Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Giữa kỳ Lịch sử Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.02 KB, 4 trang )

Đánh điểm, diệt viện hay Vây đồn diệt viện là chiến thuật cơ động trong quân sự được sử dụng
bởi Quân đội Nhân dân Việt Nam, chiến thuật được sáng tạo trong thời kỳ Chiến tranh Đông
Dương. Đại tướng Võ Nguyên Giáp là vị tướng đã sáng tạo nên chiến thuật này trong thời gian
hoạch định tấn công Đông Khê.[1]

Mô tả chiến thuật
Đây là chiến thuật nhấn mạnh yếu tố cơ động, bao gồm sự phối hợp của tấn công và mai phục. Một
đơn vị quân sự sẽ tấn công vào một cứ điểm quân sự,[2] nhằm gây áp lực buộc quân đối phương
đưa quân chi viện. Lực lượng chi viện đến ứng cứu sẽ bị đón đánh [2] bởi một lực lượng của qn tấn
cơng đã chờ sẵn. Tâm điểm tấn công tiêu diệt không phải là lực lượng đối phương đang phòng thủ
tại cứ điểm mà là lực lượng đến chi viện.[3][4] Việc đón đánh một đạo quân đang trên đường di
chuyển sẽ dễ dàng hơn việc đánh bại một lực lượng đồn trú đang phịng thủ, bao gồm yếu tố bất
ngờ, qn đón đánh trong tình trạng mai phục đã sẵn sàng cũng có lợi thế hơn. [5]
Trong các trường hợp cứ điểm quan trọng, cuộc tấn cơng sẽ dứt khốt để chiếm lấy cứ điểm đó, vì
nhất định qn đối phương sẽ tổ chức tái chiếm, sau khi chiếm được cứ điểm, quân tấn cơng vẫn
phải mau chóng tổ chức đón đánh qn chi viện.[5][6]
Việc tổ chức lối đánh này phụ thuộc vào việc đánh giá chính xác địa bàn và cứ điểm quân sự mà
quân đối phương nhất định sẽ chi viện, hoặc nhất định sẽ tổ chức tái chiếm. [7] Cũng như tính tốn
hướng chuyển qn đến của đối phương, từ đó bố trí tốt các điểm mai phục.

Lịch sử[
Chiến thuật này sử dụng qua hai cuộc chiến tranh, chiến tranh Đông Dương và chiến tranh Việt
Nam. Lần đầu tiên chiến thuật được sử dụng trong chiến đấu ở cấp chiến dịch là trong Chiến dịch
Biên giới bắt đầu vào ngày 7 tháng 7 năm 1950.[5][8][9]
Việc sử dụng chiến thuật này phù hợp trong giai đoạn chiến đấu thứ hai với hình thức chiến tranh
Vận động chiến, cao hơn một mức so với Du kích chiến ban đầu nhưng vẫn chưa thể chuyển sang
Trận địa chiến. Do bối cảnh Quân đội nhân dân Việt Nam lúc này chưa đủ khả năng tấn cơng tập
đồn cứ điểm mà chỉ có thể tấn cơng từng cứ điểm. Chiến thuật được sử dụng trong các giai đoạn
sau đó, đặc biệt là chiến dịch Hịa Bình.[10]
Chiến thuật được sử dụng trong Chiến dịch Ba Gia vào năm 1965, một chiến dịch mà Đảng Cộng
sản Việt Nam đánh giá là làm phá sản chiến lược Chiến tranh đặc biệt của Hoa Kỳ và đồng minh.[6]



Tiền sử
Cách đánh tương tự cũng được nghiên cứu qua nhiều trận đánh trước đó trong lịch sử Việt Nam,
điển hình như trận vây hãm thành Đông Quan vào năm 1427 bởi Nghĩa quân Lam Sơn. Quân Minh
do Vương Thông chỉ huy cố thủ trong thành chờ viện binh, do thành lũy kiên cố, nếu cố sức đánh sẽ
mất nhiều thời gian và tổn thất, cũng như nhiều bất lợi cho chiến cục chung, nên Lê Lợi tiếp tục "vây
thành", ưu tiên tấn công "diệt viện" quân chi viện do Liễu Thăng và Mộc Thạnh chỉ huy. Sau khi
quân chi viện bị đánh bại thì quân Lam Sơn tập trung hạ thành. [11]
Nghệ thuật “trói địch lại mà đánh” trong chiến dịch Tây nguyên
LTS: Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên (tháng 3-1975) là đòn đánh tiêu diệt mở đầu, mở ra điều kiện thuận lợi cho cục diện chiến lược trong cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.
Một trong những nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự ở Chiến dịch Tây Nguyên chính là thế trận “trói địch lại mà đánh”, nghĩa là thế trận hồn tồn chủ
động tiến cơng, buộc địch phải bị động đối phó theo cách đánh của ta. Để thực hiện thế trận này, ta chủ trương: "Chia cắt, vây hãm, vừa hãm vừa tiến


cơng đột phá; vừa bí mật vừa nghi binh”. Qua hồi tưởng của Trung tướng, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Quốc Thước, nguyên Tham mưu trưởng
Chiến dịch Tây Nguyên; Trung tướng, Anh hùng LLVT nhân dân Khuất Duy Tiến, nguyên Trưởng phòng Tác chiến Chiến dịch Tây Nguyên và Đại tá Lê
Quang Huân, nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 19, Sư đoàn 968, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thế trận này.
Bài 1: Xây dựng thế trận chia cắt
Chọn hướng tiến công chiến lược vào Tây Nguyên là chúng ta chọn đúng điểm nhạy cảm, đánh vỡ đôi thế trận, gãy ngang xương sống của phía đối
phương. Muốn "bẻ gãy xương sống” của địch, trước hết phải tạo lập thế trận chia cắt-vấn đề then chốt góp phần quyết định vào thắng lợi của Chiến
dịch Tây Nguyên.
Tại sao ta chọn Tây Nguyên làm hướng mở đầu? Năm nay, Trung tướng, Anh hùng LLVT nhân dân Khuất Duy Tiến đã bước sang tuổi 92 nhưng trí tuệ
vẫn mẫn tiệp. Mở đầu câu chuyện, chúng tôi đặt vấn đề tại sao ta chọn Tây Nguyên làm hướng mở đầu trong cuộc Tổng tiến công chiến lược năm
1975, Anh hùng Khuất Duy Tiến phân tích: Sau Hiệp định Paris (1973), lực lượng địch vẫn còn mạnh với hơn 1 triệu quân; 2.074 xe tăng, xe thiết giáp;
1.556 khẩu pháo các loại; 536 máy bay phản lực; 580 tàu, xuồng chiến đấu...
Chúng chốt giữ mạnh ở hai đầu, ở phía Nam là quân khu 3, tập trung ở Sài Gòn-Biên Hòa, nhằm bảo vệ trung tâm chính trị, cơ quan đầu não của chế
độ ngụy Sài Gịn; phía Bắc là qn khu 1, khu vực Quảng Trị-Huế-Đà Nẵng để sẵn sàng đối phó với qn ta tiến cơng từ phía Bắc vào. Còn ở giữa Tây
Nguyên và các tỉnh duyên hải miền Trung, chúng bố trí lực lượng mỏng hơn.
Trung tướng Khuất Duy Tiến cũng nhấn mạnh: Tây Ngun có vị trí chiến lược quan trọng, nhưng điểm yếu cốt tử là nhiều núi cao hiểm trở, hệ thống

giao thông kém phát triển, địch cơ động lực lượng chủ yếu dựa vào một số trục đường chính (14, 19, 21, 7...). Khi các trục đường này bị cắt và “khóa
chặt” thì Tây Nguyên bị cô lập, tách rời khỏi vùng đồng bằng Nam Trung Bộ và cả chiến trường miền Nam, duy nhất cịn lại đường khơng để địch chi
viện, ứng cứu.
Tây Nguyên chủ yếu là rừng già kín đáo, thuận lợi cho ta triển khai đội hình bảo đảm bí mật, triển khai binh khí kỹ thuật cho tác chiến hiệp đồng binh
chủng hợp thành. Đây cũng là chiến trường ta đã có nhiều kinh nghiệm trong các lần đối đầu với địch cả ở cấp chiến dịch, chiến thuật và rất phù hợp
với sở trường tác chiến của ta. Nếu ta làm chủ được Tây Nguyên sẽ chia cắt thế chiến lược của địch, khống chế toàn bộ chiến trường miền Nam Đơng
Dương. Nếu mất Tây Ngun và tồn bộ quân khu 2 bố trí tại đây, thế chiến lược của địch sẽ bị chia cắt, quân khu 1 của địch bị cô lập, quân khu 3 trực
tiếp bị uy hiếp.
Xây dựng thế trận chia cắt
Từ phân tích những yếu tố về mặt chiến lược như trên, Trung tướng Khuất Duy Tiến khái quát: Để đánh Tây Nguyên trước, ta phải tạo lập thế trận đủ
mạnh, nhất là tạo thế chia cắt, bao vây. Việc chia cắt chiến trường Tây Nguyên phải đạt hai mục tiêu. Về mặt chiến lược: Phải chia cắt giữa tuyến Tây
Nguyên với tuyến hậu phương các tỉnh đồng bằng ven biển miền Trung, nhằm cô lập Tây Nguyên với các chiến trường khác ở miền Nam. Mục tiêu
chia cắt là Đường số 19 và Đường số 21.
Để chia cắt Đường số 19, Bộ Tổng tư lệnh cho một sư đoàn của Quân khu 5 đảm nhiệm chia cắt đoạn từ Phú Phong đến An Khê (Bình Định), một
trung đồn của lực lượng chiến dịch đảm nhiệm đoạn từ Côn Tầng đến A Dun (Gia Lai). Để chia cắt Đường số 21, một trung đoàn khác của lực lượng
chiến dịch đảm nhiệm đoạn đông-tây Chư Cúc thuộc địa phận huyện Khánh Dương.
Về mặt chiến dịch là chia cắt giữa các khu vực phòng ngự với nhau trên chiến trường Tây Nguyên, cụ thể là chia cắt nam và bắc Tây Nguyên, làm cho
các khu vực không liên hệ và chi viện được cho nhau. Bởi ở Tây Nguyên, địch cho quân khu 2 chốt giữ, ở khu vực Pleiku-Kon Tum, chúng có hai sư
đồn chủ lực với 500 xe tăng, xe thiết giáp, 7 liên đội biệt động, hàng vạn lính bảo an.
Trong khi đó, ở Bn Ma Thuột, địch chỉ có 1 trung đồn bộ binh, 2 chi đoàn thiết giáp, 2 tiểu đoàn pháo binh; hậu cứ sư đoàn 23, trung đoàn 45, trung
đoàn 8 thiết giáp, trung đoàn 232 pháo binh... tổng số hơn 8.400 tên. Vì vậy, bài tốn phải chia cắt nhằm cắt và giữ tập đoàn chủ yếu của địch ở PleikuKon Tum, làm cho Buôn Ma Thuột sơ hở và cơ lập để ta dễ tiêu diệt. Do đó, trên Đường số 14, một sư đoàn mạnh của lực lượng chiến dịch vừa đảm
nhiệm đánh chia cắt đoạn Cẩm Ga-Thuần Mẫn nhằm cắt đứt sự liên hệ của địch giữa Pleiku với Buôn Ma Thuột, cô lập Buôn Ma Thuột, đồng thời lại
đảm nhiệm tiêu diệt quân tăng viện từ Pleiku xuống Buôn Ma Thuột và sẵn sàng làm lực lượng cơ động cho chiến dịch.
Thực hiện thế trận đánh chia cắt trên, ta có khả năng loại trừ được tình huống quân địch từ chiến trường ven biển lên tăng viện cho Tây Nguyên bằng
đường bộ, hoặc cơ động lực lượng từ khu vực này sang khu vực khác trên chiến trường Tây Nguyên.


Nhưng chúng vẫn có thể có khả năng tăng viện bằng đường không, tuy lực lượng tăng viện không lớn. Vì vậy, các lực lượng đánh chia cắt phải dự
kiến được khu vực địch đổ bộ, có kế hoạch tác chiến trên hướng đánh chia cắt và sẵn sàng có lực lượng cơ động phối hợp với binh đoàn dự bị của
chiến dịch để nhanh chóng tiêu diệt chúng.

Đánh Bn Ma Thuột như thế nào?
Trung tướng Khuất Duy Tiến cho biết, theo kế hoạch ban đầu, Bộ tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên được trên giao nhiệm vụ mở thông con đường vận tải
nối giữa Tây Nguyên với miền Đông Nam Bộ, tức là chỉ “dạt” địch ra để xây dựng một con đường vận tải chiến lược. Cuối năm 1974, Phòng Tác chiến
chiến dịch đã tham mưu, đề xuất xây dựng kế hoạch mang tên “Chiến dịch tháng 2-1975” với các mục tiêu tấn công vào Thuần Mẫn, Đức Lập, Gia
Nghĩa... nhằm mở thông con đường vận tải ấy.
Nhưng do tình hình thay đổi, sau Chiến thắng Phước Long, Trung ương đánh giá Mỹ khơng có khả năng can thiệp, phương án tác chiến trong năm
1975 hướng tiến công chính sẽ là các thành phố, thị xã. Thế là Phòng Tác chiến lại xây dựng một kế hoạch khác.

“Trước lúc làm kế hoạch mới, tơi có hỏi đồng chí Vũ Lăng là Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên,
xem có cần thay đổi tên kế hoạch không. Tư lệnh Vũ Lăng bảo: “Cứ đề là “Kế hoạch tháng 21975” rồi thay nội dung khác là được, nhưng chú ý phương án đánh Bn Ma Thuột trong
trường hợp địch chưa có phịng ngự dự phịng, chỉ giải quyết trung đồn 53 của địch đang chốt
tại đó”, Trung tướng Khuất Duy Tiến nhớ lại.
Hồi tưởng về "Tháng ba Tây Nguyên” năm ấy, Trung tướng Nguyễn Quốc Thước nói: Sau nhiều
ngày đêm khơng ngủ, các đồng chí trong Bộ tư lệnh chiến dịch và Bộ Tham mưu chiến dịch đã
thảo luận, bàn bạc và đưa ra hai phương án tác chiến: Phương án 1, đánh địch chưa có phịng ngự
dự phịng.
Trong thị xã Bn Ma Thuột có các mục tiêu gồm: Sân bay Hịa Bình; trận địa pháo binh-thiết
giáp; tiểu khu Đắc Lắc; sở chỉ huy sư đoàn 23... Căn cứ vào trạng thái bố trí phịng ngự, tính chất
mục tiêu của địch, địa hình, ta xác định 3 hướng tấn cơng: Hướng bắc, hướng tây-nam, hướng
nam; trong đó lấy hướng bắc làm chủ yếu. Ta dùng cách đánh như sau: Đánh từ bên ngoài thị xã
kết hợp với đánh trực tiếp vào thị xã, lấy đánh trực tiếp làm chủ yếu; kết hợp đột phá với đặc
công luồn sâu, bộ binh và xe tăng, xe bọc thép thọc sâu, chia cắt và cô lập địch từng khu vực,
dùng đột phá với thọc sâu làm chủ yếu để tiêu diệt địch.
Phương án 2, đánh địch đã tăng cường dự phòng. Đây là trường hợp địch đã phát hiện được hành
động chuẩn bị tiến cơng của ta hoặc phán đốn ta sẽ tiến cơng thị xã Buôn Ma Thuột nên đưa lực
lượng đến tăng cường phịng ngự dự phịng.
Ngồi lực lượng địch đã có sẵn, chúng có thể tăng cường thêm 1 đến 2 trung đoàn, 1 thiết đoàn,
1 đến 2 tiểu đoàn pháo binh, đưa tổng số quân chủ lực của địch ở Bn Ma Thuột lên 2 đến 3
trung đồn, 2 thiết đoàn, 3 đến 4 tiểu đoàn pháo binh. Căn cứ vào dự kiến trên, ta sẽ sử dụng từ 2
đến 3 sư đoàn và toàn bộ lực lượng binh chủng kỹ thuật của chiến dịch, thực hiện “đánh chắc,

tiến chắc và đột phá liên tục”. Đây là phương án tác chiến phức tạp, khó lường.
Việc xây dựng phương án tác chiến vào Buôn Ma Thuột được tiến hành tỉ mỉ, chặt chẽ. Ngày 252-1975, Bộ chỉ huy tiền phương của Bộ Tổng tư lệnh đã soát lại cụ thể và bổ sung để hoàn thiện
quyết tâm chiến đấu.

Thắng lợi của Chiến dịch góp phần tạo chuyển biến mới trong thế
tiến công chiến lược; đồng thời, khẳng định bước trưởng thành về vận


dụng nghệ thuật tác chiến chiến dịch của bộ đội chủ lực; trong đó, nổi bật
là nghệ thuật đánh điểm, vây điểm, diệt viện.
1. Lựa chọn chính xác mục tiêu đánh điểm, vây điểm, diệt viện. Trong tác
chiến, việc lựa chọn chính xác khu vực, mục tiêu tiến cơng tiêu diệt
địch, thể hiện khả năng nghiên cứu, đánh giá đúng tình hình địch, địa
hình khu vực tác chiến của người chỉ huy và cơ quan, phát huy được
sức mạnh tổng hợp, sở trường của các lực lượng tham gia chiến đấu;
đồng thời, khoét sâu vào điểm yếu của địch, làm cho chúng lúng túng,
bị động đối phó.
2. Vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật, thủ đoạn chiến
đấu. Trong tác chiến chiến dịch, đánh điểm, vây điểm là hoạt động tạo ra
tình huống và phản ứng dây chuyền buộc quân địch phải cơ động ứng
cứu và khi đó thời cơ diệt viện sẽ xuất hiện, ta có điều kiện tiêu diệt lớn
quân địch ngồi cơng sự, hồn thành mục tiêu đề ra. Muốn đánh điểm,
vây điểm, diệt viện có hiệu quả, ngồi việc nắm chắc âm mưu, thủ đoạn
đối phó của địch, người chỉ huy chiến dịch còn phải vận dụng linh hoạt,
sáng tạo các hình thức chiến thuật, thủ đoạn chiến đấu trong từng trận
đánh và trên từng địa bàn tác chiến. 
3. Tổ chức, sử dụng lực lượng hợp lý. Tổ chức sử dụng lực lượng đánh
điểm, vây điểm, diệt viện là một nghệ thuật của người chỉ huy trong tác
chiến, nhất là khi phải đương đầu với đối phương có ưu thế hơn cả về
lực lượng và phương tiện. Trong đánh điểm, vây điểm để diệt viện, lực

lượng thường được chia thành hai bộ phận: bộ phận đánh điểm hoặc
vây điểm và bộ phận diệt viện. Nếu tổ chức, sử dụng lực lượng hợp lý
thì sẽ đạt hiệu suất chiến đấu cao và ngược lại, nếu sử dụng lực lượng
đánh điểm hoặc vây điểm quá nhiều sẽ ảnh hưởng đến sức mạnh của
lực lượng diệt viện. Nếu sử dụng lực lượng đánh điểm hoặc vây điểm
q ít sẽ khơng tạo được áp lực lớn, không khống chế được quân địch,
dẫn đến chúng không tổ chức lực lượng ứng cứu, giải tỏa, khi đó ta
khơng đạt được mục đích diệt viện, khơng hồn thành mục tiêu đề ra.



×