Website: Email : Tel (: 0918.775.368
A- Đặt vấn đề.
Hiện nay vẫn còn có rất nhiều ngời, một bộ phận ngời vẫn cha hiểu biết
về nguồn gốc và bản chất của con ngời và vai trò to lớn của con ngời trong xã
hội và trong lịch sử. Và ở nhiều nơi trên thế giới, mọi lúc, mọi nơi vẫn còn có
những con ngời bị ngợc đãi, đó là những t tởng phân biệt chủng tộc, khinh bỉ
con ngời, coi con ngời nh súc vật, kẻ đi làm thuê... Đặc biệt nạn trọng nam
khinh nữ vẫn còn tồn tại, phụ nữ bị phân biệt đối xử tàn bạo luôn luôn phải
làm những công việc nặng nhọc hay bị đánh đập, ngợc đãi. Bị đối xử bất
công trong quan hệ xã hội và không đợc tham gia vào các công việc chính trị,
thậm chí những công việc trong nội bộ gia đình.
Đề tài này cung cấp đầy đủ, giúp cho em hiểu đợc về nguồn gốc và bản
chất của con ngời, ý nghĩa cuộc sống của giai đoạn lịch sử, con ngời có quan
hệ với tự nhiên và đồng loại nh thế nào; vì đâu ở mỗi con ngời, mỗi cộng
đồng ngời có những nét độc đáo về t tởng, tình cảm, tâm lý, tính cách, nghị
lực, tài năng.
Đề tài này giúp em nhận thức đợc vai trò của con ngời, quần chúng
nhân dân và cá nhân trong lịch sử. Từ đó thôi thúc em cũng nh tất cả mọi ng-
ời phải làm gì để có cuộc sống xứng đáng với bản thân mình, vì vậy rút ra đ-
ợc phơng hớng và biện pháp để xây dựng con ngời trong thời đại mới xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đề tài này đợc hoàn thành với sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo Phạm
Văn Sinh.
Em xin chân thành cảm ơn !
B- Nội dung
I- Vấn đề con ngời trong triết học Mác - Lênin.
Vấn đề con ngời, theo nghĩa rộng, bao gồm toàn bộ nội dung nghiên
cứu các khoa học xã hội và nhân văn. Chủ nghĩa Mác - Lênin thực chất là
học thuyết về giải phóng con ngời và giải phóng loài ngời. Vấn đề con ngời
là nội dung cơ bản chủa chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, triết học Mác -
Lênin nói riêng.
Với sự ra đời của quan điểm duy vật về lịch sử, lần đầu tiên vấn đề con
ngời có đợc vị trí mà nó cần phải có; lần đầu tiên vấn đề con ngời đợc nhận
thức một cách thật sự khoa học.
1. Nguồn gốc và bản chất của con ngời.
Trong lịch sử t tởng nhân loại đã từng tồn tại rất nhiều quan điểm khác
nhau xung quanh vấn đề nguồn gốc và bản chất con ngời. Trớc C.Mác, vấn
đề bản chất con ngời vẫn cha đợc giải đáp một cách thực sự khoa học.
Không những chủ nghĩa duy tâm mà cả chủ nghĩa duy vật trực quan, siêu
hình cũng không nhận thức đúng bản chất con ngời.
Từ buổi sơ khai của mình, do hạn chế về nhận thức, con ngời đã không
hiểu đợc những sức mạnh của thiên nhiên. Thiên nhiên vừa nuôi dỡng con
ngời, vừa thờng xuyên gây ra những tai hoạ nh: bão, lụt, sấm sét v.v.. Sợ hãi
trớc sức mạnh đó, con ngời đã thờ trời, thờ đất, thời núi sông, thờ muông thú,
nhiều lúc đã coi những thứ ấy là nguồn gốc, là tổ tiên của mình. Rất nhiều
dân tộc và tộc ngời đã nhận một con vật nào đó nh vật tổ của mình và thờ
cũng con vật đó .
Thời kỳ cuối xã hội nguyên thuỷ, đầu xã hội cổ đại, con ngời bắt đầu
tìm hiểu nguồn gốc của mình và có những ý thức ban đầu về sức mạnh của
bản thân mình.
Nói chung các tôn giáo đều quan niẹm con ngời do thần thánh, Thờng
đế sinh ra, cuộc sống con ngời do đấng tối cao an bài, sắp đặt.
Có những trào lu triết học duy tâm không trực tiếp giải thích nguồn gốc
con ngời từ trời, từ thần thánh, hay từ con vật linh thiêng nào, nhng đã giải
thích một cách không kém phần bí hiểm.
Trong lịch sử triết học ở cả phơng Tây và phơng Đông, thời nào cũng có
t tởng duy vật, gắn liền với thực tiễn xã hội. Tuy nhiên, bàn về nguồn gốc,
bản chất con ngời, t tởng thống trị trong thời cổ đại và trung đại vẫn là quan
điểm duy tâm. Thời cận đại, nhận thức về nguồn gốc và bản chất con ngời có
một bớc tiến đáng kể. Triết học duy vật và duy tâm đều phản ánh những vấn
đề mới mẻ do thời đại đặt ra. Các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII và
Phoiơbắc, nhà duy vật lớn trong triết học cổ điển Đức, đều phê phán mạnh
mẽ quan điểm duy tâm, thần bí và tìm cách giải thích nguồn gốc bản chất
con ngời theo quan điểm duy vật. Với sự ra đời thuyết tiến hoá các loài
Đácuyn, các nhà triết học duy vật nói trên đã có căn cứ khoa học để chỉ ra
nguồn gốc phi thần thành của con ngơì. "Không phải chúa đã tạo ra con ngời
theo hình ảnh của chúa mà chính con ngời đã tạo ra chúa theo hình ảnh của
con ngời". Lời nói sắc sảo này của Phoiơbắc đã đợc C.Mác và Ph.Ăngghen
đánh giá cao khi hai ông nói về vai trò của các nhà duy vật trong việc phê
phán những quan điểm duy tâm thần bí về nguồn gốc và bản chất của con ng-
ời. C.Mác đã khái quát bản chất con ngời qua câu nói nổi tiếng sau đây:
"Phoiơbắc hoà tan theo bản chất tôn giáo vào bản chất con ngời. Nhng
bản chất con ngời không phải là một cái trừu tợng cố hữu của cá nhân riêng
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con ngời là tổng hoà những quan
hệ xã hội" (5.3-11).
Với quan điểm duy vật triệt để và phơng pháp biện chứng, Mác đã đa ra
một quan niệm hoàn chỉnh về khái niệm con ngời, cũng nh về bản chất của
con ngời. Chủ nghĩa Mác phân biệt rõ hai mặt trong khái niệm con ngời: mặt
sinh vật và mặt xã hội.
C.Mác không hề phủ nhận mặt tự nhiên, mặt sinh học khi xem xét con
ngời với t cách là những cá nhân sống. Mác viết: "vì vậy, điều cụ thể đầu tiên
cần phải xác định là tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy và mối quan hệ mà
tổ chức cơ thể ấy tạo ra giữa họ với phần còn lại của giới tự nhiên". Theo
Mác, "mọi khoa ghi chép lịch sử đều phải xuất phát từ những cơ sở tự nhiên
ấy.
Trớc hết Mác thừa nhận con ngời là một động vật cao cấp nhất, sản
phẩm của sự tiến hoá lâu dài của giới sinh vật nh tiến hoá luận của Đácuyn
đã khẳng định. Nh mọi động vật khác, con ngời là một bộ phận của thiên
nhiên, tìm thức ăn, nớc uống... từ trong thiên nhiên. Nh mọi động vật khác,
con ngời phải "đấu tranh" để tồn tại, ăn uống, sinh con đẻ cái.. Tuy nhiên,
C.Mác không thừa nhận quan điểm cho rằng: cái duy nhất tạo nên bản chất
con ngời là đặc tính sinh học, là bản năng sinh vật của con ngời. Con ngời
vốn là một sinh vật có đầy đủ những đặc trng của sinh vật, nhng lại có nhiều
điểm phân biệt với các sinh vật khác. Vậy con ngời khác động vật ở chỗ nào?
Trớc C.Mác và cùng thời đã có nhiều nhà t tởng lớn đã đa ra những tiêu chí
phân biệt ngời và động vật có sức thuyết phục, chẳng hạn nh Phranklin cho
rằng con ngời khác con vật ở chỗ con ngời biết sử dụng công cụ lao động,
Arixtốt đã gọi con ngời là "một động vật có tính xã hội", Passcal nhấn mạnh
đặc điểm của con ngời và sức mạnh của con ngời là ở chỗ con ngời biết suy
nghĩ (con ngời là "một cây sậy, nhng là một cây sậy biết suy nghĩ"). Các
nhận định trên đều đúng khi nêu lên một khía cạnh về bản chất của con ngời,
nhng những nhận định đó đều phiến diện, không nói lên đợc nguồn gốc của
những đặc điểm ấy và mối quan hệ biện chứng giữa chúng với nhau.
Triết học Mác nhìn vấn đề bản chất con ngời một cách toàn diện, cụ thể,
xem xét bản chất con ngời không phải một cách chung chung, trừu tợng mà
trong tính hiện thực, cụ thể của nó, trong quá trình phát triển của nó.
C.Mác và Ăngghen đã phân tíc vai trò của lao động sản xuất ở con ngời
nh sau: "Có thể phân biệt con ngời với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo,
nói chung bằng bất cứ cái gì cũng đợc. Bản thân con ngời bắt đầ bằng tự phân
biệt với súc vật ngay khi con ngời bắt đầu sản xuất ra những t liệu sinh hoạt
của mình - đó là một bớc tiến do tổ chức cơ thể của con ngời quy định. Sản
xuất ra những t liệu sinh hoạt của mình, nh thế con ngời đã gián tiếp sản xuất
ra chính đời sống vật chất của mình .
Con ngời là một bộ phận của tự nhiên, nhng trong mối quan hệ với tự
nhiên con ngời hoàn toàn khác con vật.
C.Mác phân biệt rõ ràng: "Về mặt thể xác, con ngời chỉ sống bằng
những sản phẩm tự nhiên ấy, dù là dới hình thức thực phẩm, nhiên liệu, áo
quần, nhà ở, v.v... về mặt thực tiễn, tính phổ biến của con ngời biểu hiện ra
chính ở cái phổ biến toàn bộ giới tự nhiên thành thân thể vô cơ của con ngời.
Ông kết luận: "Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con ngời thì
tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên" Câu nói sâu sắc này nêu lên tính tất yếu
của sự hoà hợp giữa con ngời và tự nhiên. Nhờ hoạt động thực tiễn, con ngời
quan hệ với tự nhiên cũng có nghĩa là con ngời quan hệ với bản thân mình,
bởi tự nhiên là "thân thể vô cơ của con ngời".
Tính loài của con ngời không phải tính loài trừu tợng. Nó cũng có nghĩa
là tính xã hội, và loài ngời chính là "xã hội ngời".
Con ngời có tính xã hội trớc hết bởi bản thân hoạt động sản xuất của
con ngời là hoạt động mang tính xã hội. Trong hoạt động sản xuất, con ngời
không thể tách khỏi xã hội. Tính xã hội là đặc điểm cơ bản làm cho con ngời
khác con vật. Hoạt động của con vật chỉ phục vụ nhu cầu trực tiếp của nó,
còn hoạt động của con ngời gắn liền với xã hội và phục vụ cho cả xã hội. Xã
hội cùng với tự nhiên là điều kiện tồn tại của con ngời. Tính xã hội của con
ngời thể hiện ở hoạt động và giao tiếp xã hội. Hoạt động của con ngời không
phải hoạt động theo bản năng nh động vật mà là hoạt động có ý thức. T duy
con ngời phát triển trong hoạt động và giao tiếp xã hội, trớc hết là trong hoạt
động lao động sản xuất. Với ý nghĩa trên đây, có thể nói con ngời phân biệt
với động vật ở t duy mà ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của t duy. Bởi cơ sở của
t duy là hoạt động thực tiễn xã hội. "Những miền sâu thẳm của tâm linh"
cũng không thể có đợc nếu nh không có hoạt động mang tính xã hội và
những quan hệ xã hội của con ngời.
Nói tóm lại con ngời khác con vật về bản chất ở cả ba mặt: quan hệ với
thiên nhiên, quan hệ với xã hội, quan hệ với bản thân. Cả ba mối quan hệ đó
đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội là quan hệ bản chất nhất, bao
quát nhất trong mọi hoạt động của con ngời, cả trong lao động, sinh con đẻ
cái và trong t duy.
Khi C.Mác nói: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con ngời là tổng
hoà những quan hệ xã hội", thì ta hiểu những quan hệ ấy thể hiện trong toàn
bộ hoạt động cụ thể của con ngời. Không có con ngời trừu tợng mà chỉ có
những con ngời sống, hoạt động trong một xã hội nhất định, một thời đại
nhất định, trong những điều kiện lịch sử nhất địh, nghĩa là những con ngời
cùng với xã hội mình khai thác thiên nhiên, sinh hoạt xã hội, phát triển ý
thức. Chỉ trong toàn bộ những quan hệ xã hội cụ thể đó, con ngời mới bộ lộ
và thực hiện đợc bản chất thật sự của mình. Xét về bản chất của một con ngời
cũng nh của một dân tộc phải xuất phát từ toàn bộ những quan hệ xã hội ấy.
Tính xã hội của con ngời phát triển từ thấp đến cao, từ hoạt động bản
năng đến hoạt động có ý thức , cũng nh bản thân ý thức.
Con ngời không chỉ có bản năng sinh học, mà còn có bản năng xã hội.
Cái bản năng xã hội đã bắt đầu nhen nhóm trong những tập đoàn động vật,
đặc biệt là tập đoàn khỉ, nó tạo nên tính xã hội của những động vật ấy. Cách
đây hàng triệu năm trong sự tiến hoá của một số loài khỉ thì cái bản năng xã
hội hay tính xã hội phát triển và bao trùm từng bớc cái bản năng sinh học. Vì
vậy, "bản năng xã hội là một trong những đòn bẩy quan trọng nhất của sự
phát triển của con ngời từ khỉ" bản năng xã hội của con ngời là bản năng có ý
thức.
Lao động lúc mới phát sinh và phát triển từ tổ tiên loài vợn thì dĩ nhiên
là tiến hoá theo bản năng, nhng khi ý thức và ngôn ngữ đã xuất hiện và phát
triển thì lao động trở thành lao động có tính chất xã hội.
ở mỗi bớc tiến lên của lao động xã hội, của tiếng nói và ý thức , lại hình
thành ra những con ngời mới của hoạt động liên hệ thần kinh trong vỏ não.
Và trên cơ sở ấy thì lựa chọn tự nhiên cố định trên một cơ cấu di truyền trên
vỏ não, làm cho con đờng liên hệ thần kinh mới xuất hiện trong thực tiễn lao
động.
Tầng trên của vỏ não ngời chính là ở di truyền của bản năng lao động xã
hội của con ngời nguyên thuỷ mà c.Mác và Ph.Ăngghen đã nhận định là bản
năng có ý thức. Do đó, bản năng lao động xã hội với t cách là bản năng có ý
thức, chính là chức năng cơ bản của tầng trên vỏ não ngời.Đấy là cái vốn di
truyền đã đợc xây dựng trong sự tiến hoá từ tổ tiên vợn lên ngời, thông qua
nhiều bớc nhảy vọt. Mỗi bớc nhảy vọt này là kết quả của sự phát triển của lao
động xã hội ở giai đoạn trớc trong quá trình trở thành ngời. Dĩ nhiên kết quả
đó phải có những điều kiện tự nhiên nhất định.
Lao động xã hội quyết định đời sống con ngời, nên bản năng sinh vật đ-
ợc thu hút và hội nhập vào bản năng lao động xã hội, cái bản năng xã hội đặc
thù của con ngời.
Khi C.Mác chỉ ra rằng bản chất con ngời, trong tính hiện thực của nó, là
tổng hoà mối quan hệ xã hội thì ông không dừng lại ở bản năng sinh vật của
con ngời. C.Mác nói đến con ngời là nói đến con ngời hiện thực, nói đến bản
năng xã hội của con ngời trong mọi quan hệ của đời sống.
2. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
Quan hệ giữa cá nhân và xã hội là vấn đề có vị trí quan trọng đặc biệt
trong học thuyết của Mác. Các tác phẩm của các nhà kinh điểm Mác - Lênin
đã đề cập đến vấn đề này một cách toàn diện, sâu sắc có hệ thống trên cơ sở
chủ nghĩa duy vật lịch sử.
2.1.Khái niệm cá nhân và xã hội.
Khái niệm cá nhân chỉ con ngời cụ thể sống trong một xã hội nhất định
với t cách một cá thể, một thành viên của xã hội ấy; do những đặc điểm riêng
biệt của mình mà phân biệt với những thành viên khác của xã hội.
Xã hội bao giờ cũng do các cá nhân hợp thành, những cá nhân này sống
và hoạt động trong những nhóm, cộng đồng, tập đoàn xã hội khác nhau do
điều kiện lịch sử cụ thể quy định. Bất cứ xã hội nào cũng đợc cấu thành
không phải bởi những con ngời trừu tợng mà bởi những con ngơì cụ thể,
những cá nhân sống.
Mỗi cá nhân là một cái đơn nhất mang những đặc điểm riêng phân biệt
với các cá nhân khác không chỉ về mặt sinh học mà chủ yếu về mặt những
quan hệ xã hội, những quan hệ này vô cùng phức tạp, rất cụ thể và có tính
lịch sử. Mỗi cá nhân có đời sống riêng, có những " quan hệ xã hội" của riêng
mình không hoàn toàn giống quan hệ xã hội của các cá nhân khác, có kinh
nghiệm riêng, có nhu cầu, lợi ích, nguyện vọng riêng. Tuy nhiên, các cá nhân
trong một xã hội nhất định dù khác biệt nhau đến đâu, đều mang cái chung;
họ đều là thành viên của xã hội, đều mang bản chất xã hội, không thể sống
ngoài xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp đều do các cá nhân - thành viên
của giai cấp hợp thành. Mỗi cá nhân trong một giai cấp, vừa mang bản chất
chung của con ngời và loài ngời, vừa mang bản chất một giai cấp nhất định,
đồng thời có những đặc điểm riêng làm có cá nhân này không giống cá nhân
khác. Cần có sự phân biệt cá nhân với cá thể ngời. Một con ngời mới lọt lòng
cha có ý thức, cha có những quan hệ xã hội thật sự, cha thể gọi là một cá
nhân. Chỉ khi nào có ngời có ý thức, có thế giới nội tâm riêng, có những quan
hệ xã hội riêng, con ngời đó mới trở thành một cá nhân đúng nghĩa khái niệm
này.
2.2. Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
Trong bất cứ xã hội nào, cá nhân cũng không tách rời xã hội. Cá nhân là
hiện tợng có tính lịch sử. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội biến đổi trong sự
phát triển của lịch sử. Mối quan hệ đó trong xã hội cổ đại không giống trong
xã hội trung đại,xã hội cận đại. Điều đó không chỉ liên quan tới trình độ phát
triển của lực lợng sản xuất, trình độ văn hoá, văn minh, mà liên quan tới sự
thay đổi của phơng thức sản xuất, của hình thái kinh tế - xã hội. Chỉ khi thay
đổi hình thái kinh tế - xã hội thì quan hệ cá nhân - xã hội mới có thay đổi căn
bản.
* Trong xã hội nguyên thuỷ, quan hệ giữa cá nhân và xã hội không có
đối kháng. Lợi ích cá nhân phụ thuộc trực tiếp vào lợi ích sống còn hàng
ngày của cộng đồng. Mỗi con ngời của xã hội nguyên thuỷ cha trở thành
những cá nhân theo nghĩa đầy đủ của nó. Trong xã hội này không những lợi
ích cá nhân mà vai trò của cá nhân cũng "tan biến" trong cộng đồng.
* Đến khi xã hội phát triển sang giai đoạn mới cao hơn, xã hội phân
chia thành các giai cấp đối kháng, xuất hiện hình thái mới trong quan hệ cá
nhân - xã hội: Giữa cá nhân và xã hội vừa có thống nhất vừa có mâu thuẫn
sâu sắc. Những con ngời thuộc giai cấp bị bóc lột nh nô lệ, nông nô, vô sản
thiếu những điều kiện xã hội để trở thành những cá nhân thật sự. Mỗi con ng-
ời thuộc các giai cấp ấy không thể khẳng định cá nhân mình trên cơ sở làm
chủ hoạt động lao động cũng nh những thành quả lao động của mình. Các
thành viên giai cấp thống trị, là những con ngời mới có đặc quyền, đặc lợi đ-
ợc khẳng định với t cách cá nhân và trở thành kiểu cá nhân đặc trng của thời
đại (chẳng hạn cá nhân phong kiến, cá nhân t sản...)
* Trong xã hội t bản, giai cấp t sản nói nhiều đến cá nhân, cá tính, tự do
cá nhân..., thực chất là nói đến cá nhân t sản. C.Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ
rõ, trong lao động làm thuê, ngời vô sản mất hết cá tính. Lợi ích của giai cấp
t sản, của xã hội t bản đối lập với lợi ích của giai cấp công nhân và lợi ích
cánhân ngời công nhân.
Chủ nghĩa t bản càng phát triển càng làm cho con ngời bị tha hoá. Ngời
công nhân gánh chịu mọi hậu quả nặng nề của sự tha hoá. Kết quả hoạt động
của con ngời, của ngời công nhân, ngày càng biến thành một lực lợng thoát
ra khỏi con ngời, xa lạ với con ngời, thống trị lại con ngời, thù địch với con
ngời, lực lợng đó là t bản. Các điều kiện lao động của ngời công nhân đối lập
lại ngời công nhân. Trong những điều kiện đó, tự do của ngời lao động chỉ
mang tính hình thức, cá nhân con ngời không thể có sự phát triển hài hoà và
toàn diện. Điều kiện sống và làm việc của công nhân càng tồi tệ hơn khi họ
mất việc làm; khi đó ngời lao động càng không thể khẳng định mình với t
cách cá nhân. Chỉ khi nào các đối kháng giai cấp toàn xã hội đã bị xoá bỏ,
khi ngời lao động thực sự làm chủ các điều kiện vật chất của lao động, họ
mới thật sự trở thành ngời lao động tự do. Và cá nhân ngời lao động, với t
cách con ngời mới đợc khẳng định.
Chủ nghĩa xã hội không "thủ tiêu cá nhân" nh giai cấp sản nói, trái lại
tạo những điều kiện xã hội cần thiết cho sự phát triển toàn diện của mỗi cá
nhân, làm cho mỗi cá nhân phát huy cao độ năng lực của mình, bản sắc của
mình trong cuộc sống riêng t cũng nh xây dựng một xã hội mới nhân bản,
công bằng, văn minh, một xã hội trong đó lợi ích cá nhân và các lợi ích xã
hội không đối lập nhau mà thống nhất với nhau, là tiền đề và điều kiện của
nhau.
3. Vai trò của quần chúng và cá nhân trong lịch sử và sự nghiệp
phát triển.
Con ngời sáng tạo ra lịch sử của mình. Song vai trò quyết định đối với
sự phát triển xã hội là ở một số cá nhân đặc biệt hay quần chúng nhân dân
đông đảo?
Trớc khi chủ nghĩa Mác ra đời, triết học duy tâm và triết học duy vật
đều không hiểu đúng đắn vai trò của quần chúng và mối quan hệ giữa quần
chúng và cá nhân trong lịch sử.
Của nghĩa Mác Lênin đã chứng minh một cách khoa học vai trò
quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử và xác định đúng đắn mối
quan hệ giữa vai trò cá nhân và vai trò quần chúng trong lịch sử phát triển xã
hội.
3.1. Vai trò của quần chúng.
Quần chúng nhân dân là ngời sáng tạo chân chính của lịch sử. Vai trò
của quần chúng nhân dân thể hiện ở những mặt sau đây:
* Quần chúng nhân dân là lực lợng sản xuất cơ bản của xã hội.
Con ngời muốn sống, xã hội muốn tồn tại, thì trớc hết phải có thức ăn,
vật dùng, nhà ở... Để đáp ứng những nhu cầu đó, ngời ta phải không ngừng
sản xuất. Sản xuất vật chất là điều kiện cơ bản quyết định sự tồn tại và phát
triển của xã hội. Lực lợng sản xuất phát triển dẫn tới sự thay đổi về mặt ph-
ơng thức sản xuất và toàn bộ đời sống xã hội. Đó là cơ sở để khẳng định hoạt
động sản xuất của quần chúng là điều kiện cơ bản để quyết định sự tồn tại và
phát triển của xã hội, do đó, quần chúng nhân dân là ngời sáng tạo chân
chính ra lịch sử.
* Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của moi cuộc cách mạng xã
hội.
Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất và quan hệ
sản xuất biểu hiện thành mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng, giữa giai cấp
thống trị và giai cấp lao động, bị trị. Khi quan hệ sản xuất đã trở thành xiềng
xích của lực lợng sản xuất thì cần có các cuộc cách mạng xã hội để xoá bỏ
quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới, giải phóng lực lợng sản
xuất , hình thành phơng thức sản xuất mới cao hơn. Quần chúng nhân dân
bao giờ cũng là lực lợng cơ bản của cách mạng đóng vai trò quyết định thắng
lợi của các cuộc cách mạng. Trong các cuộc cách mạng vĩ đai làm thay đổi
hình thái kinh tế xã hội, quần chúng nhân dân tham gia đông đảo, tự giác,
tích cực thì cách mạng mới có thể giành thắng lợi. Cách mạng là ngày hội
của quần chúng, là sự nghiệp của quần chúng chứ không phải sự nghiệp riêng
của một số cá nhân.
* Quần chúng nhân dân có vai trò to lớn, không thể thay thế, trong sản
xuất tinh thần.