cả chúng ta qua tác
phẩm.Dù cuộc sống có bi thảm đến đâu đi chăng nữa thì chính cái cội nguồn nhân bản
lưu giữ cho nâhn dân là bất diệt,và con ngừơi không có kháo khát chính đáng nào hơn
là khao khát được sống như một con người, được nên ngừơ,có được mái ấm gia
đình,một cuộc sống ấm no đầy đủ,tình yêu đôi lứa,niềm hạnh phúc trong cuộc sống và
tình thương yêu giữa người với người,và để bảo vệ chính mình, để thoát khỏi sự áp
bức, đói khổ,những ngừơi nông dân trở thành lá cờ đầu cho công cuộc bảo vệ đất
nứơc.

Có thể nói,tác phẩm truyện ngắn “Vợ Nhặt” của Kim Lân là một sự tiếp nối
của những tác phẩm văn chương hiện thực phê phán như của Nam Cao,Tô Hoài,…từ
trứơc Cách mạng tháng Tám .Vẫn những mảnh đời éo le,bất hạnh,hay gặp những
mảnh đời khó khăn trong những tình huống dở khóc dở cười,hay trong tác phẩm
này,chúng ta lại thấy một cuộc sống của những ngừơi nông dân sau Cách mạng trong
cái đói nghèo của một xã hội cần được phải cải thiện mới, đó là những người có một
tâm hồn trong sáng,tràn đầy lòng yêu thương,luôn luôn ấp ủ trong tâm hồn mình
những hy vọng, ước ao nhỏ bé ,hồn hậu.Chính Kim Lân đã đưa người đọc quay về
một thời đen tối của nạn đói,qua đó ngừơi đọc đồng cảm ,xúc động cho những số
phận, những mảnh đời bất hạnh sống.Người đọc còn nhận ra điều Kim Lân muốn gửi
gắm đã nêu ở trên. Nhữnghình ảnh,chi tiết về anh Tràng cùng chị vợ trong cuộc hôn
nhân “vội vàng”,e ấp,ngại ngùng trên đường về nhà và hình ảnh bà cụ Tứ trong hình
ảnh một ngừơi mẹ,một ngừơi từng trải ,về những băn khoăn cho con cái thật sự làm
đau đớn,chạnh lòng khi đọc đến những câu văn tha thiết,súc tích biết dường nàoBản
thân tôi, khi đọc những dòng văn mà Kim Lân viết,tôi đã có rất nhiều cảm xúc,những
cảm xúc tự hào về cha ông đã không vì nạn đói,nguy nan trứơc mắt mà từ bỏ để rồi
xây dựng nên đất nứơc Việt Nam như ngày hôm nay,cảm xúc về những ngừơi nông
dân bình dị nhưng lại chất chứa bên trong những niềm hy vọng nhỏ nhoi nhưng đầy
nhiệt huyết. Tuy thời gian đã qua ,nhưng những hình ảnh về một thời đ1oi khổ,một
thời chiến đấu của nhân dân ta vẫn còn hiện lại trong tôi như mới đây thôi. Điều đó
càng làm tôi cảm thấy mình có trách nhiệm trong việc giữ gìn, bảo vệ và xây dựng đất
nước mà chính những người nông dân,và ông cha ta đã gầy dựng.

Đề 3: Phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm "Vợ nhặt"

Văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám không chỉ giầu tính chiến đấu mà
còn giầu tính nhân đạo . Hai tính chất này không tách rời nhau, luôn gắn bó khăng khít
và hỗ trợ nhau cùng phát triển . Vợ nhặt của Kim Lân được hoàn thành vào thời gian
sau năm 1955, trên cơ sở một bản thảo cũ viết ngay sau cách mạng tháng Tám 1945 .
Khoảng cách mươi năm ấy đã giúp nhà văn thể nghiệm sâu sắc tư tưởng của tác phẩm

, làm cho nó trở thành một tác phẩm mang những giá trị nhân đạo hết sức sâu sắc và
phong phú .
Tác phẩm bắt đầu bằng việc miêu tả sự đổi thay to lớn của xóm làng khi nạn
đói tràn tới . Anh cu Tràng, một người vô tư, vui tính, được trẻ con yêu mến mà nay
“đi từng bước mệt mỏi”, “cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước” . Các lều chợ đầy
những người đói bồng bế , dắt díu nhau “xanh xám như những bóng ma”… Nạn đói
tràn đến đang gieo rắc cái chết và xóa mất sinh khí của xóm làng . Hình như không ai
tin mình có thể sống qua nạn đói , và chính cái đói đã làm mất đi nhân cách con người
như người đàn bà mà Tràng gặp . Giữa lúc ấy thì Tràng nhận người đàn bà kia làm vợ
. Người ta thường nói cái đói làm cho con người trở nên mất giá . Cô gái theo Tràng
chỉ vì một câu nói đùa và bốn bát bánh đúc làm cỗ cưới. Nhưng đó không phải là cách
nhìn của nhà văn . Với cái nhìn nhân đạo, nhà văn nhìn thấy khát vọng sống còn bức
thiết của cô gái . Ông cũng thấy niềm khát khao có được vợ của anh cu Tràng . Anh
cũng liều lĩnh tắc lưỡi : ”Kệ” , cứ đón cô ta về đã .
Lòng yêu thương, trân trọng của tác giả đối với những người bất hạnh thể hiện
ở cảnh dắt díu nhau về làng của cả hai người . Nhà văn không hề có chút rẻ rúng nào
khi miêu tả cuộc về làng của họ . Trái lại ngòi bút tươi vui, dí dỏm, tinh tế khắc họa
mọi cảm nhận hạnh phúc của Tràng . Hơn hai mươi lần truyện ngắn nhắc đến nụ cười
của Tràng với nhiều sắc thái khác nhau . Đi bên thị, anh quên đi cảm giác ê chề , tăm
tối của cuộc sống hàng ngày . Đó là gì nếu không phải do anh đã thấy ở cô gái một
nguồn ấm áp tươi sáng tỏa rạng đời mình . Về cô gái cũng vậy, cô không hề có một
chút mặc cảm thân phận “bị nhặt” . Bên cạnh dáng vẻ thẹn thùng của nàng dâu mới về
nhà chồng, cô vẫn chế giễu Tràng “bé lắm đấy”, khi thì phết vào lưng anh và “khoặm
mặt” lại với anh , khi thì mắng là “khỉ gió”… Cô vẫn cảm thấy mình có đủ sức mạnh
đối với phái mạnh như bất cứ một cô gái bình thường nào khác . Họ thực sự hướng về
nhau, thích thú nhau như mọi đôi tình nhân khi bắt đầu làm quen .
Điều thú vị là tác giả đã để cho hai người dắt díu nhau diễu qua trước mặt dân
làng . Rõ ràng sự kết hợp của họ đem lại sinh khí cho cái làng đầy tử khí . Trẻ con thì
gào lên “Chông vợ hài” . Người trong xóm thì “những khuôn mặt hốc hác u tối của họ
bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên . Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát ,

tăm tối ấy của họ ” . Họ không hiểu nổi , họ thở dài, họ nín lặng, bởi vì họ đang tuyệt
vọng . Sự kết hợp liều lĩnh của Tràng và cô gái là một thách thức quyết liệt của khát
vọng sống và khát vọng hạnh phúc trước mọi ý thức tuyệt vọng và tê dại vù nạn đói ,
và không phải không có tác dụng làm cho tâm hồn họ rạng rỡ hơn . Nhà văn như hoàn
toàn khẳng định sự sống và ý chí sống còn của con người , trân trọng và yêu mến hành
động liều lĩnh của họ trong đoạn văn này .
Nhưng tư tưởng chủ đạo của tác phẩm không chỉ có thế . Qua cuộc gặp gỡ với
người mẹ và sau một đêm trở thành vợ chồng , nhà văn khẳng định tình yêu cuộc sống
sẽ thắng được chết chóc, cuộc sỗng sẽ thay đổi .
Bà mẹ trước nạn đói cũng thất vọng và hoài nghi như mọi người “biết rồi
chúng nó có nuôi nổi nhau qua được cơn đói khát này không”, bà cũng thở dài .
Nhưng bà là mẹ, bà thấy sự “nhặt vợ” cũng là may, nên bà mừng lòng, bà nuôi hi
vọng cho đôi trẻ . Bà mẹ nhìn con dâu lòng đầy thương xót , không chút coi thường .
Bà nghĩ đến việc phải có dăm ba mâm cho phải lẽ , chứng tỏ trong lòng bà không
vướng ý nghĩ “nhặt không người đàn bà”cho con mình . Đó là tình cảm nhân đạo có
tác dụng nâng cao phẩm giá con người . Có thể nói Kim Lân chọn tình huống “nhặt
vợ”, một tình huống con người bị đánh mất phẩm giá trong mắt mọi người ngoài cuộc
để nâng niu, khẳng định phẩm giá của họ, những người trong cuộc .
Sau một đêm thành vợ chồng tại ngôi nhà nát, sáng hôm sau vẫn trong cơn đói
khát , nhưng một không khí đầy sinh khí đã đến với tất cả mọi người . Ngôi nhà sạch
sẽ, gọn gàng, ang nước đầy ắp … , người vợ trở nên hiền hậu đúng mực, còn Tràng thì
“bỗng dưng hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng … Bây giờ hắn
mới thấy hắn nên người…” . Một niềm tin vào tương lai gieo vào lòng mọi người :
“Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc
đời họ sẽ khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn . Chưa bao giờ trong nhà này, mẹ con
lại đầm ấm, hòa hợp như thế” . Nhưng bữa ăn ngày đói đưa họ trở lại với hiện tại đói
khổ, mặc dù trước đó họ luôn nói chuyên tương lai với những khát khao hạnh phúc ,
để họ nhận thức được muốn tồn tại phải hành động và Việt Minh là cánh cửa đưa họ
tới ước mơ tươi sáng ngày mai, dù hiện tại trong suy nghĩ của Tràng, Việt Minh vẫn
còn xa vời và đã có lúc Tràng chạy trốn Việt Minh bởi ở Tràng vẫn còn tồn tại hố sâu

ngăn cách về nhận thức .
Mở đầu tác phẩm là một tình huống truyện độc đáo, tình huống Tràng cưới vợ
khác với tập tục truyền thống . Cốt truyện thay đổi theo sự vận động của những tâm
hồn ham sống và cái tất yếu phải đến là sự vùng lên giải thoát của những thân phận
đau khổ . Mặc dù hiện tại nhà văn chưa nói đến sự giác ngộ cách mạng của gia đình
Tràng .
Tóm lại tác phẩm là một truyện ngắn chứa chan tình cảm nhân đạo . Nó khẳng
định sức sống tiềm tàng trong mỗi con người và khát vọng hạnh phúc không gì có thể
vùi lấp nổi . Đó là một tư tưởng nhân đạo mới mẻ , đầy tính chiến đấu .

×