Thuyết minh về Chiếc bánh chưng ngày Tết
Bánh chưng .
May thay không rơi vào những trường hợp nói trên. Bánh chưng là một sản vật
xuất hiện từ trước thời văn minh lúa nước của người Việt ( Bởi lúa nương là loại cây
lương thực đã được người Việt cổ gieo trồng trước khi tìm ra và phát triển kỹ nghệ
canh tác lúa nước. Dĩ nhiên khi con người đạt đến trình độ tìm cho mình một loại cây
trong nhóm các cây ngũ cốc thì việc chế biến các sản phẩm cũng đồng thời xuất hiện
), và cho đến nay cũng như mãi mãi về sau, bánh chưng luôn có sự hiện diện trong đời
sống văn hoá ẩm thực và văn hoá tâm linh của người Việt Nam. Có thể nói bánh
chưng là một sản vật vừa có sức trường tồn mà lại rất gần gũi với đời sống thường
nhật của người Việt Nam trong cả hai lĩnh vực: Văn hoá ẩm thực và văn hoá tâm linh.
Phong bánh chưng ngày Tết được bày trên mâm cúng ông bà, ông vải là một
mỹ tục, được truyền lại từ thời các Vua Hùng trong truyền thuyết Lang Liêu, một
trong những người con của Vua Hùng đã dùng lúa nếp làm nên những chiếc bánh
chưng, bánh dầy thay cho các thứ sơn hào, hải vị dâng tiến vua cha. Có lẽ cũng từ đó
mới xuất hiện hai từ “ngọc thực”. Nó là biểu trưng cho lòng thành kính đến mộc mạc
của con cháu đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên mà không có thứ ngọc nào sánh nổi. Nó
là thứ “ngọc” ( Được hiểu rộng cho các loại ngũ cốc trong đó có lúa gạo ) đã nuôi
sống con người, nuôi sống dân tộc từ thuở hồng hoang của lịch sử cho tới muôn sau.
Trong những ngày tết Nguyên Đán, không có gia đình Việt Nam nào lại thiếu
vắng những chiếc bánh chưng xanh trên bàn thờ, trên mâm cúng ông bà, ông vải.
Bánh chưng có thể được tự làm ra từ khi gieo hạt, trồng cấy, thu hái, xay giã, gói luộc
đối với người nông dân ở miền xuôi, miền ngược, miền Bắc, miền Nam. Và, bánh
chưng cũng có thể được mua như mua các loại hàng hoá khác đối với những người
dân các vùng đô thị trong nước và ở nước ngoài. Chiếc bánh chưng ngày tết dù tự túc,
tự sản hay được mua bán như những thứ hàng hoá khác nhưng đều có chung một
điểm: Đó là sản vật không thể thiếu để dâng cúng lên cha mẹ, ông bà, tổ tiên trong
ngày Tết. Một nét đẹp lâu đời nhất, truyền thống nhất trong văn hoá tâm linh của
người Việt Nam.
Ngày nay, trong sản xuất nông nghiệp với xu thế chuyển đổi nông sản thành
hàng hoá, việc trồng cấy đại trà và tạo ra những vùng nguyên liệu chuyên canh là một
xu thế tất yếu. Tuy vậy, vẫn còn không ít những gia đình nông dân vẫn còn lưu giữ
một tập quán lâu đời: Đó là việc dành riêng một một khoảnh, một thửa đất ( Kể cả thời
HTX, ruộng đất tập trung thì đã có đất 5% ) để trồng cấy các giống nếp quý, chỉ dùng
cho việc cúng lễ hay những ngày trọng trong năm. Từ việc chọn giống như giống nếp
cái hoa vàng, giống nếp hương …, lúa gặt về được nhặt từng bông, lựa những bông có
hạt chắc, mẩy đều rồi buộc thành từng túm nhỏ treo trên sào cốt tránh lẫn các loại lúa
khác. Đến mùa gieo mạ mới đem xuống dùng **a xứ, hoặc vỏ con trai cạo từng túm
chứ không đập. Quá trình chăm sóc luôn giữ đủ nước, vừa phân và xa các khu ruộng
trồng các loại lúa tẻ để tránh lai tạp. Khi gặt về cũng lựa từng bông và bảo quản bằng
các túm nhỏ trên sào tre. Giáp tết hay những ngày trọng mới đem suột và xay giã làm
gạo để gói bánh chưng hoặc đồ xôi. Những việc làm cẩn thận, cầu kỳ đến tỉ mẩn này
không chỉ thể hiện sự “sành ăn” vì giống nếp quý lại không lẫn tẻ, không bị lai tạp nên
khi gói luộc, bánh chưng sẽ dẻo, rền và thơm hương nếp cùng lá dong xanh mà còn
thể hiện sự tôn kính đối với các thế hệ tiền nhân.
Nhớ lại cái tết Mậu Thân, trước tổng tiến công các má, các chị đã ngày đêm gói
rất nhiều đòn bánh tét cho bộ đội ăn tết trước và đem theo làm lương ăn trong những
ngày Tết đánh giặc. Hình ảnh anh bộ đội giải phóng với vành mũ tai bèo, bên hông cột
gọn gàng gói bộc phá với một đòn bánh tét mãi mãi là bức phù điêu của những mùa
xuân đại thắng của dân tộc Việt Nam. Trước đó hơn hai trăm năm ( Bính Ngọ – 1786
), bánh chưng ( bánh tét ) cũng theo bước chân thần tốc của đoàn quân của người anh
hùng áo vải Tây Sơn - Nguyễn Huệ phò Lê diệt Trịnh. Bánh chưng theo suốt chiều dài
lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Bánh chưng có mặt trong mọi hoạt động
xã hội, tín ngưỡng. Bánh chưng làm dẻo mềm hơn câu ca dao, gắn kết quá khứ với
hiện tại và trong xu thế hội nhập, bánh chưng Việt Nam trong những ngày tết cổ
truyền của dân tộc lại có mặt trên khắp năm châu. Bánh chưng Việt Nam trong vai trò
sứ giả, mang thông điệp của một Việt Nam đổi mới, mong muốn hoà bình, hợp tác,
hữu nghị với thế giới, cùng hướng tới tương lai …
Tìm hiểu về bánh chưng và những quan niệm triết học xung quanh những
truyền thuyết về bánh chưng Việt Nam trong ngày Tết chính là để hiểu sâu sắc thêm
những giá trị văn hoá, giá trị nhân văn của tổ tiên qua bao đời truyền lại .
Lâu nay trong các văn bản, các sách ( đặc biệt là các sách phục vụ việc giảng
dạy trong các nhà trường ) khi nói về sự tích bánh chưng ( Hình vuông ) và bánh dầy (
Hình tròn ) của Lang Liêu là tượng trưng cho trời tròn, đất vuông. Truyền thuyết này
cho thấy: Từ thời các Vua Hùng, người Việt cổ đã biết trồng lúa ( Lúa nương rồi sau
này là lúa nước ) và người Việt cổ đã biết chế biến các nông phẩm trong sinh hoạt
hàng ngày và trong việc tế lễ . Để gắn kết sự phát triển kỹ nghệ trồng lúa và chế biến
nông sản ( Phát triển sản xuất ) với phát triển văn hoá tâm linh chúng ta ( Tôi xin nhấn
mạnh hai chữ chúng ta ) đã đưa ra một quan niệm triết học về thế giới tâm linh của
người Việt cổ rằng : Bánh dầy ( Hình tròn ) là tượng trưng cho trời tròn và bánh
chưng ( Hình vuông ) là tượng trưng cho đất vuông . Điều này có vẻ lô gíc về quan
niệm của con người thời tiền sử trước sức mạnh siêu nhiên, huyền bí của thiên nhiên
như sấm chớp, nắng mưa, bão lũ cùng trời, đất, giăng, sao …
Nhưng ngược lại, cũng dễ nhận thấy ở cái thời Lang Liêu, người Việt cổ chưa
đủ phát triển tư duy về toán học để có thể định dạng hay nhận diện các khối hình học
có góc cạnh, ví như khối hình hộp chữ nhật 6 mặt và 8 góc như chiếc bánh chưng
vuông bây giờ, mà họ chỉ biết vò, nặn, túm một chiếc bánh chưng không hẳn là một
hình vuông hay hình trụ tròn, nó có thể ô van, có thể một đầu to đầu nhỏ, chiếc ngắn,
chiếc dài thì gỉa thuyết về quan niệm bánh chưng vuông tượng trưng cho đất vuông sẽ
thiếu cơ sở khoa học. Nó là cách suy diễn, giả thuyết của những con người sau hàng
nghìn năm tiến hoá, với đầy đủ chỉ số thông minh và sự khéo léo – Những người đó là
chúng ta.
( và trong chúng ta bây giờ, với chỉ số thông minh và sự khéo léo hiện có hẳn
nhiều người nếu cho tự mình gói một chiếc bánh chưng vuông thì cái sản phẩm ấy
cũng chưa chắc hơn gì người tiền sử thời Lang Liêu ). Mặt khác, trong cách gói bánh
chưng ngày Tết hiện nay vẫn tồn tại một kiểu bánh tày ở miến Bắc và bánh tét ở miền
Nam ( Hình trụ tròn ) .
Vậy thì bánh chưng vuông hay bánh “tày” có trước (?) .
Được biết ở nhiều vùng nông thôn, kể cả miền xuôi và miền núi bánh chưng
gói kiểu “tày” hiện nay vần được duy trì và chiếm số lượng nhiều hơn . Ai cũng biết ở
những nơi chậm phát triển, ít chịu ảnh hưởng của sự giao thoa văn hoá là những nơi
còn giữ được nhiều nhất những phong tục, tạp quán cổ. Mặt khác, khi nền kinh tế phát
triển, nhu cầu hình thức, thẩm mỹ trong việc chế biến, bài trí đồ lễ, đồ ăn cùng dần
được hoàn mỹ hơn. Tôi cho rằng bánh chưng vuông là sản phẩm của văn hoá đô hội,
đô thị. Nó là hậu duệ của chiếc bánh chưng tày ở miền Bắc và bánh tét ở miền Nam.
Từ cách nhìn này, chúng ta dễ nghiêng hơn về cách xắp xếp thời gian ra đời
của hai loại bánh chưng vuông và bánh chưng tày.
Nếu đúng như vậy thì quan niệm về bánh dầy, bánh chưng vuông tượng trưng
cho trời tròn, đất vuông của chúng ta sẽ là một giả thuyết chưa đủ cơ sở, khó thuyết
phục. Mặt khác, có một thời mà chúng ta “nệ” đủ thứ, không giám nhìn thẳng và sự
thật lịch sử, luôn né tránh những gì chúng ta cho rằng dung tục mà quên mất rằng:
Lịch sử phát triển con người không chỉ dân tộc Việt Nam mà toàn nhân loại đều đã đi
qua giai đoạn quần hôn – Mẫu hệ (Tục thờ Mẫu là một minh chứng cụ thể) . Bởi thế
nên chúng ta mới đưa ra quan niệm “Trời tròn, đất vuông” để dung hoà và cũng để
cho phù hợp với quan điểm thẩm mỹ thời bấy giờ.
Theo ý kiến của cố giáo sư Trần Quốc Vượng thì trong truyền thuyết Lang
Liêu, những sản vật dâng tiến phải là bánh dầy (âm) và bánh chưng tày (dương) . Hai
loại sản vật này không theo quan niệm tượng trưng cho trời tròn đất vuông mà theo
một quan niệm phồn thực .
Quan niệm này có luận cứ khoa học hơn bởi con người tiền sử thật quá bé nhỏ
trước thiên nhiên huyền bí . Việc sinh mười chết chín, chỉ còn một lại phải chống trọi
với thiên nhiên nghiệt ngã thì sự phồn thực chính là cứu tinh cho con người thời bấy
giờ khỏi hoạ diệt vong .
Tuy nhiên, ý kiến của cố giáo sư Trần Quốc Vượng không phải đã được nhiều
học giả, nhiều người ủng hộ. Có vẻ như chúng ta khi nói về sự phồn thực trong cái
nhìn về truyền thuyết lịch sử dân tộc lại sợ làm méo mó lịch sử, sợ sẽ bị xa vào dung
tục hay bị quy chụp theo trường phái hiện sinh chủ nghĩa.
Ngày nay chúng ta coi sinh đẻ có kế hoạch, sức khoẻ sinh sản là chiến lược để
cải thiện nòi giống thì tại sao tổ tiên chúng ta lại không coi sự phồn thực như một sự
cứu rỗi cho con Lạc cháu Hồng?
Ngày tết, ăn một đồng bánh chưng sau khi cúng lễ tổ tiên, ông bà, cha mẹ, dư
vị thời gian, không gian huyền thoại của lịch sử như cùng quy tụ trong màu xanh của
bánh, mùi thơm thảo của hạt nếp tiền nhân để cùng suy ngẫm về ý nghĩa triết học và
giá trị nhân văn của các truyền thuyết, các sự tích về bánh chưng của người Việt. Đó
cũng là một cách di dưỡng tinh thần, làm giàu thêm bản sắc văn hoá tâm linh và văn
hoá ẩm thực Việt Nam.[/B]