LỜI NÓI ĐẦU
Trong xu thế toàn cầu hoá, cuộc cách mạng khoa học công nghệ và phân
công lao động trên thế giới ngày càng diễn ra mạnh mẽ đã làm cho hoạt động đầu
tư của một nước không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà đã vươn ra
nhiều nước trên thế giới. Do vậy, hoạt động đầu tư nước ngoài là tất yếu bởi các
nhà đầu tư luôn tìm kiếm một môi trường thuận lợi hơn trong nước nhằm thu
được lợi nhuận cao.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một trong những nguồn vốn quan
trọng đối với đầu tư và phát triển không chỉ ở các nước nghèo, mà kể cả các nước
đang phát triển và các nước đã phát triển. Việt Nam là một nước đang phát triển,
do vậy FDI đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, tạo việc làm cho
người lao động, ... Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang chuẩn bị bước sang giai
đoạn tăng tốc, do vậy FDI càng có vai trò quan trọng hơn. Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ “Tăng cường thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, phấn đấu đạt trên 1/3 tổng nguồn vốn đầu tư phát
triển toàn xã hội trong 5 năm 2006-2010. Mở rộng lĩnh vực, địa bàn và hình thức
thu hút FDI hướng vào những thị trường giàu tiềm năng và các tập đoàn kinh tế
hàng đầu thế giới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng và chất lượng, hiệu
quả nguồn vốn FDI, v.v.. ”
Vì vậy để đánh giá tổng quan hoạt động FDI ở Việt Nam trong những năm
gần đây và đưa ra những giải pháp nhằm tăng cường thu hút nguồn vốn này, tác
giả đã chọn đề tài: Làm rõ tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu đề tài
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương 2: Tổng quan về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
Chương 3: Các giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI ở Việt Nam
1
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI (FDI)
1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Đầu tư nói chung là việc bỏ vốn bằng tiền, tài sản, sức lao động, của cải vật
chất, v.v... ở hiện tại nhằm thu được những kết quả nhất định trong tương lai.
Hoạt động đầu tư (đầu tư vốn) là quá trình sử dụng vốn đầu tư để duy trì hoặc mở
rộng tiềm lực sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Hoạt động đầu tư là một quá trình
bắt đầu từ khi nghiên cứu xác định các cơ hội đầu tư, nghiên cứu tiền khả thi, khả
thi, quyết định đầu tư cho đến khi triển khai thực hiện đầu tư, vận hành hoạt động
sản xuất kinh doanh, thu kết quả và kết thúc đầu tư.
Căn cứ vào quan hệ quản lý, người ta phân hoạt động đầu tư thành hai loại:
đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài: là sự đầu tư của các tổ chức hoặc cá nhân
nước ngoài đưa vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào vào nước tiếp nhận để thực
hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ nhằm thu hút lợi nhuận. Đây
là loại hình di chuyển vốn quốc tế trong đó nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp sở
hữu, quản lý và điều hành việc sử dụng vốn, nhà đầu tư nước ngoài phải đóng góp
một lượng vốn tối thiểu tuỳ theo quy định của mỗi nước. Đứng trên góc độ của
nước tiếp nhận, dòng vốn nhận được theo hình thức đầu tư này gọi là vốn FDI
Quỹ tiền tệ quốc tế năm 1977 đưa ra khái niệm FDI là: việc đầu tư được
thực hiện nhằm thu hút những lợi ích lâu dài cho doanh nghiệp hoạt động ở một
nền kinh tế khác với nền kinh tế thuộc đất nước của nhà đầu tư. Mục đích của nhà
đầu tư là giành được tiếng nói có hiệu quả trong việc quản lý doanh nghiệp đó.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 12/11/1996, FDI là việc nhà đầu
tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến
hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam. Khái niệm này nhấn mạnh chủ đầu tư là người nước ngoài nhằm xác định
2
chủ tư bản được dịch chuyển trong FDI nhất thiết phải vượt ra khỏi phạm vi một
quốc gia.
2. Phân loại FDI
Tuỳ theo phạm vi và mục đích nghiên cứu, FDI được phân loại theo các
tiêu thức khác nhau.
2.1. Xét theo hình thức đầu tư
Căn cứ luật Đầu tư được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 29 tháng 11
năm 2005, FDI vào Việt Nam được thực hiện theo các hình thức sau:
* Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (DN100%VNN): Là doanh nghiệp
thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài)
do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách
nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh. DN100%VNN được thành lập theo hình
thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo luật pháp nước chủ
nhà.
* Doanh nghiệp liên doanh (DNLD): Do các bên nước ngoài và nước chủ
nhà cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ
vốn góp. DNLD được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có
tư cách pháp nhân theo luật pháp nước nhận đầu tư. Mỗi bên liên doanh chịu
trách nhiệm đối với bên kia, với DNLD trong phạm vi phần vốn của mình trong
vốn pháp định. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài do các bên liên doanh thoả
thuận.
* Hợp đồng hợp tác kinh doanh (HĐHTKD): Là văn bản ký kết giữa hai
hoặc nhiều bên để cùng nhau tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh tại
Việt Nam trên cơ sở quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho
mỗi bên mà không thành lập một pháp nhân mới. Thời hạn cần thiết cho hợp
đồng hợp tác kinh doanh do các bên hợp tác thoả thuận phù hợp với tính chất,
mục đích kinh doanh. HĐHTKD phải được các bên có thẩm quyền của các bên
hợp doanh ký. Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng do các bên thoả thuận và được
cơ quan có thẩm quyền của nước nhận đầu tư chuẩn y.
Hình thức này được phổ biến trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí và
3
trong lĩnh vực bưu chính viễn thông. Ngoài ra còn được áp dụng trong lĩnh vực
công nghiệp gia công và dịch vụ.
* Các hình thức BOT, BTO, BT
+ Hình thức BOT (Building Operate Transfer; Xây dựng-kinh doanh-chuyển
giao)
Đây là hình thức nhà ĐTNN ký với Chính phủ nước sở tại một hợp đồng
để nhà ĐTNN thành lập một công ty BOT (DN100%VNN) xây dựng và vận hành
một dự án trong một thời gian đủ để thu hồi vốn và có lãi hợp lý, sau đó bàn giao
hoàn toàn dự án cho nước sở tại.
Hình thức BOT chủ yếu áp dụng cho các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng,
đặc biệt trong giao thông đường bộ, đường sắt, cảng biển, nhiệt điện và thuỷ điện.
v.v…
+ Hình thức BTO (Building Transfer Operate; Xây dựng-chuyển giao-kinh
doanh)
Hình thức này giống như BOT, nhưng chỉ khác ở điểm trong hình thức
BTO công trình sau khi xây dựng được khai thác sử dụng trong một thời gian mới
chuyển giao cho nhà nước sở tại, còn lại hình thức BOT thì sau khi xây dựng
xong, công trình được chuyển nhượng cho nhà nước sở tại rồi chủ đầu tư mới
được khai thác.
+ Hình thức BT (Building Transfer; Xây dựng - chuyển giao)
Hình thức này giống BOT ở chỗ sau khi xây dựng xong, công trình cơ sở
hạ tầng được chuyển nhượng cho nhà nước sở tại, nhưng khác ở điểm, trong hình
thức BOT Chính phủ cho phép nhà ĐTNN được khai thác tại công trình đó, còn
trong hình thức BT, Chính phủ nước sở tại tạo điều kiện cho nhà ĐTNN thực hiện
một dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
Với nền kinh tế có cơ sở hạ tầng yếu kém thì hình thức BOT, BTO, BT rất
được nước chủ nhà ưa chuộng vì nước chủ nhà không thể có đủ vốn để xây dựng
các hệ thống hạ tầng cho nền kinh tế. Trên thực tế Việt Nam mới chỉ có FDI theo
phương thức BOT, hình thức là DN100%VNN.
4
* Các hình thức khác
Ngoài các hình thức nên trên, FDI còn được thực hiện dưới các hình thức
khác tuỳ theo mục đích và đặc điểm trong yêu cầu tiếp nhận đầu tư, chẳng hạn:
công ty cổ phần có vốn ĐTNN, doanh nghiệp FDI đa mục tiêu, doanh nghiệp hợp
danh, v.v…
2.2. Xét theo khu vực kinh tế đầu tư: Tương ứng với từng khu vực trong
nền kinh tế, FDI được phân loại như sau:
- FDI đầu tư vào khu vực I - Nông, Lâm nghiệp và Thuỷ sản.
- FDI đầu tư vào khu vực II - Công nghiệp và Xây dựng.
- FDI đầu tư vào khu vực III - Dịch vụ.
2.3. Xét theo vùng kinh tế đầu tư: FDI được phân chia 8 vùng: Vùng Đông
Bắc Bộ, vùng Tây Bắc Bộ, vùng Tây Nguyên, vùng Đồng Bằng Sông Hồng, vùng
Đồng Bằng Sông Cửu Long, vùng Bắc Trung Bộ, vùng Duyên Hải Nam Trung
Bộ và vùng Đông Nam Bộ.
2.4. Xét theo ngành kinh tế đầu tư: FDI được phân chia theo những ngành
kinh tế chủ yếu: Ngành Nông, Lâm nghiệp; ngành Thuỷ sản; ngành Công nghiệp,
ngành Xây dựng, ngành Khách sạn - Du lịch, ngành Giao thông vận tải, Bưu điện,
ngành Tài chính, Ngân hàng và các ngành Dịch vụ khác.
2.5. Xét theo hiện trạng vốn đầu tư: vốn FDI được phân chia ra: vốn thực
hiện vốn pháp định; vốn tăng thêm; vốn giải thể trước thời hạn,…
* Vốn thực hiện (VTH): là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện
các hoạt động đầu tư, vốn đầu tư để thực hiện dự án đầu tư, bao gồm vốn pháp
định và vốn vay.
* Vốn pháp định: vốn pháp định của doanh nghiệp có vốn ĐTNN là mức
vốn phải có để thành lập doanh nghiệp được ghi trong điều lệ của doanh nghiệp.
Phần vốn góp của bên nước ngoài hoặc các bên nước ngoài vào vốn pháp
định của DNLD không bị hạn chế về mức cao nhất theo sự thoả thuận của các
bên, nhưng không < 30% vốn pháp định, trừ trường hợp do Chính phủ quy định.
5
* Vốn đăng ký (VĐK): là vốn do doanh nghiệp có vốn ĐTNN đăng ký với
cơ quan cấp phép đầu tư dự kiến doanh nghiệp có vốn ĐTNN sẽ đầu tư.
3. Một số đặc điểm FDI
Về bản chất, FDI là đầu tư của tư nhân nước ngoài với mục đích căn bản là
lợi nhuận, nhà đầu tư trực tiếp bỏ vốn và điều hành hoạt động kinh doanh nên họ
phải làm cho sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường. Do vậy, nhà đầu tư cùng
với việc đưa vốn vào còn đưa cả công nghệ, bí quyết, kỹ năng tiếp thị, quản lý,
đào tạo nhân công, v.v... cho nước tiếp nhận vốn. Như vậy, ngoài việc được bổ
sung nguồn vốn thiếu hụt, FDI còn góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và đào
tạo đội ngũ lao động của nước tiếp nhận vốn. Do vậy, FDI có một số đặc điểm
sau:
Thứ nhất, nhà ĐTNN trực tiếp bỏ vốn và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình. Do vậy, FDI một mặt vẫn bổ sung được
nguồn vốn thiếu hụt và tăng khả năng sử dụng các tiềm năng sẵn có của nước tiếp
nhận, mặt khác lại không làm tăng gánh nợ nước ngoài của nước tiếp nhận.
Thứ hai, các chủ đầu tư thực hiện đầu tư tại nước sở tại nên phải tuân thủ
theo các quy định mà pháp luật nước đó đề ra đối với doanh nghiệp có vốn
ĐTNN.
Thứ ba, sự phân chia quyền quản lý các doanh nghiệp phụ thuộc vào mức
độ đóng góp vốn. Nếu đóng góp 100% vốn thì doanh nghiệp hoàn toàn do chủ
ĐTNN điều hành và quản lý.
Thứ tư, FDI không chỉ gắn liền với di chuyển vốn mà còn gắn liền với
chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm quản lý, và tạo ra
thị trường mới cho cả phía đầu tư và phía nhận đầu tư. FDI hiện nay gắn liền với
các hoạt động kinh doanh quốc tế của công ty đa quốc gia.
6
CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI Ở VIỆT NAM
1. Tổng quan chung về tình hình FDI ở Việt Nam
Cùng với chính sách đổi mới của đất nước, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam được ban hành, từ năm 1988-2005, Việt Nam đã thu hút được 7279 dự án
FDI, VĐK: 66.244,4 triệu USD, vốn FDI thực hiện: 34.429,8 triệu USD (bằng
51,97% VĐK). Tính đến thời điểm 1/1/2006 số dự án còn hiệu lực là 5.918 dự án,
tổng vốn đầu tư là hơn 50.534,6 triệu USD và vốn FDI thực hiện là hơn 26.963,1
triệu USD.
* Tổng quan hoạt động FDI theo các giai đoạn
- Thời kỳ 1988-1990 là giai đoạn khởi động thu hút FDI : Trong giai đoạn
này số dự án cấp mới chưa nhiều, quy mô VĐK bình quân cho một dự án nhỏ,
vốn FDI thực hiện chưa có bởi vì các doanh nghiệp sau khi được cấp giấy phép
phải làm nhiều thủ tục cần thiết mới đưa được vốn vào Việt Nam; khu công
nghiệp và khu chế xuất chưa hình thành. Kết quả đạt được trong thời kỳ
1988-1990: cả nước có 214 dự án, tổng VĐK là 1.602,2 triệu USD,…
- Thời kỳ 1991-1996 FDI phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ : Giai đoạn
này hoạt động của khu vực FDI tại Việt Nam rất sôi động, cả về số dự án, VĐK,
vốn FDI thực hiện và quy mô bình quân 1 dự án, nhưng tỷ lệ giữa vốn FDI thực
hiện và VĐK còn chênh lệch khá nhiều, khu công nghiệp và khu chế xuất được
hình thành và phát triển mạnh ở phía Nam. Kết quả đạt được trong thời kỳ
1991-1996: cả nước có 1781 dự án (cả cấp mới), tổng VĐK (cấp mới và tăng
vốn) là 27.827,1 triệu USD, tổng số vốn FDI thực hiện: 10.064.8 triệu USD.
- Giai đoạn 1997-2000 FDI liên tục giảm sút : Trong giai đoạn này hoạt
động FDI có xu hướng giảm sút và kéo dài, VĐK và quy mô VĐK bình quân 1
dự án giảm nhanh liên tục, tuy nhiên số vốn FDI thực hiện bình quân 1 dự án tăng
gần gấp đôi giai đoạn 1991- 1996. Kết quả đạt được trong thời kỳ 1997-2000: cả
7
nước có 1352 dự án (cả cấp mới), tổng VĐK (cấp mới và tăng vốn) là 16.094,9
triệu USD, tổng số vốn FDI thực hiện: 10.513, triệu USD,…
- Giai đoạn 2001 - 2005 FDI phục hồi và phát triển : Trong giai đoạn này
FDI có dấu hiệu bắt đầu phục hồi trở lại. Số dự án (đặc biệt dự án tăng vốn) tăng
rất nhanh, quy mô VĐK và VTH bình quân 1 dự án giảm dần. Kết quả đạt được
trong thời kỳ 2001-2005: cả nước có 3935 dự án (cả cấp mới); tổng VĐK (cấp
mới và tăng vốn) là 20.720,2 triệu USD; tổng số vốn FDI thực hiện: 13.852,8
triệu USD.
* Cơ cấu FDI theo một số ngành
Đối với một số ngành công nghiệp quan trọng của Việt Nam như công
nghiệp dầu khí, điện tử, sản xuất ô tô, xe gắn máy, thép, dệt, may, chế biến nông
sản thực phẩm, v.v.... Theo số liệu thống kê công bố về cơ cấu sản lượng sản
phẩm chủ yếu ngành công nghiệp của khu vực FDI năm 2000 về dầu thô khai
thác chiếm 100%; ô tô lắp ráp chiếm 100%; năm 2003 chiếm 92,83%; ti vi rắp
ráp năm 2000 chiếm 84,44%, năm 2003 chiếm 89,48%; xe máy lắp ráp năm 2000
chiếm 66,75%, năm 2003 chiếm 83,68%.
Những sản phẩm mới có giá trị cao như: Dầu khí, ô tô, xe máy, đồ gia dụng
đắt tiền, thiết bị điện tử, viễn thông phần lớn do khu vực FDI sản xuất và đang
giữ vai trò quan trọng trong sản xuất hàng xuất khẩu. Cơ cấu ngành nghề được
điều chỉnh theo hướng ngày càng hợp lý hơn, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất
hàng xuất khẩu, đồng thời đã hình thành bước đầu hệ thống các khu chế xuất, xây
dựng kết cấu hạ tầng và các cơ sở sản xuất công nghiệp, chế biến nông lâm thuỷ
sản, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, sử dụng nhiều lao động, ứng dụng
công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại. Nhìn chung khu vực FDI có nhiều tiềm năng
trong các ngành như: khai thác dầu khí và sản xuất hàng tiêu dùng chất lượng cao
và làm hàng xuất khẩu, v.v...
Những ngành dịch vụ: Khách sạn - Du lịch; Giao thông vận tải, Bưu điện;
Văn hoá - Y tế - Giáo dục; Tài chính - Ngân hàng, cơ cấu FDI có xu hướng giảm
(giai đoạn 1993-2000). Năm 1996, FDI trong các lĩnh vực khách sạn giảm 53%,
văn phòng cho thuê giảm 70% và tài chính ngân hàng giảm 44%. Mức giảm còn
8