Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Màu sắc dân tộc trong “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài) docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.89 KB, 5 trang )

Màu sắc dân tộc trong
“Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài)


Bài làm
Đề tài miền núi là một đề tài đã đem lại nhiều vinh quang cho sự nghiệp sáng
tác của nhà văn Tô Hoài và mở ra một giai đoạn mới cho văn học viết về miền núi.
Bằng vốn hiểu biết của chính bản thân mình qua những chuyến đi thực tế thâm nhập
vào đời sống của đồng bào các dân tộc miền núi và tài năng văn chương của mình, Tô
Hoài đã tạo nên những tác phẩm vô cùng đặc sắc, mang đậm màu sắc dân tộc mà tiêu
biểu nhất phải kể đến là truyện “Vợ chồng A Phủ” (lấy trong tập “Truyện Tây Bắc”)
của ông. Một cốt truyện không mới: sự so sánh giữa 2 cuộc sống cũ- mới, sự giác ngộ
của quần chúng nhân dân đi theo cách mạng. Nhưng tác phẩm lại để lại trong lòng bạn
đọc 1 dấu ấn đặc biệt với hình ảnh một cô Mị, A Phủ, những phong tục tập quán mang
nét đặc trưng của người miền núi mà nếu xóa bỏ chúng đi tác phẩm sẽ mất hết sức hấp
dẫn. Nhãn quan phong tục của Tô Hoài đã phát hiện được những sự việc trong cuộc
sống sinh hoạt hàng ngày của quần chúng nhân dân mà không phải nhà văn nào cũng
có thể phát hiện ra.
Mở đầu tác phẩm ta đã bắt gặp hình ảnh một cô Mị mặt lúc nào cũng buồn rười
rượi, cúi xuống không vui. Mị tự coi mình là con trâu, con ngựa trong nhà người. Mị
là con dâu nhà thống lí Pá Tra giàu có nhất vùng nhưng là con dâu gạt nợ. Nàng
không bằng được một đứa con ở vì con ở ít ra còn có ngày trả hết nợ mà tự do, còn
nàng thì làm dâu gạt nợ, không những phải làm nô lệ cho nhà người mà đến chết cũng
làm ma nhà người. Trước khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị là một cô gái
xinh đẹp có tài thổi kèn lá rất hay, được bao nhiêu chàng trai theo đuổi, Mị cũng đã có
người yêu. Một cô gái như vậy đáng lẽ cũng đã được nhận một cuộc đời hạnh phúc,
song những hủ tục của người H’mong đã giết chết hạnh phúc của Mị. Cha mẹ Mị từ
hồi cưới nhau đã vay nhà thống lí Pá Tra để làm lễ cưới , mỗi năm nộp một nương ngô
cho nhà thống lí vậy mà đến khi mẹ Mị mất đi thì tiền nợ vẫn chưa trả xong. Cưới xin
của người H’mong được tổ chức rất linh đình và thường vào mùa xuân vì người
H’mong kiêng tổ chức đám cưới vào những tháng có sấm sét. Tô Hoài rất khéo léo


đưa những phong tục của người H’mong vào trong tác phẩm, từ đám cưới của cha mẹ
Mị đến đám cưới của Mị. Tục kéo vợ, bắt vợ, tục cúng trình ma. Có lẽ đó đều là
những phong tục được đặt ra mang ý nghĩa tốt đẹp cho đôi lứa thế nhưng A Sử và
người nhà thống lí Pá Tra dựa vào quyền thế bày ra những hành động ti tiện bắt Mị về
ép duyên để gạt nợ, biến những ngày tháng còn lại của Mị trở thành cơn ác mộng.
Tình cảnh của Mị chính là chứng cớ tố cáo mãnh liệt nhất bọn cường hào cho vay
nặng lãi, nạn cho vay nặng lãi khiến cho bao nhiêu kẻ nghèo phải phụ thuộc, cột chặt
số phận vào địa chủ . Làm bao nhiêu năm, chăm chỉ cật lực cũng không trả hết nợMị
về nhà thống lí pá Tra làm dâu , thân phận cũng chẳng khác gia súc là mấy vì ít ra gia
súc còn có lúc được nghỉ gãi chân. Lúc đầu Mị còn có ý thức phản kháng, Mị khóc
ròng mấy tháng liền, đêm nào cũng khóc, thậm chí còn định ăn lá ngón tự tử. Vì lòng
hiếu thuận, vì nghĩ đến cha mình đã già, đến chết vẫn không yên, vẫn mang cái nợ lớn
trên đầu Mị mới thôi. Ý thức phản kháng , sức trẻ của Mị đã tiêu tan chỉ vì ý nghĩ:
mình đã bị đem trình ma thì có chết cũng trở thành ma của nhà thống lí Pá Tra, có chết
rồi cũng không được tự do. Suy nghĩ lạc hậu, mê tín dị đoan đã trở thành một phần
trong tâm linh người dân tộc H’mong. Cũng kể từ đó Mị không còn biết đến ngày
tháng, không biết đến đêm ngày nữa. Một cô gái tài năng tràn đầy sức sống, đẹp cả về
tâm hồn lẫn thể chất vậy mà giờ đây chỉ còn như một cái bóng ma, một cái xác không
hồn “lầm lũi như con rùa trong xó cửa”.
Người nông dân miền núi bị những hủ tục, bị bọn phong kiến tàn ác hủy hoại
tự do, bóc lột sức lao động thậm tệ. A Phủ là một chàng thanh niên khỏe mạnh , cường
tráng, chăm chỉ nhưng lại rất nghèo. Hoàn cảnh của A Phủ là hoàn cảnh điển hình của
rất nhiều người H’mong khác: nghèo khổ, không có ruộng nương, bị bọn quan lang,
thống lí bắt chẹt trở thành nô lệ. Nhiều cô gái ước ao lấy được A Phủ về nhà. Thế
nhưng vì dũng cảm đứng ra đánh nhau với A Sử đến phá đám chơi tết nên đã bị bắt về
làm đứa ở. Tô Hoài lại đưa ra một tập tục nữa của người dân tộc H’mong đó là tục
phạt vạ. Bản chất của việc phạt vạ cũng chính là thỏa mãn cho bọn thống quản ăn
chơi, thói hút xách trưởng giả. A Phủ bị đánh, bị bắt làm việc một cách không tình
nguyện song cũng không có cách nào phản kháng lại được vì dường như tất cả những
chuyện này là điều hiển nhiên tất yếu, một tập tục đã trở nên quá quen thuộc với tất cả

đồng bào H’mong rồi. “Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ trả
hết nợ thì tao mới thôi”. A Phủ chính là nhân vật điển hình cho tầng lớp nông nô ở
vùng cao Tây Bắc.
Mọi chuyện có lẽ sẽ vẫn tiếp diễn như vậy, cuộc đời hai con người ấy sẽ mãi
mãi chỉ là thứ tôi tớ, trâu ngựa cho bọn thống trị, bóc lột nếu như không có tiếng sáo
đêm tình mùa xuân, tiếng khèn gọi bạn tình. Phong tục rất đẹp này của người H’mong
được biểu hiện qua những câu hát quen thuộc “Anh ném pao, em không bắt. EM
không yêu quả pao rơi rồi”, câu hát bình dị mà phóng khoáng thẳng thắn như chính
tâm hồn những người dân tộc miền núi Tây Bắc. Tiếng hát, tiếng sáo có sức lay động
mãnh liệt, làm cho sức trẻ, khát vọng yêu đương của Mị sống dậy, như hoa cỏ mùa
xuân nhú mầm xanh sau ngày đông lạnh giá. Mị càng uống rượu, ý thức về bản thân
Mị lại càng dâng cao “Mị còn trẻ lắm” . Cũng chính trong đêm lạnh giá mùa xuân ấy,
giọt nước mắt nóng hổi thương cho chính số phận mình của A Phủ là yếu tố cuối cùng
khiến Mị đưa ra quyết định táo bạo: cắt dây trói cho A Phủ rồi cùng bỏ trốn. Cũng kể
từ đây cuộc đời của họ bước sang trang mới tươi sáng tốt lành hơn cùng với cách
mạng.
“Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài có một nét riêng mà không thể lẫn đi đâu bởi
vì giọng điệu mà tác giả sử dụng là giọng điệu tự nhiên, suồng sã, gần với tiếng ăn câu
nói hàng ngày của người dân. Từ những chi tiết nhỏ nhất như cách xưng hô “tao-
mày”, đến cách nói không khoa trương, “xổ toẹt” không ẩn ý cầu kì , không bác học
bởi họ đều là những người nông dân chưa đụng sách vở, tính tình chân chất. Chủ yếu
nhất đó chính là hệ thống những tri thức mà người đọc thu nhận được về phong tục,
tập quán sống của người dân tộc H’mong. Tô Hoài, bằng cảm quan phong tục của
mình đã thể hiện những màu sắc dân tộc vô cùng sinh động của đồng bảo dân tộc Tây
Bắc, nào là: phạt vạ, trình ma,cho vay nặng lãi, cưới hỏi, nối dây, gọi bạn tình, chơi
xuân… Chính màu sắc dân tộc này đã làm cho tác phẩm có sức hấp dẫn đặc biệt và
sức sống với thời gian như là một nét đẹp văn hóa dân tộc.
Màu sắc dân tộc cùng với tài năng của Tô Hoài - một trong những nhà văn
hàng đầu của nền văn học VN khiến cho tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" trở thành 1 tác
phẩm đỉnh cao mà ít nhà văn nào có thể vượt qua. Nó sẽ mãi được bạn đọc yêu mến

và đón nhận.

×