Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Bài tập lớn chủ nghĩa xã hội khoa học đại học Bách Khoa TP.HCM: Nhà nước xã hội chủ nghĩa liên hệ với việc thực hiện công tác quốc phòng an ninh, bảo vệ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (987.92 KB, 38 trang )

MỤC LỤC
Trang
1. PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
2. PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................... 3
Chương 1: NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ......................................................... 3
1.1. Khái niệm và sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa ........................................... 3
1.1.1. Khái niệm nhà nước xã hội chủ nghĩa ................................................................... 3
1.1.2. Sự ra đời và phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa ........................................ 3
1.2. Bản chất và chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa ............................................ 4
1.2.1. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa .............................................................. 4
1.2.2. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa ........................................................... 4
Chương 2: TÌM HIỂU THỰC HIỆN CƠNG TÁC QUỐC PHỊNG AN NINH, BẢO
VỆ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
....................................................................................................................................... 11
2.1 Khái niệm và đặc điểm của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ...................... 11
2.1.1 Khái niệm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa .............................................. 11
2.1.2 Đặc điểm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ............................................... 11
2.2 Khái qt về cơng tác quốc phịng – an ninh của Việt Nam hiện nay .................... 12
2.2.1 Khái niệm quốc phòng – an ninh .......................................................................... 12
2.2.2 Nhiệm vụ quốc phòng an ninh trong giai đoạn hiện nay ..................................... 13
2.2.3 Chính sách quốc phịng – an ninh của Việt Nam ................................................. 16
2.4 Những thành tựu nổi bật và những mặt hạn chế trong việc thực hiện công tác quốc
phòng an ninh, bảo vệ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay .. 18
2.3.1 Những thành tựu nổi bật trong việc thực hiện công tác quốc phòng an ninh, bảo
vệ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay .................................. 18


2.3.2 Những mặt hạn chế trong việc thực hiện công tác quốc phòng an ninh, bảo vệ
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay ....................................... 23
2.4. Giải pháp khắc phục mặt hạn chế trong việc thực hiện cơng tác quốc phịng an
ninh, bảo vệ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ................................. 25


KẾT LUẬN .................................................................................................................. 32
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... 33


1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Chủ nghĩa Mác – Lê-nin khẳng định cách mạng vô sản và sự ra đời của nhà nước xã hội
chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử. Tính tất yếu này được quy định bởi những mâu thuẫn
nội tại nảy sinh trong xã hội tư bản. Chính trong lịng xã hội tư bản chủ nghĩa có những
yếu tố làm tiền đề cho sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa: tiền đề kinh tế, chính
trị, xã hội. Và bởi vì xã hội tư bản khơng thể tự khắc phục những mẫu thuẫn đó nên đã
dẫn đến cách mạng vơ sản, đập tan nhà nước tư sản, lập ra một kiểu nhà nước mới mà ở
đó, giai cấp vơ sản nắm quyền thống trị.
Đất nước ta đã trải qua 4000 năm lịch sử với nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ chủ quyền
lãnh thổ, độc lập dân tộc. Ngày 28/01/1941, sau 30 năm bơn ba ở nước ngồi tìm đường
cứu nước, Nguyễn Ái Quốc trở về nước trực tiếp lãnh đạo cuộc chiến tranh giải phóng
dân tộc khỏi ách kìm kẹp của thực dân Pháp. Người chỉ rõ, trong điều kiện cụ thể của
Việt Nam, con đường duy nhất phải theo là con đường cách mạng dân tộc dân chủ do
Đảng tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo đánh đổ đế quốc, thực dân, giành độc
lập dân tộc, sau đó tiến lên thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cho đến thời điểm
hiện tại, sau 47 năm kể từ ngày thống nhất đất nước, nhà nước ta luôn khẳng định: “giữ
vững an ninh chính trị”, “bảo đảm an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng,
xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương” trước những âm mưu chống phá của các thế lực thù
địch với mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng, lật đổ chế độ, nhà nước
xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Chính vì những lý do trên, nhóm chúng tôi quyết định chọn nghiên cứu đề tài “Nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Liên hệ với việc thực hiện cơng tác quốc phịng an ninh, bảo
vệ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” nhằm tìm hiểu nguồn
gốc, sự hình thành và phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng như những chính
sách quốc phịng – an ninh mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra và thực hiện nhằm bảo vệ

an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự xã hội và bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ nước
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.2 Đối tượng nghiên cứu:

1


Nhà nước xã hội chủ nghĩa và tình hình thực hiện cơng tác quốc phịng an ninh, bảo vệ
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
1.3 Mục đích nghiên cứu:
Thứ nhất, phân tích khái niệm, nguồn gốc ra đời, sự phát triển, bản chất và chức năng
của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, tìm hiểu khái niệm quốc phịng an ninh và chính sách quốc phòng – an ninh mà
nhà nước đề ra nhằm bảo về nền an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ.
Thứ ba, tìm hiểu những thành tựu nổi bật và những mặt hạn chế trong việc thực hiện
thực hiện công tác quốc phòng an ninh, bảo vệ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay.
Thứ tư, đề xuất biện pháp khắc phục những mặt hạn chế đã tìm hiểu ở trên.
1.4 Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp luận dựa trên quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, phương pháp thống nhất phân tích – tổng hợp,
lịch sử – logic, diễn dịch – quy nạp, so sánh, phương pháp đọc hiểu tài liệu, văn bản.
1.5 Kết cấu đề tài:
Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm 02 chương:
Chương 1: Nhà nước xã hội chủ nghĩa
Chương 2: Tình hình thực hiện cơng tác quốc phịng an ninh, bảo vệ nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

2



2. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. Khái niệm và sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa
1.1.1. Khái niệm nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước mà ở đó, sự thống trị thuộc về giai cấp
công nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sản sinh ra và có sứ mệnh xây dựng thành
cơng chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao động lên địa vị làm chủ trên tất cả các mặt của
đời sống xã hội phát triển cao – xã hội xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Sự ra đời và phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa
1.1.2.1 Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Khát vọng về một xã hội cơng bằng, dân chủ, bình đẳng và bác ái đã xuất hiện từ lâu
trong lịch sử. Xuất phát từ nguyện vọng của nhân dân lao động muốn thoát khỏi sự áp
bức, bất công và chuyên chế, ước mơ xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và những
giá trị của con người được tôn trọng, bảo vệ và có điều kiện để phát triển tự do tất cả
năng lực của mình, nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả của cuộc cách mạng do
giai cấp vô sản nhân dân lao động tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
1.1.2.2 Sự phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Chỉ đến khi xã hội tư bản chủ nghĩa xuất hiện, khi mà những mâu thuẫn giữa quan hệ
sản xuất tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất với tính chất xã hội hóa ngày càng cao của
lực lượng sản xuất trở nên ngày càng gay gắt dẫn tới các cuộc khủng hoảng về kinh tế
và mâu thuẫn sâu sắc giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản làm xuất hiện các phong
trào đấu tranh của giai cấp vơ sản, thì trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, các Đảng
Cộng sản mới được thành lập để lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng và trở thành
nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng.
Bên cạnh đó, giai cấp vơ sản được trang bị bởi vũ khí lý luận là chủ nghĩa Mác – Lênin
với tư các cơ sở lý luận để tổ chức, tiến hành cách mạng và xây dựng nhà nước của giai
cấp mình sau chiến thắng. Cùng với đó, các yếu tố dân tộc và thời đại cũng tác động
mạnh mẽ đến phong trào cách mạng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động với giai


3


cấp bóc lột, cách mạng vơ sản có thể xảy ra ở những nước có chế độ tư bản chủ nghĩa
phát triển cao hoặc trong các nước dân tộc thuộc địa.
1.2. Bản chất và chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
1.2.1. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa
- Về chính trị: nhà nước mang bản chất của giai cấp cơng nhân – giai cấp có lợi ích phù
hợp với lợi ích chung của quần chúng nhân dân lao động. Giai cấp vô sản giữ địa vị
thống vị về chính trị. Sự thống trị của giai cấp vơ sản nhằm giải phóng giai cấp mình và
giải phóng tất cả các tầng lớp nhân dân lao động khác trong xã hội. Do đó, nhà nước xã
hội chủ nghĩa là đại biểu cho ý chí chung của nhân dân lao động
- Về kinh tế: chịu sự quy định của cơ sở kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa – chế độ sở
hữu xã hội về tư liệu sản xuất chủ yếu. Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là một bộ máy
chính trị- hành chính, một cơ quan cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế- xã
hội của nhân dân lao động.
- Về văn hóa – xã hội: nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền tảng tinh thần
là lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và những giá trị văn hóa tiên tiến, tiến bộ của nhân
loại, đồng thời mang những bản sắc riêng của dân tộc. Sự phân hóa giữa các giai cấp,
tầng lớp từng bước được thu hẹp, các giai cấp, tầng lớp bình đẳng trong việc tiếp cận
các nguồn lực và cơ hội để phát triển
1.2.2. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
1.2.2.1 Chức năng đối nội của nhà nước:
Chức năng đối nội là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong nội bộ đất nước.
Ví dụ: Đảm bảo trật tự xã hội, trấn áp những phần tử chống đối chế độ, bảo vệ chế độ
kinh tế,… là những chức năng đối nội của các nhà nước.
Chức năng bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội.
Đây là một trong những chức năng căn bản nhất của nhà nước ta. Muốn tiến hành sự
nghiệp đổi mới thuận lợi, Nhà nước ta phải bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an tồn xã

hội trên tồn bộ đất nước. Nhà nước phải có đủ sức mạnh và kịp thời đập tan mọi âm

4


mưu chống đối của các thế lực thù địch, đảm bảo điều kiện ổn định cho Nhân dân sản
xuất kinh doanh.
Chức năng bảo vệ quyền tự do, dân chủ của Nhân dân.
Đây là một trong những chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa quan trọng; bởi vì,
việc thực hiện chức năng này thể hiện trực tiếp bản chất của nhà nước kiểu mới, nhà
nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Đồng thời, việc thực hiện chức năng
này sẽ đảm bảo sức mạnh của Nhà nước trong việc thực hiện tất cả các chức năng khác
của Nhà nước, quan hệ đến sự tồn tại, phát triển của bản thân Nhà nước và chế độ.
Đảng ta nhấn mạnh “Nhà nước có mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân,
tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Có cơ chế
và biện pháp kiểm sốt, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô
trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ của nhân dân”1
Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Đây là chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa quan trọng, liên quan trực
tiếp đến việc thực hiện tất cả các chức năng khác của Nhà nước. Pháp luật là phương
tiện quan trọng để Nhà nước tổ chức thực hiện có hiệu quả tất cả các chức năng của
mình, do đó, bảo vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là hoạt động
thường xuyên, có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà
nước.
Mục đích của chức năng này là nhằm bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách
nghiêm chỉnh và thống nhất, thực hiện quản lý trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội bằng pháp luật.
Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế.
Đây là chức năng cơ bản đặc thù của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong chủ nghĩa xã
hội, nhà nước không những là tổ chức của quyền lực chính trị, mà còn là chủ sở hữu các

tư liệu sản xuất chủ yếu; trực tiếp tổ chức và quản lý nền kinh tế đất nước. Việc tổ chức
và quản lý kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa là một hình thức của cuộc đấu tranh
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb.ST,
H.1991, tr19.

5


giai cấp trong thời kỳ quá độ, nhằm cải tạo và xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
(và quan hệ sản xuất bóc lột nói chung) được xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về
tư liệu sản xuất và bóc lột người lao động, để xác lập củng cố và phát triển quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất,
tăng năng suất lao động, thỏa mãn nhu cầu của người lao động.
Tổ chức và quản lý kinh tế là chức năng có tầm quan trọng đặc biệt, nhưng rất khó khăn
và phức tạp, địi hỏi phải có sự nhận thức đúng đắn các vấn đề có tính quy luật của nền
sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ. Đồng thời phải có những chính sách,
phương pháp và biện pháp tác động phù hợp để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
xã hội chủ nghĩa. Nội dung của chức năng tổ chức và quản lý kinh tế của nhà nước xã
hội chủ nghĩa rất rộng, bao gồm nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ cần giải quyết, trong
đó cơng tác kế hoạch hóa, xây dựng và hồn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và
cơ chế quản lý kinh tế là những vấn đề then chốt.
Tổ chức và quản lý kinh tế là chức năng cơ bản của bất kỳ nhà nước xã hội chủ nghĩa
nào. Nhưng do đặc điểm và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước khơng giống nhau, vì vậy
việc thực hiện chức năng tổ chức và quản lý kinh tế trong mỗi nước cũng có những đặc
điểm riêng.
Trên cơ sở phân tích tình hình cụ thể của nước ta trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá
độ, tổng kết việc tổ chức và quản lý kinh tế trong thời gian qua, Đại hội Đảng cộng sản
Việt Nam lần thứ VI đã khẳng định: “Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách
kinh tả là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng

của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng
sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa". Tư tưởng
chỉ đạo đó thể hiện trong các chính sách và biện pháp lớn chỉ đạo nội dung của chức
năng tổ chức và quản lý kinh tế của Nhà nước ta đó là:
- Phải sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý, phù hợp với điều kiện thực
tế bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định.
- Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng đúng đắn các thành
phần kinh tế. Việc cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản

6


xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa làm cho nó thực sự mang bản
chất xã hội chủ nghĩa, phù hợp với mỗi bước phát triển của lực lượng sản xuất.
- Đổi mới cơ chế quản lý theo hướng bảo đảm tính kế hoạch trong quản lý kinh tế quốc
dân, sử dụng đúng đắn các quan hệ hàng hóa tiền tệ; Sử dụng kết hợp nhiều phương
pháp quản lý trong đó các phương pháp kinh tế là chủ yếu để tạo ra một cơ chế mới về
quản lý kinh tế "cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch tốn kinh doanh xã hội chủ
nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ” ...
- Phát huy mạnh mẽ động lực khoa học kỹ thuật để đẩy nhanh quá trình phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước ...
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Đại hội Đảng lần thứ VII đã thông
qua “chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000” trong đó đã cụ thể
hóa tư tưởng và những phương hướng nói trên, nhấn mạnh phải đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế theo hướng: “Tiếp tục xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành
đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Thiết
lập trật tự, kỷ cương theo cơ chế mới vừa là nội dung vừa là điều kiện để ổn định và
phát triển kinh tế xã hội.
Việc thiết lập trật tự, kỷ cương của cơ chế đó bao gồm những vấn đề lớn là :
- Phải hình thành một thị trường hồn chỉnh bao gồm cả sức lao động, vốn và tiền tệ...

thông suốt trong cả nước và với thị trường thế giới; giá cả, tỷ giá hối đối, lãi suất tín
dụng hình thành theo cơ chế thị trường; tạo môi trường và điều kiện cho sự cạnh tranh
hợp pháp và sự hợp tác, liên doanh, tự nguyện, bình đẳng giữa các đơn vị trực thuộc mọi
thành phần kinh tế ở trong nước và vốn nước ngoài; cả nước chấp hành luật kinh doanh
thống nhất; nâng cao khả năng tiếp thị (marketing) của các doanh nghiệp.Bảo đảm quyền
tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhà nước với chức năng quản lý vĩ mô tập
trung thực hiện các vấn đề: Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản
xuất kinh doanh như bảo đảm sự ổn định về chính trị, kinh tế xã hội, duy trì trật tự pháp
luật, xây dựng cơ sở hạ tầng ... Dẫn dắt và hỗ trợ những nỗ lực phát triển; hoạch định và
thực hiện các chính sách xã hội; quản lý và kiểm soát việc sử dụng tài sản quốc gia.

7


- Đổi mới và hồn thiện các cơng cụ quản lý vĩ mô trọng yếu của nhà nước bao gồm:
Đổi mới việc xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế
- xã hội theo cơ chế thị trường; tăng cường kế hoạch hóa vĩ mơ, chuyển từ kế hoạch hóa
tập trung sang kế hoạch hóa định hướng; xây dựng hệ thống kế tốn, thống kê và thơng
tin kinh tế đáp ứng nhu cầu kịp thời, chính xác, đầy đủ, phù hợp với chuẩn mực quốc tế
và từng bước hiện đại hóa; đổi mới căn bản hệ thống tài chính - tiền tệ.
- Thực hiện chế độ tự chủ sản xuất kinh doanh của xí nghiệp quốc doanh, bảo đảm cho
xí nghiệp thực hiện đầy đủ các quyền; chủ động tổ chức sản xuất kinh doanh; Tự chủ về
tài chính; tuyển chọn, sắp xếp lao động, trả lương và cho thôi việc theo luật lao động;
giao dịch với khách hàng trong và ngoài nước; lựa chọn các hình thức liên kết, liên
doanh...
Đồng thời với việc đổi mới cơ chế quản lý cần thực hiện các chính sách và giải pháp về
vốn, về dân số và việc làm, về thu nhập, bảo hiểm xã hội ...
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện đường lối đổi
mới đã khẳng định một số nhận thức mới về cơ chế quản lý mới, đồng thời chỉ rõ: “Từ
nay đến năm 2000, tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với mục tiêu xóa bỏ cơ chế

tập trong quan liêu bao cấp, hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản
lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Theo đó, trong thời gian tới nhà
nước ta phải
- Tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường. Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về kinh
- Tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hóa. Đổi mới chính sách tài chính tiền tệ giá cả.
- Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước.
Chức năng tổ chức và quản lý văn hóa, khoa học, giáo dục.
Xã hội mới mà Nhân dân ta đang xây dựng là xã hội do Nhân dân lao động làm chủ; có
nền kinh tế phát triển trên cơ sở một nền khoa học và cơng nghệ tiên tiến; có nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi sự áp bức, bóc
lột, bất cơng, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.

8


Muốn xây dựng xã hội đó, Nhà nước ta phải tổ chức, quản lý sự nghiệp giáo dục đào
tạo, văn hóa, phát triển khoa học và cơng nghệ. Đó là quốc sách hàng đầu để phát huy
nhân tố con người, phát huy vai trò then chốt của khoa học và cơng nghệ.
Đó là những động lực trực tiếp của sự phát triển, tạo điều kiện cần thiết cho việc thực
hiện các chức năng khác của Nhà nước vừa nhằm tổ chức quản lý văn hóa, khoa học,
giáo dục vừa nhằm thực hiện những nhiệm vụ kinh tế xã hội. Trước mắt, cần chuẩn bị
cho đất nước bước vào những giai đoạn phát triển tiếp theo trong tương lai, hòa nhập
với sự phát triển của nền văn minh thế giới.
1.2.2.2 Chức năng đối ngoại của nhà nước :
Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với các nhà nước và
dân tộc khác.
Ví dụ: Phịng thủ đất nước, chống xâm lược từ bên ngoài, thiết lập các mối bang giao
với các quốc gia khác,…
Chức năng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa:
Chức năng bảo vệ Tổ quốc là một trong những chức năng cơ bản quan trọng nhất của

nhà nước và là chức năng của mọi nhà nước. Đó là những phương diện hoạt động của
nhà nước nhằm mục đích chống lại các thế lực thù địch bên ngoài, những âm mưu chống
phá từ bên trong, nhằm giữ vững độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Trước đây, nhiều nhà nước thường phát động chiến tranh xâm lược nước khác. Ngày
nay, nhiều nhà nước vẫn tìm cách áp đặt ý chí của mình đối với nước khác. Trong điều
kiện đó, các nhà nước phải thực hiện các hoạt động nhằm bảo vệ đất nước, chống lại các
cuộc chiến tranh xâm lược cũng như các ảnh hưởng tiêu cực khác từ bên ngồi.
Chức năng củng cố, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa,
đồng thời mở rộng quan hệ với các nước khác theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi,
cùng tồn tại hịa bình, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Chức năng ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản, chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa
thực dân cũ và mới. Chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chống chính sách gây chiến

9


và chạy đua vũ trang, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế
giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

10


Chương 2. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CƠNG TÁC QUỐC PHỊNG AN NINH,
BẢO VỆ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
2.1 Khái niệm, đặc điểm của nhà nước pháp quyền XHCN
2.1.1 Khái niệm
Là nhà nước mà ở đó, tất cả mọi cơng dân đều được giáo dục pháp luật và phải hiểu biết
pháp luật, tuân thủ pháp luật, pháp luật phải có tính nghiêm minh. Khác với nhà nước

pháp quyền tư sản, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mang bản chất của chế độ xã
hội chủ nghĩa, nghĩa là thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Thông qua
thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền
lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và
nhân dân.
2.1.2 Đặc điểm
Thứ nhất, là Nhà nước của dân, do dân và vì dân
Thứ hai, Nhà nước được tổ chức và hoạt động dựa trên cơ sở của Hiến pháp và pháp
luật. Tất cả các hoạt động trong xã hội đều phải đặt pháp luật ở vị trí tối thượng để điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội
Thứ ba, quyền lực nhà nước là thống nhất, được tổ chức một cách khoa học, có sự phân
quyền rõ ràng giữa các cơ quan Lập pháp, hành pháp, tư pháp tạo thành cơ chế đồng bộ.
Thứ tư, Nhà nước ở Việt Nam phải do Đảng lãnh đạo. Hoạt động của nhà nước đươc
giám sát bởi nhân dân với phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”
thông qua các tổ chức, các nhân được nhân dân ủy nhiệm.
Thứ năm, Nhà nước ở Việt Nam tôn trọng, đề cao và đảm bảo quyền con người trong
mọi hoạt động lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội
Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và đảm bảo quyền con
người, coi con người là chủ thể, là trung tâm của sự phát triển, tạo mọi điều kiện cho
công dân thực hiện quyền của mình theo đúng các quy định của luật pháp. Đồng thời
tăng cường sự nghiêm minh của pháp luật

11


Thứ sáu, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ
quyền lực nhà nước không thể tập trung vào một người, vào một cơ quan, phải có sự
phân cơng, phân cấp, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau trong việc thực hiện quyền lập
pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, nhưng phải đảm bảo quyền lực là thống nhất
và sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương

2.2 Khái quát về công tác quốc phòng – an ninh của Việt Nam hiện nay
2.2.1 Khái niệm quốc phòng, an ninh
Quốc phòng là hoạt động tổ chức và thực hiện các biện pháp phòng vệ của một quốc
gia, nhằm bảo vệ, ngăn chặn mọi nguy cơ xâm lược từ bên ngoài vào. Đảm bảo sự an
toàn và tồn vong của một quốc gia. Là cơng cuộc sử dụng sức mạnh của tồn dân tộc để
xây dựng, giữ nước. Lực lượng vũ trang của cả nước đều được xây dựng dưa trên cơ sở
nòng cốt là sức mạnh cùng với phương châm của dân, do dân và vì dân. Cùng với đó là
sức mạnh quốc phòng của đất nước ta đều được xây dựng trên nguồn vật lực, nhân lực
cùng với sự tự chủ tự cường và tinh thần toàn diện của toàn dân. Cơ quan tối cao của
nhà nước chuyên đặc trách các vấn đề quốc phòng là Bộ Quốc phòng và Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng là chức vụ nắm giữ vai trò cao nhất.
An ninh, là từ được sử dụng để nói lên trạng thái bình yên, sự ổn định cũng như vững
chắc của chế độ chính trị của một quốc gia. Bảo vệ an ninh quốc gia được coi là nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu của mỗi quốc gia. An ninh nhân dân của một quốc gia có nhiệm
vụ đấu tranh và không ngừng củng cố sức mạnh cho sự phát triển của đất nước dưới sự
kết hợp giữa nhân dân cùng với nghiệp vụ của lực lượng an ninh nhân dân chuyên trách,
đập tan được những âm mưu cũng như hành động không lành mạnh như phản động,
xâm phạm, phạm pháp… gây mất trật tự an ninh xã hội.
Như vậy, Quốc phịng an ninh chính là các yếu tố quan trọng cần phải được xây dựng
một cách ổn định, vững chắc nhằm giúp cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước
được hoàn thiện hơn. Hai phạm trù phát triển độc lập nhưng lại có chung mục tiêu, hỗ
trợ và thúc đẩy nhau để mang lại cuộc sống bình yên, hịa bình và văn minh cho nhân
dân

12


2.2.2 Nhiệm vụ quốc phòng an ninh trong giai đoạn hiện nay
Một là, thường xuyên nâng cao nhận thức, trách nhiệm, năng lực cho các đối tượng phù
hợp với nhiệm vụ bảo đảm quốc phịng, an ninh trong tình hình mới. Đây là nội dung,

giải pháp quan trọng hàng đầu, nhằm thống nhất nhận thức về quan điểm cơ bản này
trong tồn xã hội; từ đó, tạo sự đồn kết, thống nhất, phát huy tinh thần trách nhiệm,
nâng cao năng lực thực hiện, biến quan điểm, nghị quyết, chỉ thị của Đảng thành hiện
thực. Do vậy, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần quán triệt sâu sắc quan điểm, đường
lối lãnh đạo của Đảng, tình hình, nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước trong thời
kỳ mới; tiếp tục đổi mới tư duy, có cái nhìn đúng đắn cả lý luận và thực tiễn về bảo vệ
Tổ quốc; thường xuyên nắm chắc diễn biến tình hình thế giới, khu vực và trong nước,
kịp thời cập nhật những vấn đề tác động đến quốc phịng, an ninh; từ đó, làm tốt công
tác giáo dục, thống nhất nhận thức cho mọi đối tượng.
Thực hiện mục tiêu đó, các cấp cần tăng cường bồi dưỡng, nâng cao năng lực toàn diện
cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở các cấp, nhất là năng lực thu thập, tổng hợp, phân tích
tình hình, dự báo chiến lược, từ đó nâng cao năng lực lãnh đạo, điều hành, chỉ huy cho
cán bộ các cấp, không để bị động, bất ngờ. Cùng với đó, các cấp chú trọng đổi mới tư
duy về quốc phòng, an ninh, nâng cao năng lực quản lý về tổ chức, đơn vị, con người,
cơ sở vật chất kỹ thuật theo yêu cầu mới; coi trọng nâng cao năng lực thực hành, tổ chức
thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ xây dựng, hoạt động, đấu tranh, chiến đấu, xử lý kịp
thời, chính xác các tình huống, nhất là tình huống chiến lược. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ, cần tiếp tục nghiên cứu, phát triển lý luận về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc;
trong đó, tập trung vào những vấn đề lý luận cơ bản, thiết thực về nền quốc phịng tồn
dân, nền an ninh nhân dân; tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phòng, quân sự; tiềm lực,
lực lượng, thế trận an ninh. Đẩy mạnh đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh theo phân cấp đối tượng, nâng
cao nhận thức, năng lực đánh giá, xử lý đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ với các nước
láng giềng, các nước lớn, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện; giải quyết đúng đắn, hiệu
quả mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữa giữ vững
độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa đối tác và đối tượng; giữa thực hành dân chủ
và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội,... đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.

13



Hai là, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp, lấy sức mạnh của lực lượng vũ trang làm
nòng cốt. Sức mạnh tổng hợp trong thực hiện nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng, an ninh
được hợp thành từ sự kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang
nhân dân và sức mạnh tổng hợp từ mọi lực lượng, nguồn lực khác của đất nước; giữa
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại;… trong đó, sức mạnh của lực lượng vũ trang
ln đóng vai trị nịng cốt. Vì thế, vấn đề quan trọng trước hết, cần vận dụng thích hợp
các giải pháp xây dựng, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân
đội nhân dân và Công an nhân dân; tập trung vào những vấn đề cơ bản, thiết thực, trọng
tâm, trọng điểm. Để làm được điều đó, cần thường xuyên giữ vững và tăng cường sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của
Nhà nước đối với Quân đội, Công an và ln xem đó là ngun tắc bất di bất dịch.
Không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động cơng tác đảng, cơng tác chính trị
trong thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; xây dựng các tổ chức, nhất là tổ chức
đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, v.v. Trên
cơ sở đó, quyết tâm thực hiện tốt chủ trương chiến lược của Đảng về xây dựng Quân
đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại; bảo đảm phù hợp với khả năng đất nước,
tình hình chính trị, quân sự thế giới và khu vực, đáp ứng u cầu cả trước mắt và lâu
dài. Có quy trình hợp lý phát triển lực lượng (nhất là lực lượng trực tiếp chiến đấu, đấu
tranh, lực lượng trẻ), đầu tư vũ khí, trang bị, phương tiện theo hướng xây dựng lực lượng
vũ trang chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Cơng tác giáo dục, đào tạo, huấn luyện, rèn
luyện lực lượng vũ trang cần tiếp tục nghiên cứu, đẩy mạnh đổi mới nội dung, chương
trình, phương pháp; nghiên cứu phát triển nền nghệ thuật quân sự Việt Nam,… nâng cao
sức mạnh chiến đấu, đáp ứng yêu cầu quốc phòng, an ninh hiện tại và tương lai, nhất là
hoạt động trong điều kiện tác chiến công nghệ cao, môi trường phức tạp, khắc nghiệt.
Đồng thời, huy động mọi nguồn lực, tập trung nghiên cứu, triển khai kết hợp chặt chẽ
giữa xây dựng tiềm lực, thế trận quốc phòng với tiềm lực, thế trận an ninh, bảo đảm
vững mạnh, đáp ứng yêu cầu cả thời bình và thời chiến. Trong đó, cần xác định rõ lộ
trình, tổ chức thực hiện tốt các chiến lược trực tiếp liên quan đến quốc phòng, an ninh,

như: Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc; Chiến lược Quốc phòng; Chiến lược Quân sự; Chiến
lược Bảo vệ an ninh quốc gia; Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc gia; Chiến lược Bảo vệ
Tổ quốc trên không gian mạng; Chiến lược An ninh mạng quốc gia, v.v. Cùng với đó,

14


việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại cần được đẩy mạnh và gắn kết chặt
chẽ với cơng tác quốc phịng, an ninh; tập trung vào các chiến lược xây dựng, phát triển
về từng lĩnh vực, như: chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội; chiến lược về khoa học
- công nghệ; chiến lược về giáo dục và đào tạo; chiến lược về biển, đảo,… cần bám sát
thực tiễn, kịp thời điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới. Đây là yếu tố rất
quan trọng để đẩy mạnh, phát triển tiềm lực và phát huy hiệu quả nền quốc phịng tồn
dân, nền an ninh nhân dân và thế trận quốc phịng tồn dân, thế trận an ninh nhân dân;
không ngừng xây dựng, củng cố và phát triển sức mạnh tổng hợp bảo đảm quốc phòng,
an ninh trong mọi giai đoạn phát triển của đất nước.
Ba là, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách liên quan đến nhiệm
vụ bảo đảm quốc phòng, an ninh. Đây là những yếu tố tác động trực tiếp đến chất lượng,
hiệu quả bảo đảm quốc phịng, an ninh. Đặc biệt, bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập
quốc tế diễn ra sâu, rộng, hợp tác giữa các quốc gia ngày càng được tăng cường, phát
triển thì các yếu tố đó càng có vai trị quan trọng. Vì vậy, các cơ quan chức năng cần
tiếp tục rà soát, tham mưu, đề xuất bổ sung, điều chỉnh hệ thống pháp luật, cơ chế, chính
sách có liên quan, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, phù hợp với đặc điểm, yêu cầu
mới. Hiện nay, hệ thống pháp luật về cơng tác quốc phịng, an ninh thường xuyên được
củng cố, kiện toàn tương đối đầy đủ và đã phát huy tác dụng tốt trong thực tiễn, như:
Luật Quốc phòng, Luật Biên giới quốc gia, Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh, Luật
Dự bị động viên, Luật Dân quân tự vệ; Luật An ninh Quốc gia, Luật An ninh mạng, v.v.
Tuy nhiên, tính đồng bộ của một số văn bản luật cịn hạn chế, có chỗ bất cập, chưa thống
nhất; trong khi đó, thực tiễn lại ln có sự phát triển, nhiều vấn đề mới đặt ra cần được
sửa đổi, bổ sung, hoặc xây dựng mới cho phù hợp, nhất là các vấn đề có sự phối - kết

hợp giữa các lĩnh vực, ngành cần được luật hóa và hướng dẫn thi hành bằng các văn bản
dưới luật một cách cụ thể. Cùng với đó, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế hoạt động về bảo
đảm quốc phòng, an ninh phù hợp với thực tiễn. Trên cơ sở bám sát cơ chế chung: “Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, cần có cơ chế cụ thể, chặt chẽ hơn
trong kết hợp quốc phòng với an ninh, quốc phòng, an ninh với các hoạt động chuyên
biệt của các bộ, ngành; quy định rõ trách nhiệm và quy trình hoạt động cụ thể của các
đối tượng; khắc phục tình trạng kết hợp hình thức, kém hiệu quả. Đối với chính sách
bảo đảm quốc phịng, an ninh, Nhà nước đã có nhiều chính sách động viên, khuyến

15


khích, huy động tinh thần, vật chất, sức người, sức của cho công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, như: chính sách phát triển kinh tế - xã hội, an sinh xã hội, bảo hiểm y tế,
bảo hiểm xã hội, chính sách dân tộc, tơn giáo, v.v. Tuy nhiên, trước sự phát triển mới
của tình hình thực tiễn, các cơ quan chức năng cần tiếp tục nghiên cứu, tham mưu giúp
Đảng, Nhà nước hồn chỉnh hơn hệ thống chính sách về lĩnh vực này; chú trọng tính
thực chất trong các chính sách, nhất là chính sách đối với người có cơng, hậu phương
lực lượng vũ trang, thu hút, đào tạo nhân tài, nguồn nhân lực chất lượng cao,… nhằm
nâng cao tính hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ bảo đảm quốc phịng, an ninh của tồn
Đảng, tồn dân, tồn quân và cả hệ thống chính trị trong mọi giai đoạn, nhiệm vụ cách
mạng.
Thực hiện mục tiêu, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh và hạnh phúc của toàn dân
tộc ta; tăng cường cơng tác bảo đảm quốc phịng, an ninh càng trở nên quan trọng, địi
hỏi tồn Đảng, tồn dân, tồn qn phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn; phát huy
cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, sức mạnh đại đồn kết tồn dân tộc; khơng
ngừng tăng cường sức mạnh chiến đấu, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã
hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, tạo điều kiện thuận lợi để đất nước phát triển nhanh và
bền vững.
2.2.3 Chính sách quốc phịng – an ninh của Việt Nam

Việt Nam ln coi việc giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã
hội, thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa là lợi ích cao nhất của đất nước, là mục tiêu xun
suốt của chính sách quốc phịng Việt Nam. Không giải quyết bất đồng và tranh chấp với
các quốc gia khác bằng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Chủ trương sử dụng các biện
pháp hòa bình trong các quan hệ quốc tế.
Việt Nam chủ trương từng bước hiện đại hoá quân đội, tăng cường tiềm lực quốc phịng
chỉ nhằm duy trì sức mạnh qn sự ở mức cần thiết để tự vệ. Phản đối các hoạt động
chạy đua vũ trang. Triệt để tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
và lợi ích của các quốc gia khác trên cơ sở nguyên tắc của Hiến chương liên hợp quốc
và luật pháp quốc tế. Việt Nam chủ trương không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực trước

16


trong mối quan hệ quốc tế nhưng sẵn sàng và kiên quyết giáng trả mọi hoạt động xâm
lược.
Giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trên đất liền, trên biển do lịch sử để lại hoặc
mới nảy sinh bằng các biện pháp hồ bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Từ đó tiến tới
đạt được các giải pháp cơng bằng, lâu dài cho vấn đề phức tạp để mang lại vùng lãnh
thổ hịa bình, hữu nghị và phát triển.
Việt Nam xây dựng sức mạnh quốc phòng dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả nước, của
khối đại đoàn kết tồn dân, của cả hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo. Việt Nam chủ trương phát triển kinh tế - xã hội đồng thời tăng cường khả năng
quốc phòng, phối hợp các hoạt động quốc phòng an ninh với các hoạt động đối ngoại
thành một thể thống nhất phục vụ cho phát triển cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Trong tình hình thế giới và khu vực đang có nhiều
thay đổi, Việt Nam xây dựng nền quốc phịng tồn dân dựa trên truyền thống u nước
của tồn dân tộc, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, kế thừa và phát huy
các giá trị khoa học quân sự qua các thời kỳ, xây dựng các nghệ thuật quân sự đáp ứng

yêu cầu của chiến tranh hiện đại.
Tích cực, chủ động ngăn ngừa và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh là một trong các nhiệm vụ
trọng yếu của quốc phong Việt Nam nhằm thực hiện các chiến lược quốc phòng tối ưu
là bảo vệ chủ quyền. thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các quyền lợi quốc gia khác mà
khơng cần đến chiến tranh. Quốc phịng Việt Nam sử dụng các biện pháp tổng hợp nhằm
giữ vững ổn định bên trong, ngăn ngừa các nguy cơ can thiệp từ bên ngoài nhằm triệt
tiêu các nguyên nhân dẫn đến xung đột vũ trang và chiến tranh.
Luôn gắn bó mật thiết với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hồ bình, hợp tác và phát
triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế của
Đảng và Nhà nước Việt Nam. Thông qua các quan hệ đối ngoại, Việt Nam tăng cường
sự hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau với các nước, tạo cơ sở mở rộng hợp tác, giải quyết
mâu thuẫn nhằm ngăn ngừa các nguy cơ xung đột, duy trì mơi trường hịa bình, ổn định
trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam thực hiện chính sách quốc phịng độc lập, tự
chủ. Vì vậy chủ trương khơng tham gia các tổ chức liên minh quân sự, không cho nước
ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác. Đồng

17


thời, chú trọng phát triển quan hệ quốc phòng với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng
độc lập, chủ quyền của nhau. Việt Nam coi trọng hợp tác quốc phòng với các nước láng
giềng, bạn bè truyền thống và phát triển quan hệ quốc phòng với các nước có chung mục
tiêu là hịa bình, độc lập và phát triển. Với tinh thần “khép lại quá khứ, hướng tới tương
lai” Việt Nam luôn sẵn sàng hợp tác giải quyết vấn đề nhân đạo do lịch sử để lại đồng
thời hoan nghênh các sáng kiến và hoạt động phục vụ hịa bình, khơng phân biệt chế độ
chính trị hay lịch sử quan hệ với Việt Nam
Kiên quyết lên án và chống lại hành động khủng bố dưới mọi hình thức đồng thời phản
đối các hoạt động lợi dụng chống khủng bố để can thiệp vào công việc nội bộ của các
nước. Ủng hộ những nỗ lực của cộng đồng quốc tế và mở rộng hợp tác nhằm ngăn ngừa
các hoạt động khủng bố và các hoạt động hỗ trợ khủng bố dưới mọi hình thức. Các biện

pháp chống khủng bố được thực hiện trong khuôn khổ Liên hợp quốc, phù hợp với
những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Ủng hộ giải quyết các điểm nóng có nguy cơ bùng nổ xung đột khác trong khu vực thơng
qua đối thoại, thương lượng hịa bình, khơng sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực.
2.3. Những thành tựu nổi bật và những mặt hạn chế trong việc thực hiện cơng tác
quốc phịng an ninh, bảo vệ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay
2.3.1. Những thành tựu nổi bật trong việc thực hiện cơng tác quốc phịng an ninh, bảo
vệ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Thành tựu cơ bản, bao trùm: Đó là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
tồn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân
dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an tồn xã hội.
Thực hiện Cương lĩnh và các nghị quyết của Đảng, quốc phòng, an ninh đã đạt nhiều
thắng lợi quan trọng. Đó là việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của Tổ quốc, giữ
vững ổn định chính trị và mơi trường hịa bình để xây dựng đất nước. Tiềm lực chính
trị, kinh tế cũng như tiềm lực quốc phịng, an ninh của đất nước được nâng lên. Nền
quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được củng cố; thế trận quốc phịng tồn dân và

18


thế trận an ninh nhân dân thêm bền vững, sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc được tăng
cường. An ninh quốc gia, sự ổn định chính trị, xã hội được giữ vững.
Bộ Quốc phịng, Bộ Cơng an đã tham mưu cho Đảng, Nhà nước lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện đường lối đối nội, đối ngoại hài hòa, chủ động triển khai lực lượng, phương tiện,
biện pháp đấu tranh và đấu tranh có hiệu quả đối với các hoạt động xâm phạm chủ
quyền, an ninh quốc gia, giữ vững ổn định chính trị, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Đã kịp thời ngăn chặn, vơ hiệu hóa nhiều âm mưu, hoạt động gây rối, gây bạo loạn, phá
hoại, khủng bố. Đã chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp phù hợp,
bảo vệ được chủ quyền biển, đảo, vùng trời. Bảo vệ tuyệt đối an tồn các mục tiêu chính

trị, kinh tế, quốc phịng và an ninh, các sự kiện chính trị, văn hóa đất nước, góp phần tạo
mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển đất nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế.
Ban hành nhiều chủ trương, chính sách để triển khai nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo
vệ Tổ quốc.
Thiết thực triển khai thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh do Cương lĩnh đề ra, tiếp
theo là Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX và sau đó là Nghị quyết Trung ương 8 khóa
XI về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trong đó xác định toàn diện các
vấn đề cơ bản đáp ứng tình hình mới. Các nghị quyết đã mở ra bước đột phá mới trong
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Cùng với
hai nghị quyết rất quan trọng đó, một số chiến lược về quốc phòng, quân sự, chiến lược
an ninh, chiến lược bảo vệ biên giới và nhiều chủ trương, giải pháp trong các chiến lược
tiếp tục được cụ thể hóa và hồn thiện. Đó là cơ sở quan trọng để các tỉnh ủy, thành ủy,
ban cán sự Đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương xây dựng các chương trình
hành động cụ thể để thực hiện nghị quyết theo chức năng, nhiệm vụ gắn với các hoạt
động trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại.
Từ đó đã xây dựng và tổ chức thực hiện các đề án phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện
các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh tại các vùng chiến lược Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây
Nam Bộ, Nam Trung Bộ, các thành phố lớn, các địa bàn chiến lược, các vùng kinh tế
trọng điểm, các khu kinh tế cửa khẩu, khu công nghiệp.

19


Về xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân.
Đảng luôn xác định việc xây dựng lực lượng vũ trang là một trong những nội dung quan
trọng của nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và đặt nó trong tồn bộ sự nghiệp đổi mới, cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân và Công an
nhân dân dựa vào sức mạnh tổng hợp của chế độ; xây dựng một cách tồn diện và có
trọng điểm các yếu tố để tạo thành sức mạnh chiến đấu tổng lực để bảo vệ Tổ quốc.

Thực hiện nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh do Cương lĩnh năm 2011 đề ra là “Xây
dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân,
được nhân dân tin yêu”, thành tựu nổi bật trong những năm qua là: sức mạnh tổng hợp,
khả năng chiến đấu của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân được chú trọng xây
dựng và từng bước nâng cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh,
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Lực lượng vũ trang đã nâng cao tinh thần chiến đấu
và khả năng sẵn sàng chiến đấu; các quân chủng, binh chủng trong Quân đội và các lực
lượng trọng yếu của Công an đã được củng cố, tăng cường; các vũ khí, khí tài được nâng
cấp và trang bị tốt hơn; một số quân chủng, binh chủng của Quân đội và một số lực
lượng tinh nhuệ của Công an đã phát triển theo hướng chính quy, tinh nhuệ và đi thẳng
lên hiện đại. Đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang được
quan tâm và cải thiện đáng kể. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tiếp tục giữ
vững và phát huy phẩm chất cao đẹp của đội quân cách mạng, đoàn kết, nhất trí cao
trong nội bộ, gắn bó máu thịt với nhân dân, có lịng u nước, u chủ nghĩa xã hội, tinh
thần quốc tế cao cả, khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành mọi nhiệm vụ.
Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đang thực hiện sắp xếp bộ máy tinh gọn, hiệu
lực, hiệu quả, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ vững vàng về chính trị, mạnh về bản
lĩnh chiến đấu, sáng tạo trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ, chức trách. Với đội ngũ của
lực lượng vũ trang hùng hậu, được trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật đúng mức, phù hợp
với tình hình và nghệ thuật quân sự Việt Nam, các lực lượng vũ trang có đầy đủ khả
năng làm trịn nhiệm vụ được giao phó.

20


Nhìn một cách tổng quát, việc xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân
dân đã quán triệt phương hướng, mục tiêu, nguyên tắc và định hướng chính sách về quốc
phịng, an ninh mà Cương lĩnh và các nghị quyết của Đảng đã xác định. Đảng luôn xuất
phát từ tình hình thực tế của nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, phát huy truyền thống độc

lập, tự chủ, sáng tạo để xác định các chủ trương, biện pháp đúng đắn về xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân. Bởi vậy, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đã khơng
ngừng lớn mạnh, đủ sức để hồn thành mọi nhiệm vụ.
Phương thức tiến hành các nhiệm vụ mới về quốc phòng, an ninh.
Trong những năm qua đã xuất hiện nhiều vấn đề phức tạp mới đặt ra đối với nhiệm vụ
quốc phịng, an ninh địi hỏi phải có những phương thức đấu tranh, tác chiến phù hợp.
Đó là những biểu hiện mới của các thế lực thù địch thực hiện âm mưu “diễn biến hịa
bình”; các hoạt động phá hoại, gây rối, bạo loạn, lật đổ; các mối đe dọa an ninh phi
truyền thống; gia tăng các loại tội phạm mới; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ.
Lực lượng quốc phòng, an ninh đã cơ bản nắm bắt, đánh giá đúng tình hình, dự báo
tương đối chính xác về âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Đã vận
dụng đúng các quan điểm chỉ đạo của Đảng, hướng dẫn của Chính phủ, xử lý đúng và
hiệu quả từng vấn đề cụ thể; xử lý phù hợp mối quan hệ đối tác, đối tượng. Phương thức
đấu tranh khi thực hiện nhiệm vụ quốc phịng, an ninh đã có nhiều đổi mới, sáng tạo,
linh hoạt. Đã có những chủ trương và giải pháp phòng, chống các thủ đoạn xâm phạm
chủ quyền quốc gia và âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng chiêu bài
nhân quyền, dân chủ, tôn giáo, kích động chủ nghĩa yêu nước cực đoan... để chống phá
Đảng, Nhà nước. Đã xử trí tương đối hiệu quả, kịp thời các tình huống quốc phịng, an
ninh trên khơng, trên biển, biên giới, nội địa để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; ngăn chặn không để
xảy ra bạo loạn lật đổ, bạo loạn vũ trang, xung đột vũ trang. Đã có những nỗ lực và đạt
được hiệu quả trong việc ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ; chống âm mưu “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, đòi đa nguyên, đa
đảng. Kết quả của việc thực hiện các nhiệm vụ nêu trên đã góp phần quan trọng trong

21


thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm trật tự, an ninh xã hội, giữ vững

môi trường hịa bình để phát triển đất nước.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang.
Trong quá trình thực hiện Cương lĩnh năm 1991, cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân
đội nhân dân và Công an nhân dân đã được bổ sung, hoàn thiện, bảo đảm giữ vững và
tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ
trang, nhiệm vụ quốc phịng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đảng ln nắm vững quyền lãnh
đạo cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ
Tổ quốc. Mọi hoạt động, mọi nhiệm vụ quốc phịng, an ninh trong bất kỳ điều kiện, hồn
cảnh nào, ở đâu, bất kỳ cấp nào cũng đều đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ, tuyệt đối của
Đảng. Đảng bộ Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đã thực hiện nghiêm túc các
nghị quyết, chỉ thị của Đảng, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng
trong các lực lượng vũ trang được nâng lên. Các tổ chức cơ sở đảng được xây dựng ngày
càng trong sạch, vững mạnh. Các cấp ủy được xây dựng, kiện tồn, có năng lực lãnh
đạo tồn diện. Đã xây dựng được hệ thống tổ chức bộ máy cơng tác đảng, cơng tác chính
trị có số lượng hợp lý và chất lượng cao; đã ban hành các nghị quyết mới về Chiến lược
quốc phòng, Chiến lược quân sự, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, Chiến lược an
ninh quốc gia.
Quán triệt các chủ trương của Đảng về xây dựng lực lượng vũ trang, Nhà nước đã sửa
đổi, bổ sung các luật về bảo vệ Tổ quốc, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, các quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh, nghị định về xây dựng Quân đội
nhân dân và Công an nhân dân. Mặc dù cịn nhiều khó khăn, nhưng Nhà nước đã bảo
đảm ngân sách cho quốc phòng, an ninh, cho các hoạt động của lực lượng vũ trang, đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, an ninh trong tình hình mới.
Trong những năm qua, cơ chế lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với lực
lượng vũ trang được hoàn thiện và vận dụng hiệu quả trong thực tiễn. Vai trò lãnh đạo
của Đảng và quản lý của Nhà nước từ Trung ương đến các Bộ, ban, ngành và các địa
phương đối với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh phát huy hiệu quả và luôn là nhân tố
quyết định mọi thắng lợi trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

22



2.3.2 Những mặt hạn chế trong việc thực hiện công tác quốc phòng an ninh, bảo vệ nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, đầu tư cho quốc phòng, nâng cao chất lượng vũ khí cho lực lượng vũ trang
cịn có mặt hạn chế so với đòi hỏi của yêu cầu, nhiệm vụ quốc phịng, an ninh trong tình
hình mới
Thời nay, kinh tế gắn liền với mọi lĩnh vực trong đời sống, ngành công nghiệp quốc
phịng cũng khơng phải ngoại lệ. Tuy nhiên, ở vị thế một quốc gia đang phát triển, việc
đầu tư chuẩn bị nguồn lực cho quốc phòng, an ninh kết hợp với phát triển kinh tế - xã
hội trên một số lĩnh vực, địa bàn chưa thật chặt chẽ, hiệu quả; việc xây dựng tiềm lực,
lực lượng, thế trận quốc phòng của một số ngành, địa phương chưa vững chắc. Đầu tư
nguồn lực xây dựng khu vực phòng thủ chưa tương xứng với tiềm năng, tốc độ phát
triển kinh tế; khả năng dự trữ và huy động các nguồn lực cho quốc phòng, an ninh của
các ngành, địa phương còn hạn chế; cơng tác bảo đảm an tồn, an ninh mạng chưa chặt
chẽ.
Thứ hai, cơng tác chính trị, tinh thần, xây dựng thế trận lòng dân chưa được chú trọng
đúng mức. Xây dựng nền quốc phịng tồn dân với nền an ninh nhân dân, thế trận quốc
phịng tồn dân với thế trận an ninh nhân dân chưa thật chặt chẽ
Nguồn lực tăng cường cho quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, gồm: nhân lực, phương
tiện, cơ sở vật chất, tài chính, khoa học cơng nghệ,... được chuẩn bị trong thời bình và
sẵn sàng huy động cho nhiệm vụ quốc phịng, an ninh khi có chiến tranh. Đây là những
vấn đề có tính chiến lược, liên quan đến các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,....
đối ngoại, quyết định sức mạnh quốc phòng, an ninh đất nước. Tuy nhiên, trong thực
tiễn, khơng phải cứ muốn là có thể động viên cho quốc phòng, an ninh được ngay khi
nhà nước vẫn chưa tổ chức có hiệu quả những buổi tuyên truyền giáo dục, nâng cao
nhận thức, trách nhiệm, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao về tư tưởng, hành động của
toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và của cả hệ thống chính trị trong việc xây dựng lịng
u nước. Điều này thể hiện rõ khi vẫn cịn tình trạng thanh thiếu niên trốn tránh thực
hiện nghĩa vụ quân sự.

Thứ ba, cơng tác bảo mật thơng tin cịn chưa triệt để

23


×