Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Những giải pháp khắc phục hạn chế trong xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (65.75 KB, 12 trang )

MỤC LỤC

PHẦN 1: LỜI NÓI ĐẦU
PHẦN 2: NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khái quát nhà nước
2. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
a. Khái niệm “nhà nước xã hội chủ nghĩa”
b. Đặc trưng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
c. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
d. Nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa
e. Tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
II. Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1. Những thành tựu trong xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
2. Những hạn chế trong xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
III. Những giải pháp khắc phục hạn chế trong xây dựng nhà nước xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
PHẦN 3: KẾT LUẬN

1


PHẦN 1: LỜI NÓI ĐẦU
Nhà nước xã hội chủ nghĩa và con đường xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở
nước ta là một vấn đề lý luận và thực tiễn rất cơ bản, trọng yếu, liên quan trực tiếp
đến đường lối chính trị của Đảng, phương hướng phát triển của đất nước. Đây là
vấn đề trung tâm, cốt lõi, nó chi phối tồn bộ các hoạt động chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, đối ngoại,…của Đảng và nhà nước ta. Thực tiễn chứng minh trong
công cuộc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn. Những thành tựu đó ln gắn liền với q trình vận dụng sáng
tạo, bổ xung phát triển lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học của Mác – Lênin


trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, những thành tựu to lớn và quan trọng đó là cơ
sở khẳng định sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng như tính đúng
đắn, sáng tạo trong đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước ta.

2


PHẦN 2: NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khái quát nhà nước
Trải qua ba lần phân công lao động sự phát triển của sản xuất vật chất chuyển
xã hội từ cung khơng đủ cầu sang một giai đoạn mới: Có của cải dự thừa, tiêu dùng
đã có dự trữ. Việc chiếm đoạt tài sản dự trữ đã phân hóa xã hội thành giai cấp, đối
lập nhau về lợi ích. Xã hội hình thành mâu thuẫn giai cấp. Khi mâu thuẫn giai cấp
phát triển đến độ khơng thể điều hịa được thì nhà nước ra đời. Nhà nước biểu hiện
và thực hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền, do đó, bản chất của nhà
nước ln mang tính giai cấp và nó phản ánh bản chất của giai cấp cầm quyền.
Trong các xã hội có giai cấp (chiếm hữu nơ lệ, phong kiến, tư bản) quyền lực
chính trị thuộc về giai cấp thống trị hoặc liên minh giai cấp thống trị. Thơng qua
quyền lực chính trị, giai cấp thống trị bắt các giai cấp khác phục tùng ý chí của
mình. Quyền lực chính trị như C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ, thực chất là bạo
lực có tổ chức của một giai cấp để đàn áp những giai cấp khác.
Nhà nước là công cụ cơ bản của quyền lực chính trị; là bộ máy quyền lực đặc
biệt để trước hết cưỡng chế, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, do
được hình thành từ bộ máy quản lý cộng đồng, nên nhà nước cũng đồng thời nhân
danh xã hội, đại diện cho xã hội thực hiện các chức năng quản lý xã hội, phục vụ
nhu cầu chung của xã hội, tương ứng với bản chất của giai cấp cầm quyền và điều
kiện tồn tại của xã hội.
Với tư cách là một tổ chức chính trị đặc biệt, nhà nước có các dấu hiệu sau đây:
- Nhà nước được đặc trưng bởi sự hiện diện của một bộ máy quyền lực đặc biệt với

chức năng quản lý và cưỡng chế. Do đó nó có quyền tối cao trong việc quyết định
những vấn đề đối nội và đối ngoại.
- Xác lập chủ quyền quốc gia và phân chia dân cư theo lãnh thổ hành chính để
quản lý.
- Ban hành hệ thống quy tắc xử sự chung của quốc gia để thiết lập và duy trì trật tự
xã hội phù hợp lợi ích giai cấp thống trị cùng lợi ích quốc gia, đồng thời đảm bảo
thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế.

3


- Quy định bằng pháp luật và thực hiện việc thu thuế bắt buộc đối với cá nhân và tổ
chức trong lãnh thổ quốc gia để thiết lập nền tài chính cơng.
Từ các đặc trưng trên của nhà nước, chúng ta có thể định nghĩa: Nhà nước là
một tổ chức quyền lực chính trị gồm một bộ máy đặc biệt để thực hiện chức năng
quản lý và cưỡng chế theo một trật tự pháp lý nhất định phục vụ và bảo vệ lợi ích
của giai cấp cầm quyền.
2. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
a. Khái niệm “nhà nước xã hội chủ nghĩa”
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức mà thơng qua đó, đảng của giai cấp cơng
nhân thực hiện vai trị lãnh đạo của mình đối với tồn xã hội; là một tổ chức chính
trị thuộc kiến trúc thượng tầng dựa trên cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội; đó là
một nhà nước kiểu mới, thay thế nhà nước tư sản nhờ kết quả của cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa; là hình thức chun chính vô sản được thực hiện trong thời kỳ
quá độ nên chủ nghĩa xã hội.
Với tư cách là một trong những tổ chức cơ bản nhất của hệ thống chính trị xã
hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí,
quyền lực của nhân dân. Đó là một cơng cụ quản lý do chính đảng của giai cấp
cơng nhân lãnh đạo nhân dân tổ chức ra nhằm thực hiện quyền lực và lợi ích của
nhân dân, đồng thời cũng thơng qua nó, giai cấp cơng nhân và chính đảng của

mình thực hiện sự lãnh đạo đối với toàn xã hội trong quá trình bảo vệ và xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền
lực, vừa là bộ máy hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội của
nhân dân.
b. Đặc trưng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Khác với các hình thức nhà nước đã từng có trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ
nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt. Đó là kiểu nhà nước có những đặc trưng cơ
bản sau đây:
Một là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ cơ bản để thực hiện quyền lực
của nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Đây không phải là
công cụ đàn áp giai cấp nào khác mà nó thực hiện chính sách giai cấp vì lợi ích của
4


tất cả người lao động và duy trì vai trị lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với nhà
nước. Qua đó xây dựng và thực thi dân chủ, đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về
nhân dân; mọi hoạt động của Nhà nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và đảm
bảo quyền con người, tạo mọi điều kiện cho cơng dân thực hiện quyền của mình
theo đúng quy định pháp luật tiếp nữa là mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước
được xác định chặt chẽ về phương diện luật pháp và mang tính bình đẳng.
Hai là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ chuyên chính giai cấp và nhân
dân lao động; thực hiện sự trấn áp đối với những lực lượng chống đối, phá hoại sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Các thủ đoạn mà thế lưc thù địch có thể sử
dụng như: về chính trị tư tưởng, các thế lực thù địch coi đây là mặt trận hàng đầu
để tập trung chống phá, chúng chống phá về hệ tư tưởng, quan điểm, xuyên tạc chủ
nghĩa Mác-Lênin,…gây “tự diễn biến”, khủng hoảng về chính trị, làm chệch
hướng và sụp đổ chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa. Về kinh tế, tài chính, chúng
chống phá đường lối, chính sách kinh tế, xâm nhập, chiếm lĩnh các địa bàn, các
lĩnh vực kinh tế quan trọng…từ đó thúc đẩy, chuyển hóa nền kinh tế sang quỹ đạo
tư bản chủ nghĩa. Về văn hóa – xã hội, chúng thúc đẩy sự biến đổi chệch hướng giá

trị văn hóa, đạo đức, biến đổi cơ cấu xã hội – giai cấp, lợi dụng mâu thuẫn các vấn
đề về dân tộc, tôn giáo, nhân quyền, dân chủ… gây suy thoái về tư tưởng, đạo đức,
lối sống nhân dân.
Ba là, tổ chức, xây dựng toàn diện xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa. C.Mác – Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đều xem tổ chức, xây dựng
mang tính sáng tạo nhằm cải tiến trật tự chủ nghĩa tư bản và hình thành trật tự chủ
nghĩa cộng sản là cái căn bản hơn trong chức năng của chun chính vơ sản. Đặt
mối tương quan với chức năng tổ chức – xây dựng, thì chức năng trấn áp chỉ là
việc quét sạch các đống rác rưởi trước khi xây dựng mà chưa phải là bản than việc
xây dựng.
Bốn là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là yếu tố cơ bản của nên dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Theo V.I.Lênin đó là nền dân chủ “gấp triệu lần dân chủ tư sản”, nhân dân
ngày càng tham gia nhiều vào công việc nhà nước.
5


Năm là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt, "nhà nước
khơng cịn ngun nghĩa", là "nửa nhà nước". Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một
nhà nước mà tất cả mọi người đều bình đẳng với nhau “làm theo lao động, hưởng
theo nhu cầu”. Khi đạt đến xã hội chủ nghĩa thì nền kinh tế của nhà nước phát triển
đến mức cao, con người sẽ nhận thức được sự bình đẳng và lợi ích xã hội, họ sẽ
làm hết năng lực của mình để phục vụ cho nhà nước. Đến lúc đó nhà nước sẽ tự
diệt vong, khơng cịn tồn tại nhà nước nữa đó chính là lời lý giải nhà nước xã hội
chủ nghĩa là nhà nước “nửa nhà nước”.
c. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Chức năng giai cấp của nhà nước vô sản được thực hiện cả bằng việc thực hiện
có hiệu quả cơng tác tổ chức, xây dựng toàn diện xã hội mới, cả bằng việc sử dụng
những cơng cụ bạo lực đã có trong tay để đập tan sự phản kháng của kẻ thù giai
cấp chống lại cơng cuộc tổ chức, xây dựng đó.
Chức năng tổ chức, xây dựng: xây dựng toàn diện xã hội mới, cải biến trật tự

chủ nghĩa tư bản và hình thành trật tự chủ nghĩa xã hội.
Chức năng trấn áp: chống lại sự phản kháng của kẻ thù. Đây là chức năng rất
quan trọng, C. Mác cho rằng giai cấp vô sản sử dụng công cụ bạo lực đối với giai
cấp tư sản để bảo vệ thành quả cách mạng của mình là điều rất cần thiết vì chính
giai cấp tư sản cũng không đắn đo trong việc sử dụng những biện pháp cứng rắn
nhất nhằm khôi phục lại trật tự tư bản chủ nghĩa của chúng. V.I.Lênin cũng nhấn
mạnh sự cần thiết phải thực hiện cưỡng bức như là lý do tồn tại của nhà nước
nhằm chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin nhấn mạnh bạo
lực của chun chính vơ sản là vì cách mạng Nga nổ ra và tồn tại trong hồn cảnh
có sự chống đối dữ dội của bọn bóc lột, thêm vào đó, 14 nước đế quốc liên kết với
nhau để đàn áp chính quyền Xơ viết non trẻ. Nói tóm lại bạo lực, trấn áp là cái vốn
có của mọi chính sách, do đó nó cũng là cái vốn có của nhà nước vơ sản. Tuy
nhiên chức năng tổ chức, xây dựng mới là cái căn bản nhất vì chức năng trấn áp
chỉ là việc “quét sạch các đống rác rưởi trước khi xây dựng” mà chưa phải là bản
thân việc xây dựng.
d. Nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa

6


Từ thực tế xây dựng xã hội mới ở nước Nga Xôviết. V.I.Lênin đã làm rõ nhiệm
vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa trên hai lĩnh vực kinh tế và xã hội.
Đối với lĩnh vực kinh tế, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nhà nước vô sản là
phải nhanh chóng phát triển mạnh số lượng sản phẩm, cùng cố kỷ luật lao động
mới và nâng cao năng suất lao động.
Đối với lĩnh vực xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải xây dựng được quan hệ
xã hội mới, hình thành những tổ chức lao động mới, tập hợp được đơng đảo những
người lao động có khả năng vận dụng những thành tựu của khoa học - kỹ thuật vào
sản xuất, thực hiện từng bước cải tạo những người tiểu sản xuất hàng hóa thơng
qua những tổ chức thích hợp.

e. Tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
C.Mác và Ph. Ăngghen cho rằng, giai cấp công nhân khi thực hiện sứ mệnh
lịch sử của mình, xóa bỏ tình trạng người bóc lột người và mọi sự tha hóa của con
người do chế độ tư hữu sản sinh ra, thì trước hết họ phải cùng với nhân dân lao
động "phá hủy nhà nước tư sản" chiếm lấy chính quyền thiết lập chun chính vơ
sản. Bởi vì, "giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời
kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là
một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy khơng thể là cái gì khác
hơn là nên chun chính cách mạng của giai cấp vơ sản”.
Sau khi trở thành giai cấp cầm quyền, giai cấp cơng nhân phải nắm vững cơng
cụ chun chính, phải xây dựng nhà nuớc xã hội chủ nghĩa vững mạnh, trở thành
một công cụ trấn áp các thế lực đi ngược lại lợi ích của nhân dân để bảo vệ thành
quả cách mạng nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Sự cần thiết tất yếu phải xác lập chuyên chính vô sản, xây dựng nhà nước xã
hội chủ nghĩa vững mạnh còn xuất phát từ thực tiễn của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là thời kỳ còn tồn tại các giai cấp bóc lột, chúng hoạt động chống lại
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều đó khiến cho giai cấp cơng nhân và
nhân dân lao động thông qua nhà nước phải trấn áp bằng bạo lực khi cần thiết.
V.I.Lênin xem dấu hiệu tất yếu, điều kiện bất buộc của chuyên chính là trấn áp
bằng bạo lực những kẻ bóc lột, phản động với tính cách là một giai cấp. Đồng thời,
7


trong thời kỳ q độ cũng cịn có các giai cấp, tầng lớn trung gian khác và do địa vị
kinh tế - xã hội vốn có, các giai cấp này thường dao động, khơng thể tự mình đi lên
chủ nghĩa xã hội. Trước thực tế đỏ, giai cấp công nhân phải tun truyền, thuyết
phục, lơi cuốn họ đi theo mình trong cơng cuộc xây dựng xã hội mới. Do đó, nhà
nước xã hội chủ nghĩa đóng vai trị là thiết chế cần thiết bảo đảm sự lãnh đạo của
giai cấp cơng nhân đối với tồn xã hội.
Để mở rộng dân chủ tới mức tối đa đối với mọi tầng lớp nhân dân, kiên quyết

đấu tranh chống lại mọi hành vi đi ngược lại những chuẩn mực dân chủ, vi phạm
những giá trị dân chủ chun chính của nhân dân, địi hịi phải có một thiết chế nhà
nước phù hợp. Chính vì vậy trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước phải
được củng cố, xây dựng để trở thành công cụ bảo vệ và phát triển thành quả của
dân chủ. Dân chủ cần phải có chun chính để giữ lấy dân chủ, để những hành vi
gây tác hại tới quyền dân chủ của nhân dân được xử lý kịp thời... Các quyền đó
phải được thể chế hóa trong hiến pháp, pháp luật và được thực hiện bằng những
thiết chế tương ứng của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do đó, q trình xây dựng nhà
nước xã hội chủ nghĩa tất yếu gắn liền với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa. Quá trình này cho thấy, dân chủ và pháp luật, dân chủ và kỷ cương
không bài trừ và phủ định nhau, trái lại, đó chính là sự thống nhất biện chứng, là
điều kiện, tiền đề tồn tại và phát triển của nhau.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng. Với ý nghĩa đó, nhà
nước xã hội chủ nghĩa là phương thức, phương tiện, là một công cụ chủ yếu của
nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bởi vậy, để bảo đảm cho
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thành cơng thì việc xây dựng và khơng ngừng
hồn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa - một trong những cơng cụ chủ yếu của q
trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, là một yêu cầu tất yếu khách quan
trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa.
II. Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1. Những thành tựu trong xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
8


Trong kinh tế: kinh tế Việt Nam phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa khi đã
xây dựng xong được đặc trưng bằng sự đa dạng các loại hình sở hữu hỗn hợp,
trong đó quan trọng nhất là sở hữu tư bản nhà nước. Kinh tế có vốn đầu tư nước
ngồi có xu hướng tăng lên tương đối. Một nền kinh tế càng phát triển trong điều

kiện tồn cầu hóa thì khả năng hội nhập kinh tế quốc tế càng sâu rộng. Thành tựu
kinh tế rõ nét nhất là từ 1993 đến nay là số người nghèo ở Việt Nam đã giảm tới
2/3.
Trong văn hóa: có một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Phát huy
những cái vốn có của dân tộc, chúng ta càng phát triển hơn nền văn hóa đậm đà
bản sắc của mình, đặc biệt hiện nay ta đang hội nhập với thế giới nên càng phải
phát huy hơn nữa.
Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc…Sau khi nhận ra
khuyết điểm của mình, Đảng ta đã sửa chữa. Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường,
chúng ta đã thực hiện “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”, điều đó đã thúc
đẩy kinh tế nước ta đi nên. Đặc biệt trong thời gian gần đây, khi Việt Nam gia
nhập vào các tổ chức lớn trên thế giới, hội nhập vào nền kinh tế thế giới, nền kinh
tế Việt Nam đã phát triển nhanh chóng, làm cho đời sống của nhân dân được nâng
lên rất nhiều.
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới. khi Mỹ đã
bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, và sau đó lần lượt các nước lớn đặt mối
quan hệ bang giao với nước ta thì mối quan hệ này đã được cải thiện nhiều. Hiện
nay, chúng ta đã mở rộng quan hệ quốc tế đa phương, đa dạng, chủ động hội nhập
kinh tế khu vực và thế giới, với chiến lược đúng đắn và thích hợp theo tinh thần
“Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước, vì hịa bình, độc lập và phát triển”.
Trong xây dựng kinh tế phải dựa vào nguồn lực bên trong là chính, đồng thời tranh
thủ tối đa những nguồn lực từ bên ngoài.

9


Qua những thành tựu trong công cuộc đổi mới, con đường xây dựng nhà nước
xã hội chủ nghĩa lại càng được khẳng định, cuộc sống thay đổi từng ngày, nhân
dân càng tin vào Đảng, vào con đường xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn.

2. Những hạn chế trong xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Trước thời kì đổi mới (1986) trong lĩnh vực kinh tế do coi kinh tế tập trung
bao cấp là đặc trưng của kinh tế xã hội chủ nghĩa nên đã coi nhẹ hoặc phủ nhận
sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị, có thành kiến với kinh tế thị trường do đồng
nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản dẫn đến khủng hoảng kinh tế, xã hội.
Trong đai hội XI cũng thẳng thắn, nghiêm túc đánh giá, chỉ ra những hạn chế,
khuyết điểm do xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát
triển kinh tế và quản lý đât nước. Những hạn chế cụ thể được chỉ ra như năng lực
xây dựng thể chế, điều hành, quản lý, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu. Tổ chức
bộ máy ở nhiều cơ quan còn chưa hợp lý, biên chế cán bộ, công chức tăng thêm;
chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan chưa đủ rõ, cịn chồng chéo. Chất lượng
đội ngũ cán bộ, cơng chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình
mới của đất nước…
Cậy mình là người trong cơ quan chính quyền để hách dich với dân, lạm
quyền, đồng thời để vơ vét tiền của, lợi dụng chức quyền để làm lợi cá nhân, chủ
nghĩa cá nhân.
Lãng phí, quan liêu….
III. Những giải pháp khắc phục hạn chế trong xây dựng nhà nước xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Để Nhà nước ta thật sự trong sạch, vững mạnh, quản lý, điều hành đất nước
hiệu lực, hiệu quả, trước hết cần quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về sự
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
 

Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội;

kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu và
con đường xã hội chủ nghĩa; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ,
như Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đề ra.

10


Tổ chức nhiều hình thức phù hợp để nhân dân tích cực tham gia hoạch định
chính sách, pháp luật và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật của các cơ
quan nhà nước, coi đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta.
Tăng cường tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, coi đó là cơng cụ quan
trọng và hữu hiệu để bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước, thiết lập kỷ cương xã hội.
Đẩy mạnh các hoạt động thanh tra, kiểm tra trong nội bộ các cơ quan, tổ chức nhà
nước; đề cao trách nhiệm kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới, của các cấp chính
quyền đối với mọi cơ quan, tổ chức trên địa bàn, lãnh thổ.
Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính trong các lĩnh vực
liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp và đời sống nhân dân; xây dựng nền
hành chính dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp, quản lý nhà nước có hiệu quả, giảm
mạnh, bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà, đáp ứng tốt nhất yêu cầu chính
đáng của người dân, doanh nghiệp.
Là sinh viên, là thế hệ trẻ, là tương lai của đất nước,trước hết chúng ta cần phải
hiểu rõ về quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh sau đó
có thể đấu tranh, lên án những hành động tiêu cực, phản động…Sống lành mạnh,
làm gương cho mọi người noi theo. Có thể tổ chức tuyên truyền cho những người
xung quanh hiểu rõ hơn về con đường xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam đồng thời xây dựng niềm tin trong nhân dân để đánh bại mọi âm mưu “diễn
biến hịa bình”, bạo loan lật đổ.
PHẦN 3: KẾT LUẬN
Bất chấp thăng trầm của lịch sử, từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác – Lênin luôn
luôn tỏ rõ sức sống mãnh liệt của mình. Nhờ nắm vững và vận dụng sáng tạo bản
chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin mà Đảng ta đã dẫn dắt
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, ngày càng thu được

những thành tựu to lớn. Nhất định Đảng sẽ lãnh đạo nhân dân xây dựng thành công
nhá nước xã hội chủ nghĩa của thời kỳ đổi mới gắn với dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.

11


12



×