Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Giải pháp phòng ngừa rủi ro TTQT đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.62 KB, 59 trang )

Chuyªn §Ò thùc tËp
MỤC LỤC
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT .................................................................................... 3
Chuyªn §Ò thùc tËp
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
1. Biểu số 2.1 Tình hình thanh toán L/C nhập khẩu
2. Biểu số 2.2 Số lượng giao dịch thông báo L/C hàng xuất
3. Biểu số 2.3 Tình hình thanh toán nhập khẩu đối với BIDV bằng phương thức
nhờ thu
4. Biểu số 2.4 Kết quả hoạt động thanh toán quốc tế qua các năm

Chuyªn §Ò thùc tËp
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
L/C Thư tín dụng
NHPH Ngân hàng phát hành
NHXN Ngân hàng xác nhận
NHTB Ngân hàng thông báo
NHCK Ngân hàng chiết khấu
NHTM Ngân hàng thương mại
XNK Xuất nhập khẩu
BIDV Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
TTQT Thanh toán quốc tế

Chuyªn §Ò thùc tËp
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu hướng quốc tế hoá mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt
Nam đang dần từng bước hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới. Để quá trình công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước thành công, Đảng và nhà nước ta đã rất chú trọng
phát triển hoạt động kinh tế quốc tế, đặc biệt là ngoại thương. Chỉ có thông qua các
hoạt động kinh tế quốc tế, chúng ta mới có thể phát huy được tiềm năng thế mạnh của
đất nước, đồng thời tận dụng được vốn và công nghệ hiện đại của các nước phát triển


để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, rút ngắn khoảng cách
tụt hậu và đưa nền kinh tế nước ta hoà nhập với nền kinh tế các nước trong khu vực và
trên thế giới.
Đứng trước yêu cầu đó, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã tham gia
hoạt động thanh toán quốc tế từ năm 1993. Trải qua hơn 15 năm hoạt động, tuy còn
non trẻ, nhưng hoạt động TTQT tại BIDV đã đạt được rất nhiều thành quả, góp phần
đa dạng hoá dịch vụ, nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, mở rộng các sản
phẩm dịch vụ phục vụ khách hàng trong nước. Tuy nhiên, do còn mới mẻ, nên hoạt
động TTQT tại BIDV vẫn còn gặp không ít khó khăn, đặc biệt là vấn đề rủi ro trong
TTQT, một vấn đề gây hậu quả nghiêm trọng cho ngân hàng không chỉ về tài sản vật
chất mà cả uy tín trên trường quốc tế. Vì vậy, để đạt được mục tiêu của Ngân hàng là
“Phát triển bền vững”, một trong những nhiệm vụ quan trọng đặt ra là phải tìm ra các
giải pháp để phòng ngừa, hạn chế tối đa các rủi ro trong hoạt động TTQT. Xuất phát
từ thực tế đó, em đã chọn đề tài “ Giải pháp phòng ngừa rủi ro TTQT đối với
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” để làm chuyên đề thực tập của
mình.Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được kết cấu gồm 3 chương
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về rủi ro TTQT của Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng rủi ro TTQT đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam
Chương 3: Giải pháp phòng ngừa rủi ro TTQT đối với Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam
Ph¹m Anh Dòng - TTQTA_K7
1
Chuyªn §Ò thùc tËp
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO THANH TOÁN
QUỐC TẾ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Những vấn đề cơ bản về thanh toán quốc tế
1.1.1. Khái niệm thanh toán quốc tế:
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả về tiền tệ phát
sinh từ các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng và dịch vụ phi mậu

dịch giữa các tổ chức kinh tế quốc tế, giữa các hãng, các cá nhân của các nước
khác nhau để kết thúc một chu trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại
bằng các hình thức chuyển tiền hay bù trừ trên các tài khoản tại các ngân hàng.
1.1.2. Vai trò thanh toán quốc tế:
1.1.2.1. Vai trò của TTQT đối với sự phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại
Thanh toán quốc tế là khâu quan trọng trong quá trình mua bán, trao đổi hàng
hóa, dịch vụ giữa các tổ chức, cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau. Vì vậy nếu
không có hoạt động TTQT thì sẽ không có hoạt động kinh tế đối ngoại.
Thanh toán quốc tế là chiếc cầu nối giữa các quốc gia trong quan hệ kinh tế đối
ngoại bởi khi thiết lập mối quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ thương mại giữa các
nước với nhau thì điều quan trọng không thể thiếu là thiết lập quan hệ TTQT.
Thanh toán quốc tế thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển. Việc tổ
chức tiến hành thanh toán quốc tế nhanh chóng, an toàn và chính xác sẽ làm cho các
nhà sản xuất kinh doanh yên tâm hơn trong việc đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu.
1.1.2.2. Vai trò của hoạt động TTQT đối với ngân hàng
Ngân hàng với tư cách là một tổ chức kinh tế đặc biệt đảm nhận 3 vai trò trung
tâm lớn là : trung tâm tiền tệ, tín dụng, thanh toán. Vì vậy, để đẩy mạnh hoạt động của
ngân hàng, bổ sung hỗ trợ các hoạt động khác thì TTQT không chỉ là một dịch vụ thuần
túy mà nó còn được coi là không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Hoạt động TTQT giúp cho ngân hàng thu hút được thêm khách hàng có nhu cầu về giao
dịch, trên cơ sở đó mà ngân hàng tăng được quy mô hoạt động của mình.
Nhờ đẩy mạnh hoạt động TTQT mà ngân hàng đẩy mạnh được hoạt động tín dụng
tài trợ XNK cũng như tăng cường được nguồn vốn huy động do tạm thời quản lý được
nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp có quan hệ thanh toán qua Ngân hàng.
Ph¹m Anh Dòng - TTQTA_K7
2
Chuyªn §Ò thùc tËp
Hoạt động TTQT còn giúp cho ngân hàng phát triển các dịch vụ, đáp ứng tốt
hơn các nhu cầu của khách hàng, trên cơ sở đó ngân hàng có thể nâng cao được uy tín
và tạo niềm tin cho khách hàng. Hoạt động TTQT giúp cho ngân hàng tăng thu nhập,

tăng cường khả năng cạnh tranh và hòa nhập vào hệ thống ngân hàng thế giới.
1.1.3. Các phương thức thanh toán quốc tế
Hằng ngày các giao dịch kinh tế và phi kinh tế giữa người cư trú và người
không cư trú làm phát sinh nhu cầu thanh toán lẫn cho nhau. Thông thường người thụ
hưởng và người trả tiền không thanh toán trực tiếp cho nhau mà thông qua hệ thống
ngân hàng. Để việc thanh toán diễn ra chính xác các bên phải thỏa thuận những nội
dung, điều kiện và cách thức tiến hành chuyển tiền hoặc trả tiền thích hợp. Chính vì
vậy toàn bộ nội dung, điều kiện và cách thức để ngân hàng tiến hành chuyển tiền và
trả tiền giữa người cư trú và người không cư trú gọi là phương thức thanh toán quốc
tế.
Các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu hiện nay bao gồm :
- Phương thức ứng trước
- Phương thức ghi sổ
- Phương thức chuyển tiền
- Phương thức nhờ thu
- Phương thức tín dụng chứng từ
- Phương thức bảo lãnh
1.1.4. Cơ sở pháp lý
Để điều chỉnh các quan hệ trong nước, mỗi nước phải xây dựng cho mình một
hệ thống pháp luật riêng phù hợp với chế độ chính trị xã hội, tập quán và trình độ phát
triển. Chính vì vậy luật pháp giữa các nước thường khác nhau. Tuy nhiên, khi tham gia
các hoạt động quốc tế, các nước đều bình đẳng với nhau nên không thể dùng luật pháp
của một nước nào đó áp đặt buộc nước khác phải theo. Để giải quyết vấn đề mâu
thuẩn về luật pháp giữa các nước trong quan hệ quốc tế, người ta đã xây dựng một hệ
thống luật pháp thống nhất để điều chỉnh các hoạt động quốc tế trong đó có hoạt động
TTQT. Sau đây là những văn bản chủ yếu điều chỉnh hoạt động TTQT theo tính chất
pháp lý giảm dần :
Ph¹m Anh Dòng - TTQTA_K7
3
Chuyªn §Ò thùc tËp

1.1.4.1. Luật và các công ước tế :
- Công ước Geneve 1930 về Luật thống nhất về hối phiếu ( Uniform Law for Bill
of Exchange - ULB
- Công ước Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán quốc tế
- Công ước Liên Hợp Quốc về hối phiếu và lệnh phiếu quốc tế ( UN convention
1980)
- Công ước Geneve 1931 về séc quốc tế
- Các nguồn luật và công ước quốc tế về vận tải và bảo hiểm
- Các quyết định song phương và đa phương
1.1.4.2. Các nguồn luật quốc gia
- Bao gồm : Bộ luật dân sự, luật thương mại, luật ngoại hối, luật các công cụ
chuyển nhượng, luật thanh toán quốc tế
1.1.4.3. Thông lệ và tập quán quốc tế
- Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ ( UCP )
- Quy tắc thống nhất về nhờ thu ( URC )
- Quy tắc thống nhất về hoàn trả liên hàng ( URR)
- Điều kiện thương mại quốc tế ( INCOTERMS)
1.2. Rủi ro thanh toán quốc tế
1.2.1. Khái niệm rủi ro
Rủi ro là một hiện tượng khách quan có liên quan và có ảnh hưởng trực tiếp
hoặc gián tiếp đến mục tiêu hoạt động của con người mà con người có thể nhận biết
được nhưng con người không thể lượng hoá được những rủi ro đó xảy ra ở đâu, lúc
nào và mức độ tác động xấu đến mục đích của con người như thế nào.
1.2.2. Khái niệm rủi ro thanh toán quốc tế
Khác với thanh toán nội địa, Thanh toán quốc tế thường gắn liền với việc trao
đổi đồng tiền của nước này sang đồng tiền của nước khác. Do vậy khi ký kết các hợp
đồng thương mại, tín dụng, hay dịch vụ các bên thường đàm phán, thống nhất về loại
ngoại tệ được dùng trong giao dịch là đồng tiền của nước người bán hay của nước người
mua, hoặc cũng có thể là đồng tiền của nước thứ ba.
Ph¹m Anh Dòng - TTQTA_K7

4
Chuyªn §Ò thùc tËp
Ngoài ngoại tệ là yếu tố cơ bản không thể thiếu trong thanh toán quốc tế, một
yếu tố không kém phần quan trọng trong hoạt động này là các chứng từ. Chứng từ là
cơ sở để người thụ hưởng có quyền được đòi tiền và là căn cứ để chấp nhận nợ hoặc
từ chối nghĩa vụ chi trả của mình. Các chứng từ được tạo lập theo các luật lệ, tập quán
của mỗi quốc gia, phù hợp với thông lệ quốc tế
Phần lớn các giao dịch chi trả trong thanh toán quốc tế đều thông qua hệ thống
tài khoản tại các ngân hàng.
Với tư cách là một bên liên quan trong các hoạt động TTQT, ngân hàng cũng
giống như nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu sẽ có thể gặp phải những rủi ro gây ảnh
hưởng đến uy tín và tài sản của ngân hàng.
Vậy rủi ro TTQT là những rủi ro về kinh tế phát sinh trong quá trình
thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế, nó do các nguyên nhân phát sinh từ
quan hệ giữa các bên tham gia thanh toán quốc tế (nhà xuất khẩu, nhà nhập
khẩu, ngân hàng, các tổ chức, cá nhân và các tác nhân trung gian) hoặc những
nguyên nhân khách quan khác gây nên.
1.2.3. Phân loại rủi ro TTQT:
Rủi ro TTQT của các ngân hàng thương mại có thể được phân loại như sau:
- Rủi ro kỹ thuật (Rủi ro tác nghiệp)
- Rủi ro tín dụng
- Rủi ro ngoại hối
- Rủi ro ngân hàng đại lý
- Rủi ro pháp lý
- Rủi ro chính trị
- Rủi ro đạo đức
1.2.3.1. Rủi ro kỹ thuật (rủi ro tác nghiệp)
Đây là những rủi ro xảy ra trong quá trình thao tác nghiệp vụ TTQT. Do vậy
đây là những rủi ro mang tính chủ quan, do trình độ, kỹ năng xử lý nghiệp vụ của cán
bộ TTQT tại các ngân hàng. Các ngân hàng giữ vai trò khác nhau trong từng phương

thức TTQT, do vậy mức độ rủi ro kỹ thuật cũng khác nhau.
Ph¹m Anh Dòng - TTQTA_K7
5
Chuyªn §Ò thùc tËp
a.Trong phương thức chuyển tiền
Khách hàng (là người trả tiền) yêu cầu ngân hàng chuyển một số tiền nhất định
cho một người hưởng (người thụ hưởng) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện
chuyển tiền. Ngân hàng chỉ đóng vai trò trung gian phục vụ theo chỉ dẫn của khách
hàng.
Trách nhiệm của ngân hàng chuyển tiền là chuyển tiền theo đúng chỉ dẫn của
khách hàng. Trách nhiệm của ngân hàng trả tiền là chi trả tiền cho đúng người thụ
hưởng theo chỉ dẫn trên lệnh chuyển tiền.Nếu cán bộ của ngân hàng chuyển tiền do sơ
suất cung cấp chỉ dẫn sai dẫn đến việc ngân hàng nhận lệnh không thực hiện chi trả
cho đúng người thụ hưởng một cách kịp thời thì ngân hàng phải chịu rủi ro bồi thường
những thiệt hại về kinh tế và uy tín do người chuyển tiền khiếu nại. Việc chi trả chỉ
được thực hiện khi ngân hàng trả tiền nhận được điện chuyển tiền hoặc thư chuyển
tiền đảm bảo tính xác thực, với chỉ dẫn chi trả rõ ràng và được báo có cho khoản tiền
cần chi trả trên tài khoản của mình. Nếu ngân hàng trả tiền không kiểm tra đầy đủ hai
điều kiện trên mà đã tiến hành chi trả thì có thể gặp phải rủi ro mất tiền, do không
được báo có nhưng đã tiến hành chi trả cho người thụ hưởng, hoặc chi trả sai người
thụ hưởng và không đòi lại được từ người nhận tiền.
Để tránh được rủi ro có thể xảy ra, các ngân hàng phải nghiên cứu và sử dụng
các phương tiện thanh toán chuyển tiền bằng điện hoặc bằng thư (T/T hoặc M/T) một
cách chuẩn xác. Hiện nay, các ngân hàng thường xử dụng điện chuyển tiền để thanh
toán vì nó đáp ứng yêu cầu nhanh chóng, chính xác và bảo mật. Điện chuyển tiền có
thể bằng Swift hoặc Telex, trong đó điện Swift được sử dụng phổ biến hơn, chiếm
khoảng 90% giao dịch chuyển tiền quốc tế.
b.Trong phương thức nhờ thu
Người xuất khẩu yêu cầu ngân hàng gửi hối phiếu và chứng từ nhờ thu hộ tiền
từ người nhập khẩu. Trong phương thức này, ngân hàng chỉ đóng vai trò trung gian thu

hộ tiền, không có nghĩa vụ cam kết trả tiền. Việc nhờ thu có thể được thực hiện trên cơ
sở hối phiếu (Nhờ thu trơn-Clean Collection) hoặc bộ chứng từ (Nhờ thu kèm chứng
từ-Documentary Collection).
Ph¹m Anh Dòng - TTQTA_K7
6
Chuyªn §Ò thùc tËp
Giống như phương thức chuyển tiền, do chỉ đóng vai trò trung gian nên ngân
hàng có thể gặp phải rủi ro khi không thực hiện đúng chỉ dẫn của các bên liên quan.
Ngân hàng gửi nhờ thu (Remitting Bank) khi nhận chứng từ nhờ thu của nhà xuất
khẩu có trách nhiệm kiểm tra kỹ chỉ dẫn nhờ thu: D/P – trả ngay hay D/A - trả chậm,
người trả tiền, ngân hàng nhờ thu… Nếu thực hiện sai chỉ dẫn của khách hàng, gửi bộ
chứng từ không đúng địa chỉ, không đòi được tiền, hoặc làm thất lạc chứng từ của
khách hàng trong quá trình xử lý nghiệp vụ, ngân hàng nhờ thu phải chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hại cho người xuất khẩu.
Trong phương thức nhờ thu, khách hàng muốn thông qua ngân hàng để ràng
buộc việc nhận hàng với nghĩa vụ thanh toán của người nhập khẩu. Ngân hàng nhờ thu
được chỉ dẫn trả chứng từ nếu người nhập khẩu thanh toán bộ chứng từ D/P hoặc chấp
nhận thanh toán bộ chứng từ D/A. Ngân hàng nhờ thu có thể gặp rủi ro nếu không đọc
kỹ chỉ dẫn của bộ chứng từ nhờ thu, trả chứng từ khi chưa yêu cầu nhà nhập khẩu nộp
tiền để thanh toán bộ chứng từ D/P, hoặc thực hiện thanh toán không đúng chỉ dẫn
thanh toán (Payment Instruction) của ngân hàng nhờ thu, dẫn đến thất lạc hoặc chậm
trễ trong việc chuyển trả tiền.
c.Phương thức bảo lãnh
Thường được thực hiện dưới hai hình thức: thư bảo lãnh của ngân hàng (Letter
of Guarantee) và thư tín dụng dự phòng (Standby L/C).Trong phương thức này, ngân
hàng là người bảo lãnh, cam kết thanh toán cho người thụ hưởng một số tiền nhất định
nếu người được bảo lãnh vi phạm những nghĩa vụ đã quy định trong thư bảo lãnh hoặc
tín dụng dự phòng. Ngân hàng chỉ thực hiện cam kết của mình khi người được bảo
lãnh vi phạm nghĩa vụ của mình. Do đó không phải trong mọi trường hợp bảo lãnh,
ngân hàng đều phải thanh toán cho người thụ hưởng.

Có rất nhiều hình thức bảo lãnh quốc tế như Bảo lãnh tiền đặt cọc, bảo lãnh
thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thanh toán… Yêu cầu phát hành bảo
lãnh có thể xuất phát từ chính khách hàng, người được bảo lãnh hoặc từ một ngân
hàng. Trong trường hợp nhận được đề nghị bảo lãnh từ khách hàng, ngân hàng phải
xem xét, đánh giá năng lực tài chính, uy tín kinh doanh của khách hàng, tính khả thi
của dự án mà khách hàng để nghị bảo lãnh. Đồng thời phải có các biện pháp đảm bảo
khả năng thanh toán như ký quỹ, thế chấp bằng tài sản đảm bảo…
Ph¹m Anh Dòng - TTQTA_K7
7
Chuyªn §Ò thùc tËp
d.Phương thức tín dụng chứng từ
Là sự cam kết bằng văn bản của ngân hàng phát hành thư tín dụng đối với
người thụ hưởng thư tín dụng (nhà xuất khẩu) sẽ trả tiền (L/C trả ngay) hoặc trả vào
một thời điểm xác định trong tương lai (L/C trả chậm) tối đa tới một số tiền nếu người
thụ hưởng xuất trình bộ chứng từ hoàn toàn phù hợp với quy định của L/C. Trong
phương thức này, ngân hàng phát hành đóng vai trò là người cam kết trả tiền cho
người hưởng lợi của L/C.
Ngoài nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu, trong phương thức tín dụng chứng từ
còn có vai trò của các ngân hàng gồm ngân hàng phát hành, ngân hàng thông báo,
ngân hàng chiết khấu và ngân hàng xác nhận... Mỗi ngân hàng liên quan có những
trách nhiệm nhất định (được quy định trong Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng
chứng từ UCP 600 do ICC ban hành)
Đối với ngân hàng phát hành L/C. Ngân hàng phát hành L/C đóng vai trò
quan trọng nhất, là chủ thể đưa ra cam kết đồng thời chịu trách nhiệm (hoặc uỷ quyền
cho ngân hàng khác) thực hiện cam kết đó, thể hiện trong nội dung của L/C.
Về bản chất, hợp đồng ngoại thương là văn bản pháp lý ràng buộc trách nhiệm
của nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu; đơn đề nghị mở L/C là văn bản pháp lý ràng
buộc trách nhiệm giữa người đề nghị mở L/C (nhà nhập khẩu) và ngân hàng phát
hành, còn L/C là văn bản pháp lý ràng buộc trách nhiệm giữa ngân hàng phát hành với
người thụ hưởng (nhà xuất khẩu). Mặc dù L/C do ngân hàng phát hành nhưng nội

dung của nó về cơ bản là do nhà nhập khẩu đưa ra trong đơn đề nghị phát hành L/C.
Do vậy, trách nhiệm của ngân hàng phát hành là phải chuyển tải chính xác các yêu cầu
của đơn đề nghị mở L/C vào nội dung L/C, để đảm bảo bộ chứng từ xuất trình phù
hợp với L/C thì cũng đồng thời phù hợp với yêu cầu của nhà nhập khẩu. Có như vậy
ngân hàng mới có thể đòi bồi hoàn từ nhà nhập khẩu. Cũng vì vấn đề này, UCP đã
khuyến cáo các nhà nhập khẩu và các ngân hàng không nên đưa quá nhiều chi tiết mô
tả hàng hoá vào L/C. Việc đưa quá nhiều chi tiết kỹ thuật vào L/C một mặt không thể
giúp cho ngân hàng và nhà nhập khẩu kiểm soát được chất lượng hàng hoá thực tế,
mặt khác lại dễ gây nhầm lẫn, sai sót trong khi phát hành L/C, kiểm tra chứng từ, dẫn
đến tranh chấp giữa các bên.
Ph¹m Anh Dòng - TTQTA_K7
8
Chuyªn §Ò thùc tËp
Khi người thụ hưởng xuất trình bộ chứng từ tới ngân hàng phát hành, ngân
hàng phát hành có trách nhiệm kiểm tra bộ chứng từ để quyết định trả tiền nếu bộ
chứng từ hoàn hảo hay từ chối nếu bộ chứng từ có bất đồng. Khi kiểm tra chứng từ,
ngân hàng phát hành có thể rơi vào những tình huống sau:
- Tình huống thứ nhất: Ngân hàng phát hành trả tiền bộ chứng từ hoàn hảo
- Tình huống thứ hai: Ngân hàng phát hành từ chối trả tiền bộ chứng từ bất đồng
- Tình huống thứ ba: Ngân hàng phát hành trả tiền bộ chứng từ bất đồng
- Tình huống thứ tư: Ngân hàng phát hành từ chối trả tiền bộ chứng từ hoàn hảo.
Tình huống thứ nhất và thứ hai là hai tình huống phù hợp với quyền và trách
nhiệm của ngân hàng phát hành, do vậy không có vấn đề tranh cãi xảy ra. Tình huống
thứ ba và thứ tư là những sai sót của ngân hàng phát hành trong quá trình tác nghiệp,
dẫn đến rủi ro. Ở tình huống thứ ba, nhà nhập khẩu từ chối trả tiền cho ngân hàng phát
hành, trong khi ngân hàng phát hành đã thanh toán cho người thụ hưởng. Trong tình
huống thứ tư, người thụ hưởng sẽ kiện ngân hàng phát hành vì không thực hiện cam kết,
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài chính và uy tín của ngân hàng phát hành. Việc xác
định tình trạng bộ chứng từ là vấn đề khó khăn và phức tạp, đòi hỏi cán bộ tác nghiệp
phải có trình độ chuyên môn cao, am hiểu nghiệp vụ và thông lệ quốc tế

Đối với ngân hàng thông báo L/C: Ngân hàng thông báo L/C có trách nhiệm
kiểm tra tính chân thật bề ngoài của L/C trước khi thông báo cho người thụ hưởng
không chậm trễ theo chỉ dẫn của ngân hàng phát hành. Trong trường hợp quyết định
không thông báo L/C thì phải có ý kiến phản hồi cho ngân hàng phát hành không chậm
trễ.
Thư tín dụng là cam kết trả tiền của ngân hàng phát hành. Dựa trên cam kết đó,
nhà xuất khẩu tin tưởng giao hàng cho nhà nhập khẩu và lập bộ chứng từ đòi tiền ngân
hàng phát hành. Nếu thư tín dụng là giả mạo, thì ngân hàng phát hành hoàn toàn không
bị ràng buộc vào cam kết này và nhà xuất khẩu không thể đòi tiền từ ngân hàng phát
hành.
Có 3 hình thức giả mạo thư tín dụng: (i) ngân hàng phát hành không có thực,
(ii) Ngân hàng phát hành có thực nhưng thư tín dụng giả mạo, (iii) Thư tín dụng là có
Ph¹m Anh Dòng - TTQTA_K7
9
Chuyªn §Ò thùc tËp
thực nhưng sửa đổi giả mạo. Chính vì vậy, bằng các nghiệp vụ của mình, ngân hàng
thông báo phải có trách nhiệm kiểm tra tính chân thật bề ngoài của thư tín dụng để
tránh sự giả mạo. Ngân hàng có thể kiểm tra tính chân thật thông qua chữ ký trên thư
tín dụng (kiểm tra chữ ký uỷ quyền nếu phát hành bằng thư), bằng mã khoá (test key
nếu phát hành bằng telex…) hoặc bằng các mẫu điện đảm bảo tính xác thực (nếu phát
hành bằng Swift với các mẫu điện 700, 710, 720…).
Nếu ngân hàng đã sử dụng các biện pháp nghiệp vụ nhưng không thể xác định
được tính chân thật bề ngoài của L/C thì phải có ý kiến phản hồi cho ngân hàng phát
hành và từ chối thông báo cho người thụ hưởng. Nếu ngân hàng không kiểm tra tính
xác thực của L/C đã thông báo cho nhà xuất khẩu để nhà xuất khẩu giao hàng nhưng
không đòi được tiền do L/C bị giả mạo, nhà xuất khẩu có quyền yêu cầu ngân hàng
thông báo phải bồi thường.
Đối với ngân hàng chiết khấu/thương lượng:
Ngân hàng chiết khấu/thương lượng là ngân hàng phục vụ người thụ hưởng, có
trách nhiệm chiết khấu hoặc thương lượng bộ chứng từ do nhà xuất khẩu xuất trình.

Ngân hàng chiết khấu/thương lượng có thể được ngân hàng phát hành chỉ định trong
L/C hoặc do chính người thụ hưởng lựa chọn. Thông qua nghiệp vụ chiết khấu chứng
từ, ngân hàng đã trả một khoản tiền cho người thụ hưởng với một tỷ lệ nhất định trên
cơ sở trị giá của bộ chứng từ. Đổi lại, ngân hàng được hưởng quyền đòi tiền bộ chứng
từ từ ngân hàng phát hành.
Có hai hình thức chiết khấu là chiết khấu miễn truy đòi và có truy đòi.
Đối với hình thức chiết khấu có truy đòi, ngân hàng chiết khấu nếu không đòi được
tiền từ ngân hàng phát hành thì có quyền đòi hoàn lại số tiền đã chiết khấu từ người
thụ hưởng. Ngược lại, với hình thức chiết khấu miễn truy đòi, trong mọi tình huống,
ngân hàng chiết khấu không được phép đòi lại từ người thụ hưởng. Hình thức chiết
khấu miễn truy đòi tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn cho ngân hàng chiết khấu do vậy tỷ lệ
chiết khấu thường nhỏ hơn hình thức chiết khấu có truy đòi. Để đảm bảo cao nhất khả
năng đòi tiền từ ngân hàng phát hành, điều kiện tiên quyết là bộ chứng từ phải hoàn
toàn phù hợp với quy định của L/C.
Ph¹m Anh Dòng - TTQTA_K7
10
Chuyªn §Ò thùc tËp
Đối với ngân hàng xác nhận:
Ngân hàng xác nhận có trách nhiệm cùng với ngân hàng phát hành cam kết
thanh toán cho nhà xuất khẩu khi họ xuất trình bộ chứng từ phù hợp. Ngân hàng xác
nhận xuất hiện khi người thụ hưởng của L/C không tin tưởng vào cam kết của ngân
hàng phát hành thư tín dụng, nên đã yêu cầu một ngân hàng có uy tín và đáng tin cậy
đối với mình xác nhận L/C nói trên.
Ngân hàng xác nhận L/C cam kết với người thụ hưởng thư tín dụng về việc sẽ
thanh toán cho họ khi họ xuất trình bộ chứng từ phù hợp với L/C nếu ngân hàng phát
hành không có khả năng thanh toán. Do vậy, ngân hàng xác nhận có trách nhiệm kiểm
tra và định đoạt tình trạng bộ chứng từ do khách hàng xuất trình, nếu chứng từ phù
hợp thì tiến hành thanh toán cho người thụ hưởng và đòi bồi hoàn từ ngân hàng phát
hành.
Ngân hàng xác nhận sẽ gặp rủi ro nếu không phát hiện ra bộ chứng từ có bất

đồng vì đã thanh toán cho người thụ hưởng nhưng không đòi bồi hoàn được từ ngân
hàng phát hành. Việc ngân hàng xác nhận trả tiền cho người thụ hưởng là miễn truy
đòi, do vậy việc xác nhận L/C cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Bên cạnh rủi ro do năng lực
tài chính và uy tín của ngân hàng phát hành không tốt, ngân hàng xác nhận còn gặp
những rủi ro về nghiệp vụ. L/C do ngân hàng phát hành phát hành và có quyền định
đoạt cuối cùng đối với bộ chứng từ. Để đảm bảo an toàn cho mình, khi tiến hành xác
nhận L/C, ngân hàng xác nhận phải kiểm tra cẩn thận nội dung của L/C để chỉnh sửa
các điều khoản không rõ ràng, mâu thuẫn, bất lợi cho người thụ hưởng trong việc lập
và xuất trình một bộ chứng từ hoàn hảo. Biện pháp an toàn nhất để đảm bảo khả năng
thanh toán của ngân hàng phát hành là yêu cầu ngân hàng phát hành ký quỹ 100% trị
giá L/C. Tuy nhiên, trong điều kiện thương mại quốc tế phát triển như hiện nay, việc
ký quỹ sẽ chiếm dụng vốn của ngân hàng phát hành, do vậy các ngân hàng ít áp dụng.
Qua phân tích cho thấy, những rủi ro kỹ thuật xảy ra tại các ngân hàng phần lớn
là do trình độ của cán bộ tác nghiệp. Hậu quả của rủi ro tác nghiệp rất nghiêm trọng,
ảnh hưởng đến uy tín và tài sản của ngân hàng. Tuy nhiên các rủi ro này hoàn toàn có
khả năng phòng tránh.
1.2.3.2. Rủi ro tín dụng
Ph¹m Anh Dòng - TTQTA_K7
11
Chuyªn §Ò thùc tËp
Rủi ro tín dụng là những rủi ro phát sinh do việc cấp tín dụng cho các
bên liên quan nhưng không có khả năng đòi hoàn trả. Rủi ro tín dụng liên quan
trực tiếp đến tình hình tài chính, khả năng thanh toán của các bên. Cụ thể là:
a.Trong phương thức tín dụng chứng từ:
Đối với ngân hàng phát hành: Khi phát hành L/C, ngân hàng phát hành đã thực
hiện việc cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu vì thông thường L/C được phát hành với mức
ký quỹ dưới 100%. Nhà nhập khẩu chưa phải trả tiền nhưng đã được nhà xuất khẩu giao
hàng vì tin tưởng vào cam kết của ngân hàng phát hành. Rủi ro tín dụng đối với ngân
hàng phát hành xảy ra khi nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán hoặc bị phá sản:
Ngân hàng phát hành phải thực hiện thanh toán cho ngưòi thụ hưởng theo quy định của

L/C nhưng không có khả năng đòi hoàn trả từ nhà nhập khẩu.
Đối với ngân hàng chiết khấu: khi thực hiện chiết khấu miễn truy đòi bộ
chứng từ xuất khẩu, ngân hàng chiết khấu đã thực hiện việc mua lại quyền đòi tiền của
nhà xuất khẩu từ ngân hàng phát hành L/C. Nếu ngân hàng phát hành mất khả năng
thanh toán hoặc bị phá sản thì rủi ro tín dụng thuộc về ngân hàng chiết khấu.
Đối với ngân hàng xác nhận: Khi thực hiện việc xác nhận L/C nhưng không
yêu cầu ngân hàng phát hành ký quỹ 100% trị giá L/C, ngân hàng xác nhận có thể phải
đối mặt với rủi ro tín dụng khi ngân hàng phát hành mất khả năng thanh toán hoặc bị
phá sản.
Tóm lại, các rủi ro tín dụng là những rủi ro khách quan, do một chủ thể khác
gây ra nên rất khó phòng tránh. Những rủi ro tín dụng liên quan trực tiếp đến tình hình
tài chính, năng lực kinh doanh của các ngân hàng, các doanh nghiệp. Để phòng tránh
được các rủi ro tín dụng, cần phải xem xét, nắm vững tình hình tài chính cũng như uy
tín, khả năng thanh toán của bên đối tác để có thể ra quyết định đúng đắn. Chính vì
vậy, việc lựa chọn các khách hàng và ngân hàng nước ngoài có quan hệ tín dụng tốt là
điều vô cùng quan trọng trong quan hệ thanh toán quốc tế.
1.2.3.3. Rủi ro ngoại hối
Trong hoạt động TTQT, người xuất khẩu và người nhập khẩu ở hai nước khác
nhau nên loại tiền tệ sử dụng trong hoạt động TTQT là ngoại tệ đối với ít nhất một bên.
Khi đó sẽ xuất hiện tỷ giá hối đoái quy đổi giữa đồng ngoại tệ và đồng nội tệ.Việc lựa
Ph¹m Anh Dòng - TTQTA_K7
12
Chuyªn §Ò thùc tËp
chọn đồng tiền thanh toán trong hợp đồng ngoại thương phụ thuộc vào các yếu tố như
tương quan lực lượng của hai bên mua bán, vị trí của đồng tiền đó trên thị trường quốc
tế, tập quán sử dụng đồng tiền thanh toán trên thế giới…
Rủi ro ngoại hối liên quan đến trạng thái hối đoái mở (open position) và tỷ
giá hối đoái của một đồng tiền nhất định. Nếu như trạng thái hối đoái mở là dương
(Long position) đối với một loại ngoại tệ, mà loại ngoại tệ đó bị giảm giá thì ngân hàng
sẽ gặp rủi ro. Ngược lại, nếu trạng thái hối đoái mở là âm (short position) và loại ngoại

tệ đó lên giá thì ngân hàng cũng gặp rủi ro về tỷ giá. Tỷ giá hối đoái phụ thuộc vào
nhiều nhân tố khác nhau mà các nhân tố này thường xuyên thay đổi kéo theo sự biến
động không ngừng của tỷ giá hối đoái. Cho dù chỉ với một sự thay đổi nhỏ trong tỷ giá
hối đoái nhưng khối lượng ngoại hối lớn thì cũng sẽ dẫn đến rủi ro rất lớn, thậm chí có
thể dẫn đến tình trạng phá sản. Vì vậy các ngân hàng phải luôn tìm cách cân bằng trạng
thái hối đoái thực để hạn chế bớt những thiệt hại của rủi ro này.
1.2.3.4. Rủi ro ngân hàng đại lý:
Khi triển khai hoạt động TTQT, các ngân hàng đều coi nhiệm vụ phát triển
quan hệ đại lý ra nước ngoài là một nhiệm vụ trọng tâm, mang tính quyết định cho
việc mở cửa hoạt động của ngân hàng. Việc thiết lập và phát triển rộng rãi hệ thống
ngân hàng đại lý tạo lòng tin lẫn nhau, giúp cho các ngân hàng thực hiện nghiệp vụ
TTQT được thuận tiện, nhanh chóng, giảm chi phí trung gian.
Quan hệ đại lý thường được thiết lập trong các lĩnh vực sau:
Quan hệ tài khoản: Đây là yêu cầu tất yếu nếu một ngân hàng muốn tham gia
vào hoạt động TTQT. Để có thể thanh toán, giữa các ngân hàng phải có quan hệ tài
khoản. Tuy nhiên một ngân hàng không thể mở tài khoản tại tất cả các ngân hàng mà
mình có quan hệ thanh toán. Đứng trên góc độ một ngân hàng A, những tài khoản mà
ngân hàng đó mở tại một ngân hàng khác được gọi là tài khoản Nostro, ngược lại,
những tài khoản mà ngân hàng khác mở tại ngân hàng A được gọi là tài khoản Vostro.
Về nguyên tắc, các loại tiền tệ lưu thông trên thế giới đều được tiến hành thanh toán bù
trừ tại trung tâm thanh toán của từng loại tiền tệ đặt tại từng quốc gia. Do vậy, mỗi ngân
hàng khi tham gia hoạt động TTQT đều chọn cho mình một số ngân hàng trung gian có
uy tín của một số loại tiền tệ giao dịch chính để mở tài khoản
Quan hệ ngân hàng đại lý: Bên cạnh việc thiết lập quan hệ tài khoản, một yêu
Ph¹m Anh Dòng - TTQTA_K7
13
Chuyªn §Ò thùc tËp
cầu quan trọng khác đối với các ngân hàng là thiết lập một mạng lưới quan hệ đại lý
rộng khắp trên toàn thế giới. Ngân hàng đại lý thường là những ngân hàng phục vụ
người thụ hưởng của L/C, người trả tiền bộ chứng từ nhờ thu… Quan hệ đại lý cũng

được thể hiện thông qua việc các ngân hàng thiết lập quan hệ Swift key, Testkey, trao
đổi chữ ký uỷ quyền…. Trong mối quan hệ chặt chẽ đó, nếu một ngân hàng không
thực hiện nghĩa vụ của mình theo đúng thông lệ quốc tế, hoặc bị phá sản thì có thể làm
ảnh hưởng đến các ngân hàng đại lý của mình.
1.2.3.5. Rủi ro pháp lý:
Rủi ro pháp lý là những rủi ro liên quan đến luật điều chỉnh các hoạt động
TTQT, quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan, luật giải quyết tranh chấp khi có vấn
đề khiếu kiện phát sinh. Vấn đề pháp lý trong hoạt động TTQT cũng là một nội dung
quan trọng và rất phức tạp, do các bên liên quan trong hoạt động TTQT ở các quốc gia
khác nhau, trong điều kiện môi trường pháp lý và hệ thống luật pháp. Trong hệ thống
luật pháp điều chỉnh các hoạt động ngoại thương nói chung, hoạt động TTQT nói
riêng gồm có luật quốc tế và luật quốc gia.
Để điều chỉnh các phương tiện thanh toán đang được sử dụng rộng rãi trong
hoạt động TTQT hiện nay, luật thống nhất về Hối phiếu, Kỳ phiếu và Séc đã được ban
hành và áp dụng rộng rãi ở nhiều nước.
Luật quốc tế điều chỉnh hối phiếu và kỳ phiếu
Hối phiếu và kỳ phiếu là những công cụ TTQT được sử dụng rộng rãi, đặc biệt
là hối phiếu. Hối phiếu là tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát cho
người khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy hối phiếu hoặc đến một ngày cụ thể nhất
định, hoặc đến một ngày có thể xác định trong tương lai phải trả một số tiền nhất định
cho một người nào đó hoặc theo lệnh của người này trả cho một người khác hoặc
người cầm phiếu. Ngược lại với hối phiếu, kỳ phiếu do con nợ viết ra để cam kết trả
tiền cho người hưởng lợi. Kỳ phiếu là một tờ giấy hứa cam kết trả tiền vô điều kiện do
người lập phiếu phát ra hứa trả một số tiền nhất định cho người hưởng lợi hoặc theo
lệnh của người này trả cho người khác quy định trong kỳ phiếu.
Để thống nhất giải thích về hối phiếu và kỳ phiếu, Ủy ban Luật thương mại
Ph¹m Anh Dòng - TTQTA_K7
14
Chuyªn §Ò thùc tËp
quốc tế của Liên hiệp quốc kỳ họp thứ 15, New York đã ban hành Luật kỳ phiếu và hối

phiếu quốc tế (International Bills of Exchange and Promissory Note) số A/CN, 9/11
ngày 18/02/1982. Bên cạnh đó, trong một công ước quốc tế được ký tại Genever năm
1930 trong đó ban hành một luật điều chỉnh về hối phiếu là “Luật điều chỉnh về hối
phiếu” (Uniform Law for Bills of Exchange – ULB). Công ước này quy định rõ về hình
thức và nội dung lập hối phiếu, quyền lợi và nghĩa vụ của những người có liên quan đến
hối phiếu (người ký phát, người trả tiền, người hưởng lợi, người chuyển nhượng, người
cầm hối phiếu) và các vấn đề về chấp nhận, ký hậu, bảo lãnh hối phiếu và mang tính
chất khu vực Châu Âu.
Bên cạnh việc ban hành luật Hối phiếu và kỳ phiếu quốc tế, Ủy ban luật thương
mại quốc tế của Liên Hiệp quốc cũng đồng thời ban hành Luật về Séc quốc tế, tài liệu
số A/CN. 9/212 ngày 18/02/1982. Luật về Séc quốc tế nhằm điều chỉnh các hoạt động
liên quan đến Séc quốc tế, quyền hạn và trách nhiệm của các bên liên quan đến Séc,
việc ký phát, ký hậu, chấp nhận, bảo lãnh, thanh toán séc quốc tế.
Đối với các phương thức thanh toán quốc tế hiện nay chưa có luật quốc tế mà
mới chỉ có các tập quán quốc tế, cụ thể là:
Quy tắc thống nhất về thanh toán chứng từ nhờ thu (URC 522 Revision
1995): được Phòng thương mại Quốc tế ban hành đầu tiên năm 1956 và sửa đổi năm
1995.URC 522 bao gồm 26 điều khoản quy định rõ về các thức và cấu trúc nhờ thu,
các nghĩa vụ và trách nhiệm trong nhờ thu, thanh toán nhờ thu, lãi suất, chi phí cho
thanh toán nhờ thu.
Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (Uniform Custom
and Practice for documentary credit) do phòng thương mại quốc tế ban hành năm
1933, đã qua 6 lần sửa đổi và bản sửa đổi mới nhất năm 2007 (UCP 600-Revision
2007).Đây là cẩm nang lớn nhất cho giới kinh doanh ngoại thương trên toàn thế giới.
Mục tiêu cốt yếu của UCP là hỗ trợ thương mại quốc tế phát triển hơn, tăng cường
tính hiệu quả của phương thức tín dụng chứng từ, tránh hiểu nhầm về định nghĩa và
các cách thức tiến hành gây ra những tranh cãi và rủi ro đáng tiếc. Nội dung của
UCP 600 gồm 39 điều quy định quyền lợi và nghĩa vụ, điều chỉnh quan hệ của các
bên tham gia vào hoạt động tín dụng chứng từ, quy tắc kiểm tra chứng từ và các quy
Ph¹m Anh Dòng - TTQTA_K7

15
Chuyªn §Ò thùc tËp
định khác.
Trong quá trình thực hiện TTQT, rất nhiều ngân hàng và khách hàng có những
cách giải thích trái ngược nhau về quy định của UCP nên năm 2002, Phòng thương
mại quốc tế lại tiếp tục cho ra đời ấn phẩm International Standard Banking
Practice – ISBP (Tiêu chuẩn quốc tế về kiểm tra chứng từ). ISBP là một bộ phận đính
kèm của UCP nhằm đưa ra những cách giải thích thống nhất trong việc kiểm tra chứng
từ cho các ngân hàng và khách hàng khi tham gia hoạt động TTQT. ISBP đã góp phần
giảm các tranh cãi về bất đồng chứng từ do cách hiểu, các giải thích khác nhau của các
bên liên quan gây ra.
Quy tắc thống nhất về hoàn trả giữa các ngân hàng (Uniform Rules for
Bank to Bank – URR 525) do Phòng thương mại quốc tế ban hành năm 1995. Quy tắc
này quy định về cách thức áp dụng hoàn trả theo tín dụng chứng từ, nghĩa vụ và trách
nhiệm của các ngân hàng tham gia, hình thức và ghi chú về uỷ quyền hoàn trả, sửa đổi
uỷ quyền hoàn trả, yêu cầu hoàn trả và các cam kết hoàn trả….
Những tập quán quốc tế chỉ là những quy phạm pháp lý tuỳ ý, không bắt buộc.
Do vậy mỗi nước vận dụng các tập quán quốc tế không giống nhau. Ví dụ, UCP 600
do phòng thương mại quốc tế phát hành điều chỉnh phương thức tín dụng chứng từ.
Tuy nhiên, nếu một L/C muốn áp dụng UCP 600 thì phải dẫn chiếu đến UCP trong nội
dung của L/C. Mặt khác, các ngân hàng có thể lựa chọn áp dụng một số điều của UCP
cũng như từ chối áp dụng một số điều khác bằng việc miễn trừ trong nội dung của L/C
phát hành. Như vậy, mức độ vận dụng UCP vào thực tiễn của từng nước, từng ngân
hàng rất khác nhau, tuỳ thuộc vào hệ thống pháp luật nước đó. Luật quốc gia thông
thường tôn trọng và ít khi có đối đấu với luật hoặc tập quán quốc tế, nhưng không phải
là không có mâu thuẫn. Nếu có sự khác biệt giữa luật quốc gia và luật quốc tế thì luật
quốc gia sẽ được ưu tiên áp dụng. Quan điểm của phòng thương mại quốc tế là các tập
quán thương mại quốc tế không thể thay thế luật quốc gia, những tranh chấp nếu có tốt
nhất là để cho toà án xem xét giải quyết. Tuy nhiên trên thực tế chưa có một toà án
quốc tế đủ mạnh để áp đặt các chế tài đối với các bên liên quan.

Rủi ro pháp lý còn liên quan đến vấn đề vi phạm pháp luật của các khách hàng,
Ph¹m Anh Dòng - TTQTA_K7
16
Chuyªn §Ò thùc tËp
hoặc các ngân hàng, gây ảnh hưởng đến các đối tác. Việc ngân hàng nhận phát hành
các L/C nhập khẩu những mặt hàng bị cấm nhập khẩu hoặc chuyển các khoản tiền
không đúng mục đích, không theo quy định của chế độ quản lý ngoại hối của mỗi
nước là vi phạm pháp luật. Các khách hàng có những sai phạm trong hoạt động kinh
doanh dẫn đến việc bị truy tố trước pháp luật cũng gây ảnh hưởng trực tiếp đến các
ngân hàng trong các giao dịch TTQT.
Như vậy, những rủi ro pháp lý thường rất khó dự báo và gây hậu quả nghiêm
trọng, ảnh hưởng đến tài sản và uy tín của ngân hàng.
1.2.3.6. Rủi ro chính trị:
Tham gia vào nhiều lĩnh vực, ngành nghề, có quan hệ với nhiều đối tượng kinh
tế của nhiều quốc gia, thanh toán quốc tế chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của môi trường
kinh tế, chính trị, xã hội của các quốc gia. Một sự biến động về cơ chế quản lý kinh tế-
chính trị sẽ ảnh hưởng đến khả năng và sự sẵn sàng đáp ứng các cam kết như đã thoả
thuận của các bên. Sự suy thoái kinh tế, biến động chính trị sẽ ảnh hưởng bất lợi đến
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, và từ đó ảnh hưởng đến quá
trình thanh toán.
Rủi ro chính trị xảy ra khi môi trường pháp lý, môi trường kinh tế-chính trị của
một nước chưa ổn định, thường xuyên thay đổi. Khi một quốc gia thay đổi các chính
sách về dự trữ ngoại hối, thuế xuất nhập khẩu, tỷ giá, lãi suất… sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến hoạt động thanh toán quốc tế của các bên liên quan. Trong thực tế, những thay đổi
này thường khiến các ngân hàng, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu không thể thực hiện
cam kết của mình, làm cho quá trình thanh toán bị ngưng trệ, thậm chí huỷ bỏ gây thiệt
hại cho các bên liên quan.
Rủi ro chính trị còn liên quan đến những lệnh cấm vận của các nước đặc biệt là
lệnh cấm vận của Mỹ đối với một số nước và tổ chức. Nếu thực hiện TTQT cho những
nước nằm trong danh sách cấm vận của Mỹ bằng đồng USD qua các ngân hàng tại

Mỹ, khoản tiền thanh toán đó lập tức bị phong toả. Ngân hàng thực hiện thanh toán bị
mất tiền trong khi người thụ hưởng vẫn chưa nhận được khoản tiền mà họ được
hưởng. Đã có rất nhiều khoản tiền của nhiều ngân hàng trên thế giới bị phong toả tại
Mỹ do vi phạm các quy định cấm vận của nước này.
1.2.3.7. Rủi ro đạo đức:
Ph¹m Anh Dòng - TTQTA_K7
17
Chuyªn §Ò thùc tËp
Rủi ro đạo đức là những rủi ro khi một bên tham gia cố tình không thực hiện
đúng nghĩa vụ của mình, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên liên quan. Đây là
vấn đề quan trọng trong thương mại quốc tế, bởi vì các bên đối tác thường ở cách xa
nhau, thậm chí không hề gặp nhau trong quá trình mua bán. Do vậy có thể không nắm
rõ những thông tin về uy tín, đạo đức kinh doanh, năng lực tài chính của đối tác. Hơn
nữa, do các bên đối tác ở cách xa nhau nên điều kiện tiếp cận thường xuyên để theo
dõi, giám sát việc thực hiện nghĩa vụ gặp nhiều khó khăn. Trong điều kiện như vậy,
các rủi ro đạo đức rất dễ xảy ra gây hậu quả nghiêm trọng đối với cả khách hàng lẫn
các ngân hàng.
Trong các phương thức thanh toán chuyển tiền và nhờ thu, ngân hàng chỉ đóng
vai trò trung gian nên không bị ảnh hưởng nhiều bởi rủi ro đạo đức của các bên liên
quan. Tuy nhiên, trong phương thức tín dụng chứng từ, các hành vi đạo đức của bất kỳ
một đối tác nào đều ảnh hưởng nhiều đến các ngân hàng tham gia. Sau đây là một số
rủi ro đạo đức thường gặp trong hoạt động TTQT:
Rủi ro đạo đức của nhà xuất khẩu: Đặc điểm của phương thức tín dụng
chứng từ là việc thanh toán hoàn toàn dựa trên bề mặt chứng từ, không liên quan tới
hàng hoá. Khi nhận được một bộ chứng từ xuất trình, ngân hàng phát hành chỉ có khả
năng và trách nhiệm kiểm tra tính phù hợp của chứng từ xét trên bề mặt, mà không thể
thẩm định tính xác thực của chứng từ, càng không thể kiểm tra được tình trạng của lô
hàng nhập khẩu. Nếu nhà xuất khẩu cố tình giao hàng hoá không phù hợp với hợp
đồng hoặc không giao hàng nhưng vẫn lập một bộ chứng từ giả mạo phù hợp với quy
định của L/C để đòi tiền, ngân hàng phát hành theo cam kết phải trả tiền cho nhà xuất

khẩu trong khi nhà nhập khẩu không được nhận hàng theo đúng hợp đồng. Nhà nhập
khẩu là người gánh chịu rủi ro cuối cùng song nếu ngân hàng phát hành là người cấp
tín dụng cho nhà nhập khẩu thì rủi ro của nhà nhập khẩu cũng là rủi ro của ngân hàng.
Nếu bộ chứng từ đó đã được chiết khấu thì ngân hàng chiết khấu cũng gặp rủi ro.
Rủi ro đao đức của nhà nhập khẩu: Nhà nhập khẩu là người có nghĩa vụ
thanh toán đối với ngân hàng phát hành. Còn ngân hàng phát hành có nghĩa vụ thanh
toán cho nhà xuất khẩu. Nếu L/C đã ký quỹ 100% thì khi chứng từ phù hợp, ngân hàng
tự động trích tiền từ tài khoản ký quỹ để thanh toán. Tuy nhiên, hầu hết các trường
Ph¹m Anh Dòng - TTQTA_K7
18
Chuyªn §Ò thùc tËp
hợp L/C đều được phát hành với mức ký quỹ nhỏ hơn 100%, do vậy, ngân hàng phát
hành phải thông báo cho nhà nhập khẩu nộp tiền vào để thanh toán. Nếu nhà nhập
khẩu vì những lý do cá nhân cố tình không thanh toán thì ngân hàng phát hành bị rủi
ro phải thanh toán thay.
Rủi ro đạo đức của ngân hàng phát hành: ngân hàng phát hành cũng có thể
thông đồng với nhà nhập khẩu cố tình tìm kiếm những bất đồng của bộ chứng từ để từ
chối thanh toán cho nhà xuất khẩu. Trong nhiều trường hợp, những lỗi bất đồng đó
không phù hợp với UCP và thông lệ quốc tế, hoặc là những lỗi bất đồng đang có
nhiều ý kiến tranh cãi. Ngân hàng chiết khấu và nhà xuất khẩu có thể kiện ra Phòng
thương mại quốc tế nhưng cũng rất mất thời gian và tốn kém.
Rủi ro đạo đức của ngân hàng chiết khấu: L/C cho phép đòi tiền bằng điện có
thể bị ngân hàng chiết khấu lợi dụng đòi tiền dù bộ chứng từ có bất đồng. Khi ngân
hàng phát hành nhận được chứng từ và kiểm tra thấy bất đồng thì tiền đã thanh toán
cho ngân hàng chiết khấu rồi. Về lý thuyết, ngân hàng phát hành có quyền đòi tiền lại
từ ngân hàng chiết khấu nhưng nếu ngân hàng chiết khấu không chịu trả lại thì ngân
hàng phát hành sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn để đi khiếu kiện.
1.3. Nguyên nhân và hậu quả dẫn đến rủi ro Thanh toán quốc tế
1.3.1. Nguyên nhân khách quan:
Khách hàng trong nước gặp khó khăn kinh doanh và tài chính nên không có khả

năng thực hiện những cam kết thanh toán với ngân hàng, hoặc lợi dụng sự sơ hở,
buông lỏng trong hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng để ràng buộc ngân hàng
vào những hoạt động sai mục đích, phi pháp.
Đối tác nước ngoài không có khả năng thực hiện hợp đồng, không có thiện
chí hoặc cố tình lợi dụng lừa đảo khách hàng dẫn đến rủi ro cho cả khách hàng và
ngân hàng.
Trình độ nghiệp vụ ngoại thương của khách hàng khi tham gia thương mại
quốc tế còn thấp, nhiều khách hàng chưa có kinh nghiệm, chấp nhận ký kết những hợp
đồng có những điều kiện thanh toán bất lợi kéo theo rủi ro cho ngân hàng
Các ngân hàng đại lý cố tình không thực hiện các cam kết, nghĩa vụ của mình
hoặc vì các lý do chính trị, kinh tế .. mà không thực hiện được, gây tổn thất cho khách
Ph¹m Anh Dòng - TTQTA_K7
19
Chuyªn §Ò thùc tËp
hàng và BIDV. Rủi ro do đặc điểm của bản thân phương thức thanh toán được sử dụng
đem lại.
Hành lang pháp lý cho hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán
quốc tế nói riêng còn thiếu và có nhiều bất cập. Hiện nay chưa có một văn bản nào
điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia thanh toán quốc tế.
Các văn bản quy định về công tác xuất nhập khẩu, thuế quan, hải quan còn
chưa ổn định, thay đổi gián tiếp làm ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán quốc tế.
Thị trường ngoại tệ chưa phát triển, tỷ giá các ngoại tệ mạnh không ổn định,
các cuộc khủng hoảng kinh tế ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán quốc tế của ngân
hàng và khách hàng, đồng thời làm tăng rủi ro về ngoại hối của ngân hàng. Hơn nữa,
các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ trên thị trường chưa phát triển, chủ yếu dừng lại ở
giao dịch mua bán giao ngay (spot), các giao dịch mua bán kỳ hạn còn rất hạn chế.
1.3.2. Nguyên nhân chủ quan
Trình độ cán bộ thanh toán quốc tế còn nhiều bất cập, nhiều khi còn thiếu tinh
thần trách nhiệm, yếu kém về nghiệp vụ chuyên môn, không nắm chắc và tuân thủ quy
trình thanh toán quốc tế.

Chưa có các cơ chế thống nhất, đồng bộ để đảm bảo khả năng thanh toán như
cơ chế thành lập quỹ dự phòng rủi ro thanh toán quốc tế, cơ chế phối hợp giữa nghiệp
vụ thanh toán quốc tế và quản lý tín dụng xuất nhập khẩu.
Các hình thức dịch vụ còn đơn điệu, một chiều, chưa đa dạng hoá để giảm
thiểu, phân tán rủi ro và thu hút nguồn ngoại tệ mạnh
Công nghệ ngân hàng còn lạc hậu, chưa đồng bộ và phát triển kịp thời so với
xu thế phát triển và nhu cầu thanh toán quốc tế, làm ảnh hưởng đến tốc độ thanh toán,
gây rủi ro cho ngân hàng.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ còn thiếu tính chủ động, mới chỉ dừng lại ở việc
mua bán phục vụ từng giao dịch cụ thể, chưa thực sự kinh doanh để thu lợi nhuận và
tăng cường tính chủ động về nguồn ngoại tệ cung cấp cho các khách hàng khi phát
sinh nhu cầu về ngoại tệ.
1.3.3.Hậu quả khi phát sinh rủi ro TTQT
Rủi ro TTQT khi phát sinh sẽ có ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín và tài
Ph¹m Anh Dòng - TTQTA_K7
20
Chuyªn §Ò thùc tËp
chính của các bên liên quan. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, uy tín
của ngân hàng là vấn đề vô cùng quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của hoạt
động kinh doanh ngân hàng nói chung, hoạt động TTQT nói riêng. Nếu uy tín của
ngân hàng giảm sút, các khách hàng trong và ngoài nước sẽ không thực hiện các giao
dịch tại ngân hàng; các ngân hàng nước ngoài không lựa chọn ngân hàng đó làm đối
tác trong các giao dịch TTQT như thông báo, xác nhận, chiết khấu L/C, ngân hàng nhờ
thu hoặc ngân hàng chi trả trong hình thức chuyển tiền… Mặt khác, ngân hàng cũng
gặp khó khăn trong việc đề nghị các ngân hàng nước ngoài cung cấp các dịch vụ
TTQT cho mình, như xác nhận thư tín dụng, chiết khấu bộ chứng từ xuất trình theo L/
C do mình phát hành…
Bên cạnh những rủi ro về uy tín, các ngân hàng có thể gặp rủi ro về tài chính.
Những rủi ro về tài chính là những thiệt hại do ngân hàng phải tự thanh toán bằng tiền
của mình cho các khoản phí, tiền phạt hoặc trị giá của lô hàng khi:

+Thực hiện thanh toán sai chỉ dẫn của khách hàng dẫn đến mất tiền, hoặc bị
phạt do chậm thanh toán (ngân hàng chuyển tiền, nhờ thu…)
+Phải thanh toán thay cho khách hàng nếu ngân hàng đã thay mặt khách hàng
cam kết trả tiền cho ngưòi thụ hưởng trên cơ sở một số điều kiện nhất định nhưng
không được khách hàng hoàn trả (ngân hàng phát hành, ngân hàng xác nhận, ngân
hàng bảo lãnh…)
+Phải chịu phạt do vi phạm cam kết hoặc các nghĩa vụ (chậm thanh toán bộ
chứng từ theo L/C, từ chối bộ chứng từ do những lỗi bất đồng không hợp lệ, không
thực hiện hoàn trả đúng cam kết …)
Những rủi ro dù là về uy tín hay tài chính đều gây thiệt hại trực tiếp đến kết quả
hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Các ngân hàng cần phải đề xuất nhiều giải
pháp để phòng ngừa tốt nhất các rủi ro có thể xảy ra.
Ph¹m Anh Dòng - TTQTA_K7
21

×