Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Nghiên cứu tại Chi nhánh ngân hàng Đầu tư và phát triển Đông Đô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.72 KB, 77 trang )

Khoá luận tốt nghiệp
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các tổ chức trung gian tài chính là một bộ phận hợp thành hệ thống tài chính trong
nền kinh tế thị trường, có chức năng dẫn vốn từ người có khả năng cung ứng vốn tới
những người có nhu cầu về vốn nhằm tạo điều kiện cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội.
Và ngân hàng chính là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất trong nền kinh
tế.
Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề vốn đang là một đòi hỏi cấp bách trong sự nghiệp công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Nó đóng vai trò quyết định đối với sự tăng trưởng
và phát triển kinh tế. Một thực tế cho thấy hơn 80% lượng vốn trong nền kinh tế là do
hệ thống ngân hàng cung cấp, do đó vai trò của các ngân hàng trong hoạt động huy động
vốn cho nền kinh tế là vô cùng quan trọng. Có thể nói, ngân hàng chính là mạch máu
của nền kinh tế. Thông qua ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng đã góp
phần vào việc cung ứng vốn cho nền kinh tế quốc gia, là cầu nối giữa các doanh nghiệp
với thị trường và giúp nhà nước điều tiết nền kinh tế vĩ mô một cách hiệu quả. Hoạt
động tín dụng ngân hàng không chỉ có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung,
với các doanh nghiệp nói riêng mà còn vô cùng quan trọng đối với bản thân mỗi ngân
hàng. Nói như vậy bởi lẽ hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu,chiếm tỷ
trọng lớn nhất trong tổng tài sản và tạo nguồn thu chính đối với mỗi ngân hàng. Tuy
nhiên hoạt động này lại luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, gây tổn thất lớn thậm chí dẫn đến phá
sản ngân hàng. Chính vì lẽ đó mà “chất lượng tín dụng” là vấn đề mà bất cứ ngân hàng
nào cũng phải đặc biệt quan tâm trong mọi giai đoạn phát triển của mình để hạn chế
thấp nhất những rủi ro, tổn thất đó. Do vậy, em chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất
lượng tín dụng tại chi nhánh ngân hàng Đầu tư và Phát triển Đông Đô” để mong muốn
đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào việc giải quyết những vấn đề còn tồn
tại, những mặt chưa đạt được, ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra và nâng cao hơn
nữa chất lượng tín dụng tại chi nhánh.
1
Khoá luận tốt nghiệp
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.


Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về tín dụng ngân hàng và chất lượng tín
dụng của các ngân hàng thương mại.
Giới thiệu khái quát về chi nhánh ngân hàng Đầu tư và Phát triển Đông Đô; phân tích,
đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng tại chi nhánh từ đó chỉ ra những mặt đã đạt
được, những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân của nó.
Đề xuất các giải pháp và một số kiến nghị đối với các cơ quan chức năng nhằm nâng
cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh Đông Đô.
3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài.
Đề tài nghiên cứu đã sử dụng các phương pháp tổng hợp như: phương pháp phân
tích, chọn lọc, so sánh, phương pháp khái quát hóa và phương pháp tổng hợp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động tín dụng nhưng chỉ xét trong phạm vi
hoạt động cho vay thuần túy, không đề cập đến lĩnh vực bảo lãnh, cho thuê tài chính hay
chiết khấu.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu tại chi nhánh ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Đông Đô.
5. Kết cấu của khóa luận.
•Phần mở đầu.
•Chương I: Những vấn đề chung về tín dụng và chất lượng tín dụng của các ngân
hàng thương mại.
•Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng tại chi nhánh ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Đông Đô.
•Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Đông Đô.
•Kết luận.
2
Khoá luận tốt nghiệp
CHƯƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÍN DỤNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.

1.1. Tín dụng và vai trò của tín dụng trong nền kinh tế.
1.1.1. Khái niệm về tín dụng.
Thật khó để có thể đưa ra một định nghĩa rõ ràng về tín dụng. Thuật ngữ tín dụng
xuất phát từ chữ Latinh là “credo” có nghĩa là một sự tin tưởng, tín nhiệm lẫn nhau, hay
nói cách khác đó chính là lòng tin. Theo quan điểm của Mác thì tín dụng là sự chuyển
giao một lượng giá trị và quyền sử dụng từ người có quyền sở hữu sang người thứ hai
và sau một thời hạn nhất định sẽ nhận được lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
Lượng giá trị ở đây bao gồm: tiền, hiện vật, uy tín. Quyền sở hữu đối với một tài sản
bao gồm: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Như vậy, người thứ hai
trong quan điểm của Mác chỉ được quyền sử dụng tài sản mà không được quyền chiếm
hữu hay định đoạt tài sản đó.
Theo luật của các tổ chức tín dụng: “Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử
dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng”.
Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam thì tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau trên
cơ sở có hoàn trả cả gốc và lãi.
Trong thực tế cuộc sống, thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau;
ngay cả trong quan hệ tài chính, tùy theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có
một nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính tín dụng có thể được hiểu theo theo các
nghĩa sau:
- Tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ cho vay từ người thặng dư tiết
kiệm sang người thiếu hụt tiết kiệm.
- Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở
có hoàn trả giữa hai chủ thể. Chẳng hạn giao dịch giữa ngân hàng với khách hàng là cá
nhân hay doanh nghiệp thể hiện dưới hình thức cho vay, tức là ngân hàng cấp tiền vay
3
Khoá luận tốt nghiệp
cho bên đi vay và sau một thời hạn nhất định người đi vay phải thanh toán cả vốn gốc
và lãi. Một thí dụ khác như: một công ty chấp nhận ban hàng trả trậm cho khách hàng
thì người bán sẽ chuyển giao hàng hóa cho bên mua trước và sau đó bên mua sẽ trả tiền
cho bên bán như trong thỏa thuận.

- Tín dụng còn có nghĩa là số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp cho
khách hàng.
- Trong một só ngữ cảnh cụ thể, thuật ngữ tín dụng đồng nghĩa với thuật ngữ cho
vay.
Để khắc phục nhược điểm của hình thức cấp tín dụng trực tiếp giữa người thừa vốn
cần đầu tư và người thiếu vốn cần sử dụng, các trung gian tài chính nói chung và các
ngân hàng thương mại nói riêng đã ra đời với vai trò chính là huy động, tập trung tất cả
những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để đầu tư và cho vay… Việc các ngân
hàng tập trung vốn dưới hình thức huy động và phân phối vốn dưới hình thức cho vay
được gọi là tín dụng ngân hàng. Có thể nói, tín dụng là một chức năng cơ bản của ngân
hàng. Vì vậy, trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín dụng
được hiểu như sau: Tín dụng là một giao dịch về tài sản giữa bên cho vay (ngân hàng và
các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác),
trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn
nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và
lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn
trả và có các đặc trưng sau:
- Đặc trưng đầu tiên cần phải nói đến đó chính là sự tín nhiệm. Tín dụng thực chất
là sự cung cấp một lượng giá trị dựa trên cơ sở lòng tin. Ở đây, người cho vay tin tưởng
người đi vay sẽ sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả, có khả năng trả nợ và có
thiện chí trả nợ ngân hàng trong tương lai khi hợp đồng tín dụng đến hạn.
4
Khoá luận tốt nghiệp
- Thứ hai, tín dụng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị có thời hạn. Thời hạn vay
là một trong những nội dung không thể thiếu trong bất cứ một hợp đồng tín dụng nào.
Việc xác định thời hạn cho vay phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất, kinh doanh, chu kỳ luân
chuyển vốn, thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và
nguồn vốn ngân hàng sử dụng để cho vay. Nói một cách rõ ràng hơn: thời hạn cho vay
phải phù hợp với chu kỳ luân chuyển vốn của khách hàng vay thì lúc đó người vay mới

có khả năng trả nợ ngân hàng. Nếu thời hạn cho vay ngắn hơn thì khách hàng sẽ không
có nguồn để trả nợ ngân hàng, điều này sẽ gây khó khăn cho đối tượng vay. Nhưng nếu
khách hàng có nguồn thu nhập khác ngoài nguồn thu chính thì có thể thu nợ từ nguồn
đó, trong trường hợp này thì thời hạn cho vay có thể ngắn hơn chu kỳ luân chuyển vốn
của khách hàng. Ngược lại nếu dài hơn sẽ tạo điều kiện để khách hàng sử dụng vốn sai
mục đích, không có nguồn trả nợ trong tương lai. Việc xác định thời hạn cho vay còn
phụ thuộc vào tính chất nguồn vốn của ngân hàng. Nếu nguồn vốn cho vay ổn định thì
thời hạn cho vay có thể dài hơn, ngược lại thời hạn cho vay phải ngắn hơn để đảm bảo
khả năng thanh toán của ngân hàng. Theo Quyết định số 1627/2001/NHNN thời hạn cho
vay đối với các pháp nhân Việt Nam và nước ngoài không quá thời hạn hoạt động còn
lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép hoạt động tại Việt Nam. Đối với cá nhân
nước ngoài, thời hạn cho vay không vượt quá thời hạn được phép sinh sống, hoạt động
tại VIệt Nam.
- Thứ ba là tính hoàn trả. Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị
trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Đây là thuộc tính riêng có của nghiệp vụ tín
dụng. Vì vốn cho vay của ngân hàng là vốn huy động của những người tạm thời thừa
vốn nên sau một khoảng thời gian nhất định theo thỏa thuận ngân hàng phải trả lại cho
người ký thác. Mặt khác, ngân hàng cũng cần phải có nguồn để bù đắp chi phí hoạt
động như: khấu hao tài sản cố định, trả lương cán bộ nhân viên… nên người vay vốn
ngoài việc trả nợ gốc còn phải trả cho ngân hàng một khoản lãi. Trong quan hệ tín dụng
ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Điều này có
5
Khoá luận tốt nghiệp
nghĩa là bên đi vay phải hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Các cam kết này được thể hiện trên những văn bản xác định quan hệ tín dụng như: hợp
đồng tín dụng, khế ước…
1.1.2. Phân loại tín dụng ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng rất đa dạng và phong phú với nhiều
hình thức khác nhau. Để sử dụng và quản lý có hiệu quả thì phải tiến hành phân loại tín
dụng. Ngân hàng thương mại với chức năng chính là huy động vốn để cho vay, do đó

phải tiến hành phân loại tín dụng để cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn từ đó giúp
cho quá trình quản lý điều hành ngày càng có hiệu quả. Ngoài ra việc phân loại tín dụng
còn tạo tiền đề giúp ngân hàng thiết lập quy trình tín dụng thích hợp với từng đối tượng,
đồng thời giúp ngân hàng nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng.
Có rất nhiều tiêu thức khác nhau để tiến hành phân loại tín dụng ngân hàng:
1.1.2.1. Theo thời hạn tín dụng.
- Tín dụng ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn đến 12 tháng và được sử dụng để
bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn
của các cá nhân. Vì thời hạn của khoản vay ngắn nên rủi roc ho ngân hàng cũng thấp.
Cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng doanh số cho vay của ngân hàng.
- Tín dụng trung hạn: Loại cho vay này có thời hạn từ trên 12 tháng đến 60 tháng.
Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến
hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới
có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Rủi ro trong tín dụng trung hạn không
cao vì ngân hàng có khả năng dự đoán trước những biến động có thể xảy ra.
- Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm được cung cấp để đáp
ứng những các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, thiết bị, phương tiện vận tải có quy
mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới. Loại tín dụng này có mức độ rủi ro lớn nhất vì
trong thời hạn dài, ngân hàng không thể lường trước được những biến động có thể xảy
ra trong tương lai.
6
Khoá luận tốt nghiệp
1.1.2.2. Theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng.
Đối với mỗi khách hàng khác nhau, ngân hàng thường yêu cầu các điều kiện đảm
bảo cho khoản vay khác nhau. Tùy theo mức độ tín nhiệm và uy tín của khách hàng mà
ngân hàng có thể cung cấp các khoản vay có đảm bảo hay không có đảm bảo. Căn cứ
vào tiêu thức này có các loại tín dụng sau:
- Tín dụng có bảo đảm: Là hình thức cấp tín dụng có tài sản hoặc người bảo lãnh
đứng ra làm đảm bảo cho khoản nợ vay. Hình thức này thường áp dụng đối với những
khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng. Mức độ rủi ro của tín dụng có đảm

bảo thấp, tuy nhiên vẫn không thể loại bỏ được hoàn toàn rủi ro cho ngân hàng.
- Tín dụng không có đảm bảo: Là loại tín dụng không có tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chủ yếu chỉ dựa vào uy tín của bản
thân khách hàng. Đối với loại tín dụng này ngân hàng sẽ gặp rủi ro rất cao thậm chí là
mất trắng nếu nhân viên tín dụng đánh giá sai về khách hàng của mình.
1.1.2.3. Theo xuất sứ tín dụng
- Tín dụng trực tiếp: Là hình thức cấp tín dụng trong đó ngân hàng trực tiếp cấp vốn
cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
Trong tín dụng trực tiếp, rủi ro của ngân hàng thấp hơn vì ngân hàng trực tiếp gặp gỡ,
tiếp xúc với khách hàng từ đó có cái nhìn trực quan hơn về khách hàng, đánh giá được
uy tín, khả năng tài chính… của khách hàng từ đó đưa ra quyết định đúng đắn hơn.
- Tín dụng gián tiếp: Là hình thức cấp tín dụng được thực hiện thông qua việc mua
lại các khế ước hay các chứng từ nợ đã phát sinh và còn thời hạn thanh toán của khách
hàng. Ngược lại với tín dụng trực tiếp, tín dụng gián tiếp thường đem lại rủi ro cao hơn
cho ngân hàng vì ngân hàng không có đầy đủ thông tin về con nợ do đó có nhiều khoản
tín dụng được cấp ra không chính đáng. Tuy nhiên, với hình thức tín dụng gián tiếp này,
giúp ngân hàng tăng nhanh doanh số cho vay, tiết kiệm được chi phí trong cho vay.
1.1.2.4. Theo phương pháp hoàn trả.
Dựa vào căn cứ này nghiệp vụ tín dụng ngân hàng bao gồm các loại sau:
7
Khoá luận tốt nghiệp
- Tín dụng trả góp: Là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo
định kỳ. Loại cho vay này chủ yếu được áp dụng đối với cho vay bất động sản, nhà ở
thương mại, cho vay tiêu dùng, cho vay đối với những người kinh doanh nhỏ, cho vay
để mua sắm máy móc thiết bị.
- Tín dụng phi trả góp: Là loại tín dụng được thanh toán một lần theo kỳ hạn đã thỏa
thuận, thường áp dụng đối với cho vay vốn lưu động.
- Tín dụng hoàn trả theo yêu cầu: Là loại tín dụng không có thời hạn cụ thể. Ngân
hàng có thể yêu cầu hoặc người đi vay có thể tự nguyện trả trả nợ bất cứ lúc nào khi có
thu nhập, nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý, thời gian này có thể được thỏa

thuận trong hợp đồng.
1.1.2.5. Theo mục đích sử dụng vốn vay.
Ngân hàng cần thiết lập chính sách quản lý riêng đối với mỗi loại vay có mục đích
khác nhau. Dựa vào tiêu thức này, tín dụng thường được chia thành các loại sau:
- Cho vay bất động sản: Là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất
động sản như: nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch
vụ. Đây là loại hình cho vay đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài và
chứa đựng rất nhiều rủi ro do đó, lãi suất cho vay trong lĩnh vực này thường cao, lợi
nhuận thu được tương đối lớn.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: Là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu
động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại. Đây là loại hình
cho vay phổ biến và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh số cho vay của các ngân hàng
thương mại, thu hút được rất nhiều đối tượng có nhu cầu về vốn.
- Cho vay nông nghiệp: Là loại cho vay để trang trải các khoản chi phí sản xuất như
phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu… Đối
tượng vay ở đây chủ yếu là các hộ nông dân, hợp tác xã… Cho vay nông nghiệp mang
tính thời vụ, vụ mùa trong sản xuất nông nghiệp quyết định thời điểm cho vay cũng như
8
Khoá luận tốt nghiệp
thu nợ của ngân hàng. Ở Việt Nam cho vay nông nghiệp thường tập trung tại ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông Thôn.
- Cho vay các định chế tài chính: Bao gồm cấp tín dụng cho các ngân hàng, công ty
tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định chế tài
chính khác. Loại hình cho vay này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng doanh số cho vay của
các ngân hàng.
- Cho vay cá nhân: Là loại cho vay đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật
dụng đắt tiền, và các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đởi sống
thông qua phát hành thẻ tín dụng. Mức độ rủi ro trong hình thức cho vay này cao, lãi
suất cho vay cá nhân thường cao hơn so với lãi suất cho vay công nghiệp và thương mại.
- Cho thuê: Cho thuê của các định chế tài chính bao gồm hai loại: cho thuê vận hành

và cho thuê tài chính. Tài sản cho thuê bao gồm động sản và bất động sản trong đó chủ
yếu là máy móc thiết bị.
1.1.3. Vai trò của tín dụng trong nền kinh tế.
1.1.3.1. Đối với bản thân mỗi ngân hàng.
Như chúng ta cũng biết, tín dụng ngân hàng chiếm tỷ trọng trên 60% quy mô tổng tài
sản của ngân hàng, là hoạt động kinh doanh chủ yếu và tạo ra nguồn thu chính cho ngân
hàng thương mại. Một ngân hàng mà hoạt động tín dụng yếu thì khó có thể cạnh tranh
và phát triển bền vững được. Hoạt động tín dụng ngân hàng tạo cơ sở vững chắc cho
ngân hàng trong việc đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ, giúp cải thiện nguồn thu nhập
và phân tán rủi ro. Một khách hàng ngoài việc có quan hệ tín dụng với ngân hàng còn có
thể sử dụng các sản phẩm, dịch vụ khác của ngân hàng khi có nhu cầu giúp tạo nguồn
thu bổ sung (phí, tiền trong thanh toán…) cho ngân hàng.Thông qua việc tìm hiểu về
các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, các ngân hàng còn có điều kiện để phát triển dịch
vụ tư vấn cho khách hàng, tăng cường uy tín và hình ảnh của ngân hàng, giúp ngân hàng
dễ dàng hơn trong việc huy động vốn trong dân chúng, tạo đà cho ngân hàng tồn tại và
phát triển bền vững.
9
Khoá luận tốt nghiệp
1.1.3.2. Đối với khách hàng của ngân hàng.
Hoạt động tín dụng ngân hàng giúp khách hàng thỏa mãn được các nhu cầu cần
thiết, cấp bách ngay cả khi chưa có đủ tiền. Chẳng hạn như trong cho vay tiêu dùng,
thông qua quan hệ vay mượn ngân hàng, khách hàng có thể thoả mãn nhu cầu tiêu dùng
trong điều kiện chưa tích lũy đủ như: mua nhà,mua ôtô, đi du lịch, chi phí chi tiêu cho y
tế, giáo dục để nâng cao chất lượng cuộc sống. Hay như trong tín dụng doanh nghiệp,
khách hàng là các doanh nghiệp có thể có đủ vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, xây
dựng những công trình mới, mua máy móc, thiết bị, vật tư, đáp ứng các nhu cầu về vốn
lưu động hay vốn cố định của khách hàng, giúp cải thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Hay như trong nghiệp vụ bảo
lãnh, mặc dù ngân hàng không trực tiếp cấp vốn nhưng khách hàng vẫn được hưởng
những thuận lợi về ngân quỹ như đi vay thực sự…

1.1.3.3. Vai trò của hoạt động tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Một thực tế cho thấy trong xã hội luôn có một số người thừa vốn cần đầu tư và một
số người thiếu vốn muốn đi vay. Song những người này khó có thể trực tiếp gặp nhau
để cho nhau vay. Hoặc nếu có thể gặp nhau thì tốn kém rất nhiều thời gian và chi phí.
Các ngân hàng ra đời là cầu nối giữa người có vốn và người cần vốn đã khắc phục được
những nhược điểm của hình thức cấp tín dụng trực tiếp nêu trên. Nghĩa là ngân hàng thu
hút tập trung mọi nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, dân cư để
đầu tư cho quá trình mở rộng sản xuất, tăng trưởng kinh tế, đáp ứng đầy đủ nhu cầu
vốn, thúc đẩy lưu thông hàng hóa, tăng tốc độ chu chuyển vốn cho xã hội, góp phần
thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển bền
vững.
Mặt khác, tín dụng ngân hàng còn là công cụ tài trợ cho những ngành kinh tế trọng
điểm, mũi nhọn theo chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Các ngân hàng luôn
bám sát chương trình, mục tiêu và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và
10
Khoá luận tốt nghiệp
của ngành để vừa đẩy mạnh cho vay đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn cho sản xuất kinh
doanh, vừa đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn cho đầu tư mở rộng, nâng cao năng
lực sản xuất của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Chú trọng đầu tư vào
các ngành mũi nhọn, sản phẩm chủ lực của đất nước.
Một thực tế cho thấy, Việt Nam đang trong tiến trình thực hiện Công nghiệp hóa -
Hiện đại hóa đất nước, nhưng do thị trường vốn của nước ta vẫn chưa phát triển (thị
trường chứng khoán vẫn còn non trẻ và nhiều biến động) ngân hàng giữ vai trò chủ yếu
trong việc tạo vốn cho quá trình Công nghiệp hóa -hiện đại hóa nền kinh tế. Cơ cấu tín
dụng nước ta đã có sự thay đổi theo hướng mở rộng tín dụng trung, dài hạn để xây dựng
cơ sở hạ tầng của thành phố (đẩy mạnh quá trình Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa tại tất
cả các ngành, hỗ trợ tích cực quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố theo
hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp tạo tiền đề cho quá trình chuyển sang cơ cấu
kinh tế dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp vào giai đoạn 2006 - 2010.

Góp phần ổn định và điều hòa lưu thông tiền tệ.
Thông qua tín dụng ngân hàng, có thể kiểm soát được khối lượng tiền cung ứng
trong lưu thông, thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Khi các ngân hàng thương mại mở
rộng tín dụng sẽ dẫn tới tình trạng khối lượng tiền mặt trong lưu thông tăng lên (điều
này đặc biệt có ý nghĩa khi nền kinh tế rơi vào tình trạng giảm phát). Ngược lại, việc thu
hẹp khối lượng tín dụng sẽ giảm khối lượng tiền trong lưu thông, việc thắt chặt tiền tệ
này giúp nền kinh tế có thể thoát khỏi tình trạng lạm phát cao. Như những tháng đầu
năm 2008, khi lạm phát nước ta lên tới mức hai con số, để giảm lượng tiền mặt trong
lưu thông các ngân hàng ngoài việc tăng lãi suất huy động bù lạm phát để thu hút luồng
tiền gửi của dân cư, còn hạn chế cấp tín dụng cho khách hàng.
Hoạt động tín dụng thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại.
Hoạt động tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế,
giúp ổn định giá trị tiền tệ, nâng cao cơ sở hạ tầng xã hội… từ đó tạo môi trường thuận
lợi để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Nhất là khi Việt Nam đang trong quá
11
Khoá luận tốt nghiệp
trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới như ngày nay thì việc các nhà đầu tư
nước ngoài đầu tư vào nước ta là một khả năng rất dễ thấy.
Việt Nam hiện nay đã tham gia vào các tổ chức tài chính quốc tế như WB, IMF…và
cũng có đại lý ngân hàng tại các nước khác nhau trên thế giới. Các đơn vị cần vốn
không chỉ có thể vay vốn tại các tổ chức tín dụng trong nước mà còn có thể vay từ các
tổ chức tín dụng quốc tế. Như vậy, tín dụng ngân hàng tạo điều kiện mở rộng quan hệ
kinh tế với nước ngoài, là cầu nối cho việc giao lưu kinh tế và là phương tiện để thắt
chặt mối quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới.
Tín dụng ngân hàng còn thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường chế độ hạch toán
kinh doanh, giúp các doanh nghiệp khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng trong hoạt động
kinh doanh của mình.
Để có thể hoàn trả đúng hạn cho ngân hàng và nhận lại tài sản đảm bảo, đòi hỏi các
đơn vị kinh tế khi sử dụng nguồn vốn vay ngân hàng phải quan tâm đến hiệu quả hoạt
động của mình đủ bù đắp chi phí và có lãi. Các doanh nghiệp phải khai thác triệt để mọi

tiềm năng hay nguồn lực của mình để tiết kiệm chi phí, tránh lãng phí không cần thiết,
tăng lợi nhuận. Các doanh nghiệp phải hạch toán đầy đủ, cụ thể, chi tiết tất cả mọi
nghiệp vụ phát sinh trong kinh doanh đảm bảo minh bạch, tránh thất thoát, quản lý chặt
chẽ dòng tiền vào, ra khỏi đơn vị. Áp lực trả nợ cho ngân hàng đã thúc đẩy các doanh
nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả hơn, đảm bảo tăng trưởng và phát triển bền vững.
1.2. Vấn đề chất lượng tín dụng.
1.2.1. Quan niệm về chất lượng tín dụng.
Để hiểu về chất lượng tín dụng thì trước hết chúng ta phải hiểu chất lượng là gì.
Chất lượng là một phạm trù triết học biểu thị những thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ
rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối của sự vật để phân biệt nó với các sự vật khác.
Chất lượng là đặc tính khái quát của sự vật, chất lượng biểu hiện ra bên ngoài qua các
thuộc tính. Sự vật trong khi vẫn còn là bản thân nó thì không thể mất chất lượng của nó.
Sự thay đối chất lượng kéo theo sự thay đổi của sự vật và về căn bản chất lượng của sự
12
Khoá luận tốt nghiệp
vật bao giờ cũng gắn liền với tính quy định ấy. Mỗi sự vật bao giờ cũng là sự thống nhất
của chất lượng và số lượng.
Trong nền kinh tế thị trường, một sản phẩm, dịch vụ có chất lượng khi nó phù hợp
với những tiêu chuẩn về kỹ thuật và quan trọng hơn cả là nó phải đáp ứng được nhu cầu
của người tiêu dùng và được người tiêu dùng chấp nhận. Chất lượng thường được đánh
giá thông qua tiêu chuẩn ISO. Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hóa ISO định nghĩa: “Chất
lượng là tổng thể các đặc điểm và đặc tính của một sản phẩm hoặc dịch vụ có ảnh
hưởng đến khả năng của nó thỏa mãn được những nhu cầu nêu ra”.
Từ những quan niệm chung về chất lượng, đồng thời căn cứ vào đặc điểm, tính chất
của hoạt động tín dụng ngân hàng, ta có thể thấy chất lượng tín dụng là một khái niệm
vừa cụ thể, vừa trừu tượng, vừa định tính, vừa định lượng, nó phản ánh khả năng thỏa
mãn các nhu cầu của các chủ thể tham gia vào quan hệ tín dụng ngân hàng. Những chủ
thể đó là: khách hàng, ngân hàng cấp tín dụng và nền kinh tế xã hội nói chung.
Đối với khách hàng của ngân hàng: Một giao dịch tín dụng được coi là chất lượng
khi giao dịch đó phù hợp với mục đích và yêu cầu của họ như: thủ tục cấp tín dụng

nhanh chóng, kịp thời; lãi suất cạnh tranh được với các ngân hàng khác và phù hợp với
khả năng tạo nguồn thu nhập trả nợ lãi của khách hàng; giải ngân đúng tiến độ; quy mô
tín dụng đáp ứng nhu cầu sử dụng…
Đối với bản thân ngân hàng: Khoản tín dụng được coi là có chất lượng khi ngân
hàng có thể thu hồi vốn gốc và lãi như trong hợp đồng tín dụng hay khoản tín dụng đó
không có rủi ro; quy mô và thời hạn trong hợp đồng tín dụng phải phù hợp với khả năng
và tính chất nguồn vốn của ngân hàng.
Đối với nền kinh tế: Hoạt động tín dụng có chất lượng khi nó thực hiện được các
mục tiêu, chính sách của nhà nước: Cân bằng cung cầu trên thị trường tiền tệ, phục vụ
sản xuất và lưu thông hàng hóa, giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống cho
người lao động, khai thác khả năng tiềm tàng của nền kinh tế…
1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng.
13
Khoá luận tốt nghiệp
Đất nước ta đang trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa tạo đà
phát triển thành nước công nghiệp vào năm 2020. Vì vậy nền kinh tế đòi hỏi lượng vốn
lớn, là cơ sở và điều kiện cho hoạt động tín dụng của ngân hàng phát triển.
Như chúng ta cũng biết, trong hoạt động của ngân hàng thì hoạt động tín dụng là
một trong những hoạt động tạo ra giá trị cho ngân hàng. Hoạt động tín dụng là nghiệp
vụ kinh doanh chủ yếu của hệ thống ngân hàng thương mại nước ta, nó mang lại phần
lớn thu nhập cho mỗi ngân hàng song rủi ro của nó cũng là rất lớn. Rủi ro tín dụng cao
quá mức sẽ hủy hoại giá trị của ngân hàng và có thể dẫn đến phá sản. Do đó, đứng trước
những thời cơ và thách thức của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế thì vấn đề nâng cao
khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam với các ngân hàng thương
mại nước ngoài mà trước mắt là nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thiểu rủi ro đã trở
nên cấp thiết đối với hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Trong bối cảnh hội nhập, cạnh tranh, đảm bảo hài hòa giữa tăng trưởng và chất
lượng tín dụng là thách thức lớn cho các ngân hàng. Nó không chỉ phản ánh khả năng
đáp ứng vốn cho doanh nghiệp mà còn thể hiện kết quả kinh doanh của bản thân ngân

hàng. Đảm bảo chất lượng tín dụng sẽ đem lại lợi ích cho cả ngân hàng, khách hàng và
nền kinh tế.
Xét riêng về phía ngân hàng, việc nâng cao chất lượng tín dụng sẽ đem lại những lợi
ích sau:
- Thứ nhất, nâng cao chất lượng tín dụng làm tăng khả năng sinh lời từ các sản phẩm
dịch vụ ngân hàng. Khi khách hàng và ngân hàng có mối quan hệ tốt, thường xuyên, tin
cậy trong hoạt động tín dụng sẽ thu hút khách hàng sử dụng các sản phẩm dịch vụ khác
của ngân hàng khi có nhu cầu. Như vậy hoạt động tín dụng của ngân hàng có chất lượng
tốt không chỉ làm tăng lợi nhuận của bản thân lĩnh vực tín dụng mà còn làm tăng lợi
nhuận ngân hàng trong các sản phẩm, dịch vụ khác.
14
Khoá luận tốt nghiệp
- Thứ hai, việc nâng cao chất lượng tín dụng sẽ đảm bảo an toàn trong kinh doanh
ngân hàng. Hoạt động tín dụng đem lại lợi nhuận cao nhưng đồng thời cũng tiềm ẩn rủi
ro lớn. Rủi ro và lợi nhuận luôn tỷ lệ thuận với nhau. Lợi nhuận càng cao thì rủi ro mà
ngân hàng phải gánh chịu sẽ càng lớn. Vì vậy nâng cao chất lượng tín dụng sẽ giảm
thiểu rủi ro và đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, đảm bảo ngân
hàng phát triển bền vững trong tương lai.
- Thư ba, nâng cao chất lượng tín dụng tạo uy tín cho bản thân ngân hàng. Hoạt động
tín dụng có chất lượng tốt, lợi nhuận của ngân hàng tăng, khả năng tài chính của ngân
hàng tăng, vốn tự có tăng nhanh, khả năng thanh toán chi trả được đảm bảo, ngân hàng
có điều kiện áp dụng những thiết bị công nghệ mới…nâng cao được vị thế của ngân
hàng trên thị trường.
Có thể nói, việc nâng cao chất lượng tín dụng vô cùng cần thiết đối với mỗi ngân
hàng. Chính vì lẽ đó, vấn đề này luôn được các ngân hàng quan tâm và có những giải
pháp cụ thể đối với bản thân của mỗi ngân hàng đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa tăng
trưởng và chất lượng tín dụng.
1.2.3. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng tại các ngân hàng.
1.2.3.1. Tỷ lệ nợ quá hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn =

Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN, “nợ quá hạn” là khoản nợ mà một phần
hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn.
Các trường hợp chuyển sang nợ quá hạn như sau:
- Đến hạn trả nợ mà khách hàng không chủ động trả hay trên tài khoản tiền gửi
không có tiền, hay không đủ tiền để thu nợ, nếu là do chủ quan của khách hàng thì ngân
hàng tiến hành chuyển khoản nợ đó sang nợ quá hạn.
15
Khoá luận tốt nghiệp
- Nếu khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, ngân hàng sẽ tiến hành thu hồi nợ trước
hạn. Nếu khách hàng không có đủ tiền trả, ngân hàng sẽ chuyển nợ đó sang nợ quá hạn.
- Sau khi kiểm tra đảm bảo nợ vay, bộ phận vay không có vật tư làm đảm bảo thì
ngân hàng yêu cầu bổ sung tài sản đảm bảo hoặc thu hồi nợ phần thiếu đảm bảo. Nếu cả
hai phương thức trên đều không thực hiện được ngân hàng sẽ chuyển sang nợ quá hạn.
Mức lãi suất áp dụng đối với khoản nợ gốc quá hạn do tổ chức tín dụng ấn định và
thỏa thuận với khách hàng trong hợp đồng tín dụng nhưng không vượt quá 150% lãi
suất cho vay áp dụng trong thời hạn cho vay đã được ký kết hoặc điều chỉnh trong hợp
đồng.
Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn phản ánh tỷ lệ phần trăm giữa khoản dư nợ tín dụng được
cấp ra nhưng không thu hồi được một phần hoặc toàn bộ nợ gốc hoặc lãi khi đến hạn so
với tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng tại một thời điểm. Để đánh giá, xem xét chất
lượng tín dụng của một ngân hàng thì điều đầu tiên là phải xem xét đến nợ quá hạn của
ngân hàng đó. Tỷ lệ nợ quá hạn tỷ lệ nghịch với chất lượng tín dụng ngân hàng. Tỷ lệ
nợ quá hạn càng thấp thì chất lượng tín dụng càng cao và ngược lại. Các ngân hàng luôn
đặt ra mục tiêu là không có tỷ lệ nợ quá hạn nhưng thực tế để làm điểu này là không thể.
Tuy nhiên, sử dụng chỉ tiêu này các ngân hàng cần phải thận trọng xác định kỳ hạn như
thế nào được coi là quá hạn.
1.2.3.2. Tỷ lệ nợ xấu.
Tỷ lệ nợ xấu =
Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ngày

22/4/2005 của Thống đốc NHNN, “nợ xấu” là các khoản nợ thuộc các nhóm 3,4,5.
Nợ nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn): Nhóm nợ này bao gồm: các khoản nợ quá hạn từ
90 đến 180 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời
16
Khoá luận tốt nghiệp
hạn đã cơ cấu lại, các khoản nợ khác được phan loại vào nhóm 3 theo quy định tại
khoản 3 và khoản 4 Điều 4.
Nợ nhóm 4 (nợ nghi ngờ): Nhóm nợ này bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến
360 ngày, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày theo thời
hạn đã cơ cấu lại, các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại
khoản 3 và khoản 4 Điều 4.
Nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn): Nhóm nợ này bao gồm: Các khoản nợ quá
hạn trên 360 ngày, các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý, các khoản nợ đã cơ cấu
lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại.
Nếu như nợ quá hạn bao gồm các khoản nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5, thì nợ xấu chỉ
bao gồm các nhóm nợ 3,4,5. Có thể thấy nợ xấu có tỷ lệ rủi ro rất cao, khả năng thu hồi
vốn của ngân hàng là tương đối khó, gây thiệt hại lớn cho ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu cho
thấy trong tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng thì có bao nhiêu phần trăm là nợ xấu. Một
ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao thì chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng này rất
thấp. Ngân hàng cần phải xem xét lại toàn bộ hoạt động tín dụng của mình để có biện
pháp điều chỉnh thích hợp tránh những tổn thất có thể xảy đến đối với ngân hàng.
Tỷ lệ nợ xấu là chỉ tiêu vô cùng quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng của một
ngân hàng.
1.2.3.3. Tỷ lệ nợ không có khả năng thu hồi.
Tỷ lệ nợ không có khả năng thu hồi =
Nợ không có khả năng thu hồi chính là nợ nhóm 5. Tỷ lệ này cho thấy trong tổng dư nợ
tín dụng của ngân hàng hay trong tổng nợ xấu của ngân hàng có bao nhiêu phần trăm có
thể bị mất vốn. Một ngân hàng luôn đặt ra mục tiêu không có nợ có khả năng mất vốn.
Tuy nhiên điều này rất khó thực hiện do hoạt động tín dụng ngân hàng luôn tiềm ẩn rủi
ro mà ngân hàng khó có thể lường trước được. Tỷ lệ này càng cao thì chất lượng tín

17
Khoá luận tốt nghiệp
dụng ngân hàng càng thấp, nguy cơ ngân hàng không thu hồi được khoản tín dụng đã
cấp càng lớn, tổn thất đối với ngân hàng càng cao.
1.2.3.4. Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng.
Vòng quay vốn tín dụng =
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ luân chuyển vốn tín dụng của một ngân hàng. Vốn tín
dụng quay được một vòng tức là tính từ thời điểm cấp tín dụng đến thời điểm thu hồi
đầy đủ cả gốc và lãi khi đến hạn như trong hợp đồng. Vòng quay vốn tín dụng càng cao
chứng tỏ nguồn vốn vay ngân hàng luân chuyển càng nhanh, được sử dụng để tham gia
vào nhiều chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hóa. Với một số vốn nhất định, vòng quay
vốn tín dụng nhanh, ngân hàng có vốn để tiếp tục đầu tư vào các lĩnh vực khác để kiếm
lời. Vòng quay vốn tín dụng cao chứng tỏ khả năng quản lý vốn tín dụng cũng như chất
lượng tín dụng của ngân hàng tốt.
1.2.3.5. Chỉ tiêu tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng.
Dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể
xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng không thực hiện được nghĩa vụ theo cam kết.
Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ
chức tín dụng. Dự phòng rủi ro bao gồm: dự phòng cụ thể và dự phòng chung.
Dự phòng cụ thể là khoản tiền được trích lập trên cơ sở phân loại cụ thể các khoản
nợ để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra.
Dự phòng chung là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất chưa
xác định được trong quá trình phân loại nợ và trích lập dự phòng cụ thể và trong các
trường hợp khó khăn về tài chính của tổ chức tín dụng khi chất lượng các khoản nợ suy
giảm.
Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với nhóm nợ từ 1 đến 5 như sau: Nhóm 1 (0%),
nhóm 2 (5%), nhóm 3 (20%), nhóm 4 (50%), nhóm 5 (100%)
18
Khoá luận tốt nghiệp
Các tổ chức tín dụng thực hiện việc trích lập và duy trì dự phòng chung bằng 0,75%

tổng giá trị của các khoản nợ từ nhóm 1 dến nhóm 4.
Số dự phòng cụ thể càng cao chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng càng thấp
vì tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể chỉ tính dựa trên dư nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5. Nhóm
nợ càng cao thì tỷ lệ dự phòng rủi ro được trích càng lớn. Một ngân hàng có dự phòng
rủi ro càng cao thì chi phí hoạt động của ngân hàng này càng lớn, giảm khả năng sinh
lời của ngân hàng từ khoản dự phòng đã trích.
1.2.3.6. Tỷ lệ xử lý tài sản đảm bảo.
Tỷ lệ xử lý tài sản đảm bảo =
Tỷ lệ xử lý tài sản đảm bảo càng cao cho thấy nợ thu hồi từ xử lý tài sản đảm bảo
trên tổng nợ quá hạn của ngân hàng càng cao, điều này chứng tỏ khả năng ngân hàng bị
mất vốn càng thấp hay rủi ro tín dụng của ngân hàng càng thấp. Ngược lại, nếu tỷ lệ này
càng thấp thì khả năng ngân hàng bị mất vốn càng cao, chất lượng tín dụng của ngân
hàng thấp.
Nói về tài sản đảm bảo, ngoài chỉ tiêu trên, chỉ tiêu “tỷ lệ dư nợ có đảm bảo” cũng
cho thấy phần nào mức độ rủi ro tín dụng mà ngân hàng có thể gặp phải nếu công tác
thẩm định tài sản đảm bảo của ngân hàng đó tốt.
Tỷ lệ dư nợ có đảm bảo =
Tỷ lệ dư nợ có đảm bảo thấp thì dư nợ có đảm bảo trên tổng dư nợ thấp, điều này có
nghĩa là rủi ro mà ngân hàng gặp phải cao hay chất lượng tín dụng của ngân hàng thấp
và ngược lại. Nếu tỷ lệ dư nợ có đảm bảo cao thì chất lượng tín dụng của ngân hàng
cũng cao.
1.2.4. Nội dung đánh giá chất lượng tín dụng.
19
Khoá luận tốt nghiệp
Như đã trình bày ở trên, chất lượng tín dụng phản ánh khả năng thỏa mãn các nhu
cầu của các chủ thể tham gia vào quan hệ tín dụng bao gồm: khách hàng, ngân hàng và
nền kinh tế. Do đó, nội dung đánh giá chất lượng tín dụng cũng được xem xét dựa vào
quan điểm của ba chủ thể trên.
1.2.4.1. Đánh giá chất lượng tín dụng trên phương diện khách hàng của ngân hàng.
Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay, để có thể tồn tại và

phát triển được, các ngân hàng cần phải tìm cách để lôi kéo, duy trì và mở rộng mối
quan hệ với khách hàng. Theo quy luật, khách hàng sẽ lựa chọn sản phẩm của những
ngân hàng nào thỏa mãn nhu cầu của họ tốt nhất. Trong hoạt động tín dụng, để thu hút
và giữ những khách hàng tốt thì ngân hàng cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng tín
dụng, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Chất
lượng tín dụng tốt theo quan điểm của khách hàng phải bao hàm những nội dung sau:
Quy trình, thủ tục: Khi sử dụng bất cứ một sản phẩm dịch vụ nào của ngân hàng,
khách hàng cũng đều nhất thiết phải tuân thủ những quy trình, thủ tục nhất định. Trong
quan hệ tín dụng cũng vậy, khách hàng cũng phải tuân thủ quy trình tín dụng của ngân
hàng. Quy trình, thủ tục tín dụng đơn giản, gọn nhẹ sẽ không gây khó khăn, cản trở
khách hàng đến với các khoản tín dụng của ngân hàng, tạo thuận tiện cho khách hàng
trong hoạt động của mình. Ngược lại quy trình càng rườm rà, phức tạp thì càng gây khó
khăn cho khách hàng trong việc tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng.
Thời hạn trả nợ của khách hàng: Việc ngân hàng tính toán và thỏa thuận với khách
hàng về thời hạn cho vay phải dựa vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, chu kỳ luân chuyển
vốn, phù hợp với luồng tiền vào hay ra của khách hàng. Từ đó tạo điều kiện cho khách
hàng có khả năng tạo nguồn để trả nợ vay ngân hàng đúng theo thời hạn trong hợp
đồng, hướng khách hàng vào việc sử dụng vốn vay đúng mục đích.
Tài sản đảm bảo: Trong quan hệ tín dụng với ngân hàng, một số khách hàng ngân
hàng không yêu cầu phải có tài sản đảm bảo, nhưng bộ phận lớn khách hàng phải có tài
sản để đảm bảo cho khoản tín dụng được cấp. Thông thường mức cho vay tối đa là
20
Khoá luận tốt nghiệp
70% giá trị của tài sản đảm bảo. Việc yêu cầu tài sản đảm bảo là vô cùng cần thiết để
giảm thiểu rủi ro tín dụng đối với ngân hàng nhưng nếu quá khắt khe thì khách hàng khó
có thể đáp ứng được, gây khó khăn cho khách hàng, quan hệ tín dụng cũng khó xảy ra.
Chi phí cấp tín dụng: Chi phí ở đây bao gồm lãi và các khoản phí mà khách hàng
phải chịu trong quan hệ tín dụng. Chi phí càng thấp thì gánh nặng về trả nợ lãi của
khách hàng càng thấp, chính vì lẽ đó mà khách hàng luôn tìm đến những khoản tín dụng
với lãi suất thấp hơn. Để cạnh tranh được với các ngân hàng khác trong lĩnh vực tín

dụng đòi hỏi các ngân hàng phải cắt giảm lãi suất cho vay, điều này đảm bảo được lợi
ích của khách hàng nhưng lại ảnh hưởng đến lợi ích của ngân hàng nếu ngân hàng
không có biện pháp quản lý hiệu quả.
Khả năng đáp ứng nhu cầu vốn của ngân hàng đối với khách hàng: Với phương án,
dự án kinh doanh của mình, ngoài nguồn vốn tự có và các nguồn vốn khác, khách hàng
luôn mong muốn được ngân hàng đáp ứng toàn bộ lượng vốn thiếu hụt cần thiết theo dự
án, phương án đó. Theo Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN về các tỷ lệ đảm bảo an toàn
trong hoạt động của tổ chức tín dụng, tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với
một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng đó. Việc ngân hàng
có khả năng đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng hay không cho thấy quy mô, tiềm lực
tài chính của ngân hàng, từ đó phản ánh được uy tín cũng như vị thế của ngân hàng trên
thị trường. Qua đó ảnh hưởng rất lớn đến quyết định lựa chọn ngân hàng của khách
hàng.
1.2.4.2. Đánh giá chất lượng tín dụng trên phương diện Ngân hàng thương mại.
Hoạt động tín dụng được coi là có chất lượng đối với ngân hàng khi nó vừa đảm bảo
an toàn, vừa đem lại lợi nhuận và nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Chất
lượng tín dụng được ngân hàng xem xét trên cả hai phương diện: định tính và định
lượng.
Chỉ tiêu định tính:
21
Khoá luận tốt nghiệp
Quy trình tín dụng: Là trình tự các bước mà ngân hàng phải thực hiện khi cấp tín
dụng đối với khách hàng. Quy trình tín dụng phản ánh nguyên tắc cho vay, phương pháp
cho vay, trình tự giải quyết các công việc, thủ tục hành chính và thẩm quyền giải quyết
các vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng.
Quy trình tín dụng là quy định bắt buộc đối với bất kì ngân hàng nào và nó thường
được in thành văn bản hay sổ tay nhằm hướng dẫn cán bộ tín dụng trong việc thực hiện
thống nhất nghiệp vụ tín dụng. Quy trình tín dụng có ý nghĩa rất lớn quyết định chất
lượng tín dụng của ngân hàng. Một ngân hàng có quy trình tín dụng đơn giản, hợp lý sẽ
vừa tiết kiệm được thời gian và chi phí lại vừa đảm bảo chất lượng tín dụng cho ngân

hàng. Đồng thời dựa vào quy trình tín dụng, ngân hàng sẽ thiết lập các thủ tục hành
chính phù hợp với những quy định của luật pháp và đảm bảo an toàn trong hoạt động
kinh doanh. Mặt khác, quy trình tín dụng còn là cơ sở để ngân hàng kiểm soát tiến trình
cấp tín dụng và điều chỉnh chính sách tín dụng cho phù hợp với thực tiễn.
Hiệu quả của hoạt động tín dụng: Trong thực tiễn cuộc sống, bất cứ một hoạt động
nào muốn có hiệu quả cao thì trước hết chất lượng của nó phải tốt. Hoạt động tín dụng
có hiệu quả cao đồng nghĩa với việc chất lượng của hoạt động đó phải tốt, đem lại nhiều
lợi nhuận cho ngân hàng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh chung của
ngân hàng.
Khả năng thu hồi các khoản nợ của ngân hàng khi đến hạn: Đây cũng là một trong
những chỉ tiêu quan trọng phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng. Khả năng thu
hồi nợ của ngân hàng càng cao, ngân hàng càng ít bị chiếm dụng vốn từ bên ngoài, rủi
ro tín dụng mà ngân hàng gặp phải thấp hay chất lượng tín dụng của ngân hàng cao.
Khả năng cạnh tranh: Khả năng cạnh tranh của một ngân hàng cao hay thấp cho
chúng ta thấy được chất lượng tín dụng của ngân hàng đó tốt hay không tốt. Sở dĩ như
vậy là vì tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu, nó đem lại nguồn thu nhập chính
cho bản thân mỗi ngân hàng. Một ngân hàng có khả năng cạnh tranh cao thì tất yếu hoạt
động tín dụng của ngân hàng đó phải có chất lượng tốt hơn so với đối thủ cạnh tranh vì
22
Khoá luận tốt nghiệp
khả năng cạnh tranh cao đồng nghiã với việc khả năng thu hút khách hàng của ngân
hàng tốt, khả năng huy động vốn cao, ngân hàng có điều kiện mở rộng tín dụng và tìm
kiếm được những khách hàng tiềm năng tốt, hạn chế rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
Chỉ tiêu định lượng.
Ngoài 6 chỉ tiêu như đã trình bày ở trên như: Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ xấu,
tỷ lệ nợ không có khả năng thu hồi, tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, tỷ lệ xử lý
tài sản đảm bảo và vòng quay vốn tín dụng. Chất lượng tín dụng theo quan điểm của
ngân hàng còn thể hiện ở chỉ tiêu: “Tỷ lệ lợi nhuận từ hoạt động tín dụng”

Tỷ lệ lợi nhuận từ hoạt động tín dụng =

Chỉ tiêu này cho thấy trong 100% tổng thu nhập của ngân hàng thì bao nhiêu phần
trăm thu được từ hoạt động tín dụng mà chủ yếu là thu lãi cho vay. Điều này phản ánh
mức độ đóng góp của hoạt động tín dụng đối với hoạt động kinh doanh chung của mỗi
ngân hàng. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hoạt động tín dụng ngân hàng càng có hiệu
quả, khả năng thu lãi cho vay của ngân hàng cao, chất lượng tín dụng càng tốt.
1.2.4.3. Đánh giá chất lượng tín dụng trên phương diện nền kinh tế.
Như đã trình bày ở phần trên, hoạt động tín dụng không chỉ có vai trò quan trọng
đối với những chủ thể trực tiếp tham gia vào quan hệ tín dụng mà còn tác động lớn tới
sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Đánh giá chất lượng trên phương diện nền
kinh tế thể hiện qua những nội dung sau:
Góp phần thực hiện chính sách tiền tệ: Tín dụng ngân hàng được coi là có chất
lượng tốt khi nó thực thi chính sách tiền tệ quốc gia trong từng thời kỳ nhằm ổn định giá
trị tiền tệ hay kiểm soát lạm phát…
Đáp ứng nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần giúp
nền kinh tế tăng trưởng và phát triển bền vững. Với vai trò huy động vốn để cho vay,
đầu tư, các ngân hàng đóng vai trò là người cung cấp vốn chủ yếu cho nền kinh tế, phục
23
Khoá luận tốt nghiệp
vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, khai thác triệt để mọi tiềm
năng của nền kinh tế, giúp cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của người lao
động…
Góp phần phát triển các ngành nghề, lĩnh vực mũi nhọn của nền kinh tế. Một ngân
hàng có chất lượng tín dụng tốt khi chính sách của ngân hàng là đảm bảo đầu tư vào
những ngành đang có tiềm năng phát triển, thu hẹp đầu tư vào những ngành đã bão hòa.
Đồng thời ngân hàng cũng tập trung vào những ngành chủ lực theo định hướng của
quốc gia.
Chấp hành tốt các quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng: Một ngân hàng
dù có hoạt động tốt đến đâu, lợi nhuận cao đến mấy nhưng nếu không tuân thủ các quy
định của nhà nước về an toàn trong hoạt động thì chất lượng tín dụng của ngân hàng đó
cũng không thể tốt được. Một ngân hàng bất chấp rủi ro để chạy theo lợi nhuận trước

mắt thì không thể nào phát triển bền vững được.
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Cổ nhân xưa thường có câu: “Phòng bệnh hơn chữa bệnh”, câu nói này đúng trong
mọi hoàn cảnh, mọi tình huống, mọi trường hợp và mọi thời đại. Trong ngân hàng nói
chung và trong hoạt động tín dụng nói riêng, để có thể nâng cao chất lượng tín dụng,
hạn chế các khoản cho vay kém chất lượng, giảm thiểu những rủi ro có liên quan…thì
một điều tất yếu không thể thiếu đó là phải xem xét những nhân tố ảnh hưởng đến chất
lượng tín dụng
Chúng ta sẽ xem xét các nhân tố ảnh hưởng trên 2 góc độ: khách quan và chủ quan.
1.2.5.1 Các nhân tố khách quan.
Ngân hàng nói riêng và mọi ngành nghề trong nền kinh tế nói chung đã tồn tại trên
thị trường thì đều phải chịu những tác động chung của môi trường kinh tế - xã hội. Môi
trường ở đây bao gồm: môi trường kinh tế, môi trường pháp lý, môi trường chính trị -
pháp luật, môi trường quốc tế, dân số và các điều kiện tự nhiên.
* Môi trường kinh tế:
24
Khoá luận tốt nghiệp
Chu kỳ kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng của một ngân hàng.
Nền kinh tế tăng trưởng, nhu cầu về các sản phẩm ngân hàng cũng gia tăng. Thu nhập
của dân cư tăng thì có hai khả năng: thứ nhất là tiết kiệm tăng thì ngân hàng dễ dàng
hơn trong việc huy động vốn; thứ hai là chi tiêu dùng trong dân cư tăng, nhu cầu về các
sản phẩm trong xã hội tăng, nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp tăng, các chủ thể
tham gia trong nền kinh tế hoạt động có hiệu quả, ngân hàng sẽ có khả năng mở rộng tín
dụng và chất lượng hoạt động tín dụng cũng sẽ được nâng lên. Ngược lại khi nền kinh tế
rơi vào tình trạng suy thoái, các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng
khi đó chất lượng các khoản tín dụng của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng rất lớn.
Chất lượng tín dụng của ngân hàng không chỉ chịu ảnh hưởng bởi chu kỳ kinh tế mà
còn bởi tình trạng lạm phát, tỷ giá… và những biến động bất thường của thị trường. Ta
có: “Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát”. Nếu lạm phát tăng cao, lãi
suất danh nghĩa không thay đổi thì lãi suất thực mà ngân hàng nhận được từ các khoản

cho vay sẽ giảm mạnh và nếu ngân hàng không có cân đối giữa các khoản mục bên
nguồn vốn và bên tài sản nhạy cảm lãi suất thì các khoản tín dụng đã cấp sẽ mang lại kết
quả không như mong đơi. Hay tỷ giá biến động theo chiều hướng không tốt làm ảnh
hưởng lớn tới doanh thu của khách hàng, ảnh hưởng đến nguồn trả nợ ngân hàng của
khách hàng, ảnh hưởng đến kế hoạch trả nợ của khách hàng, điều này trực tiếp ảnh
hưởng đến chất lượng tín dụng tại các ngân hàng. Cơ chế, chính sách kinh tế của nhà
nước cũng ảnh hưởng rất lớn đến khách hàng từ đó ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
tại các ngân hàng. Chẳng hạn như: chính sách thuế, chính sách xuất nhập khẩu, chính
sách tài khóa, chính sách tiền tệ, chính sách đầu tư… Nói tóm lại, bất cứ biến động nào
ảnh hưởng bất lợi đến khách hàng, đến khả năng trả nợ ngân hàng của khách hàng, đều
ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng tại các ngân hàng.
* Môi trường chính trị - xã hội:
Trong điều kiện chính trị không ổn định như: chiến tranh thường xuyên xảy ra, các
cuộc xung đột vũ trang, bạo động, đình công…ảnh hưởng rất lớn tới mọi đối tượng
25

×