Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Tp Hà Nội.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.62 KB, 83 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI : NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN ĐỐI
VỚI DOANH NGHIỆP TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN
ĐỘI – CHI NHÁNH ĐIỆN BIÊN PHỦ

Sinh viên thực hiện

: Trần Khoa Bảo

Lớp

: Ngân hàng 46A

Khóa

: 46

Mã sinh viên

: CQ 463331

Giảng viên hướng dẫn : TS. Cao Ý Nhi

HÀ NỘI, 5/ 2008


Chuyên đề tốt nghiệp


2

LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động ngân hàng là một mắt xích khơng thể thiếu trong sự vận động
của nền kinh tế. Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam, trong
đó có Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã có những đổi mới sâu sắc,
những bước phát triển mạnh đóng góp tích cực vào kiềm chế lạm phát, ổn
định lưu thông tiền tệ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành phố Hà Nội, trải qua
50 năm xây dựng và phát triển đã không ngừng lớn mạnh và trưởng thành,
ln giữ vai trị đầu tàu trong hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam. Trước bối cảnh cạnh tranh mới trong nền kinh tế, Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Hà Nội đã thực hiện triệt để các biện pháp để lành mạnh hóa và
nâng cao năng lực tài chính song song với xử lý tốt nợ tồn đọng, cơ cấu lại
hoạt động, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Bên cạnh đó, Ngân hàng cũng đã
không ngừng phát triển cả về số lượng, chất lượng sản phẩm dịch vụ, mở rộng
thị phần để khẳng định vị thế và nâng cao tính cạnh tranh của Ngân hàng trên
địa bàn.
Trong hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, hoạt động
tín dụng đóng vai trò then chốt, mang lại lợi nhuận cao nhưng cũng ẩn chứa
nhiều rủi ro, đặc biệt là hoạt động tín dụng trung, dài hạn. Trong khi đó,
khách hàng truyền thống của Ngân hàng là các doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực xây lắp, vì thế dư nợ đối với loại hình doanh nghiệp này ln chiếm
tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ. Tuy nhiên thực tế cho thấy, chất lượng tín dụng
trung, dài hạn đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp tại ngân
hàng còn chưa an toàn, ảnh hưởng đáng kể đến kết quả hoạt động của ngân
hàng cũng như của các doanh nghiệp. Vì thế, em đã lựa chọn đề tài : “Nâng
cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp tại Chi

Trần Phương Anh


Lớp Ngân hàng 46C


Chuyên đề tốt nghiệp

3

nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Tp Hà Nội” để tìm hiểu kĩ hơn về
thực trạng này.
Nội dung của chuyên đề gồm 3 phần :
Chương I : Tín dụng của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp
xây lắp.
Chương II : Thực trạng chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với
doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.
Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối
với doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà
Nội.

Trần Phương Anh

Lớp Ngân hàng 46C


Chuyên đề tốt nghiệp

4

CHƯƠNG 1
TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặt biệt là chính sách tiền
tệ, do vậy ngân hàng là một kênh quan trọng trong chính sách của Chính phủ
nhằm ổn định kinh tế.
Khái niệm Ngân hàng thương mại (NHTM) được tiếp cận trên nhiều
phương diện. Căn cứ vào các hoạt động chủ yếu của NHTM, Điều 20 Luật
Các Tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có ghi:
“ Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính
chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm Ngân hàng thương
mại, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác và các loại
hình ngân hàng khác.”
“Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp
tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh tốn”.
Căn cứ vào các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, có thể định
nghĩa: “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch
vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh tốn
và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế”.

Trần Phương Anh

Lớp Ngân hàng 46C



Chuyên đề tốt nghiệp

5

1.1.2. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
Với vai trị trung gian tài chính, Ngân hàng thương mại thực hiện
chuyển vốn từ người cho vay-người tiết kiệm sang người đi vay-người đầu tư.
Vì vậy, các hoạt động cơ bản của NHTM gồm có huy động vốn, tín dụng, đầu
tư và các hoạt động trung gian khác.
* Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là hoạt động cơ bản đầu tiên của một NHTM. Ngân hàng
thực hiện huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Tiền gửi của khách hàng
là nguồn tài nguyên quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của
ngân hàng. Khi bắt đầu hoạt động, ngân hàng thực hiện mở các tài khoản tiền
gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng đã
huy động được lượng tiền nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức và dân
cư.
Khi khả năng huy động tiền gửi bị hạn chế hay lượng tiền gửi không đáp
ứng được nhu cầu chi trả, Ngân hàng thường vay mượn thêm. Ngân hàng
thương mại có thể thực hiện vay của Ngân hàng Nhà nước, vay các tổ chức
tín dụng khác và vay trên thị trường vốn. Nghiệp vụ này được thực hiện chủ
yếu nhằm giải quyết nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách của NHTM.
Ngồi các hình thức huy động trên, NHTM còn thực hiện việc huy động
vốn chủ sở hữu thơng qua phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để
mở rộng quy mô hoạt động, đổi mới trang thiết bị hoặc để đáp ứng nhu cầu
gia tăng vốn của chủ do Ngân hàng Nhà nước quy định… Hình thức huy động
này tuy khơng thường xun song giúp cho ngân hàng có được lượng vốn sở
hữu lớn khi cần thiết.
* Hoạt động tín dụng, đầu tư và các hoạt động trung gian khác
Trên cơ sở lượng vốn huy động được, NHTM thực hiện các hoạt động

tín dụng, đầu tư và trung gian khác.

Trần Phương Anh

Lớp Ngân hàng 46C


Chuyên đề tốt nghiệp

6

Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh chính, chiếm tỷ trọng lớn
nhất ở phần lớn các NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng.
Trong nghiệp vụ này, ngân hàng chuyển giao tạm thời quyền sử dụng vốn cho
bên đi vay, sau một khoảng thời gian nhất định bên đi vay phải hoàn trả cả
gốc và lãi cho Ngân hàng.
Ngân hàng đầu tư vào chứng khốn vì mục tiêu thanh khoản và đa dạng
hóa tài sản. Các loại chứng khoán mang lại thu nhập cho ngân hàng và có thể
bán đi để gia tăng ngân quỹ khi cần thiết. Ngân hàng nắm giữ nhiều loại
chứng khốn như chứng khốn Chính phủ, giấy nợ ngắn hạn của các ngân
hàng thương mại, các công ty tài chính…
Ngồi ra, ngân hàng cịn thực hiện các hoạt động khác như tham gia góp
vốn với các tổ chức khác, cung cấp các dịch vụ liên quan đi kèm cho khách
hàng để thu phí hoa hồng…
1.2. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa hai chủ thể,
trong đó có sự chuyển giao một lượng giá trị từ chủ thể này sang chủ thể khác
theo những điều kiện mà hai bên thỏa thuận. Quan hệ tín dụng tồn tại dưới
nhiều hình thức khác nhau như tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng…

Tín dụng ngân hàng là hình thức phát triển cao nhất, thể hiện mối quan
hệ tín dụng bằng tiền tệ, giữa một bên là ngân hàng-tổ chức chuyên kinh
doanh trong lĩnh vực tiền tệ, với một bên là các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Quan hệ này được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi.
Theo điều 20 Luật Các Tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng
sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Cấp tín dụng là
việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với

Trần Phương Anh

Lớp Ngân hàng 46C


Chun đề tốt nghiệp

7

ngun tắc có hồn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài
chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.”
Nền kinh tế ngày càng phát triển thì khối lượng tín dụng ngân hàng được
thực hiện càng lớn. Tín dụng ngân hàng hiện nay đóng một vai trị quan trọng
trong nền kinh tế thị trường, đối với lĩnh vực sản xuất lưu thông hàng hóa
cũng như lĩnh vực lưu thơng tiền tệ.
1.2.2. Phân loại tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng ngân hàng hiện nay rất đa dạng và phong phú với
nhiều hình thức khác nhau. Việc phân loại tín dụng có ý nghĩa quan trọng
trong thực hiện cân đối giữa nguồn vốn huy động và sử dụng vốn của ngân
hàng. Phân loại tín dụng có cơ sở khoa học là tiền đề để thiết lập các quy trình
tín dụng thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Có thể phân

loại hoạt động tín dụng dựa trên các tiêu thức sau đây :
1.2.2.1. Căn cứ theo thời gian
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng với ngân hàng vì liên
quan mật thiết đến tính an tồn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng
hồn trả của khách hàng.
Dựa vào căn cứ này, tín dụng được chia thành 3 loại như sau:
- Tín dụng ngắn hạn : có thời hạn từ 12 tháng trở xuống
- Tín dụng trung hạn : có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm
- Tín dụng dài hạn : có thời hạn trên 5 năm
Tín dụng trung, dài hạn thường có tỷ trọng thấp hơn tín dụng ngắn hạn
do có độ rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn.
1.2.2.2. Căn cứ theo hình thức tài trợ tín dụng
Theo hình thức này, tín dụng được chia thành cho vay, bảo lãnh, cho
thuê…

Trần Phương Anh

Lớp Ngân hàng 46C


Chuyên đề tốt nghiệp

8

- Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách
hàng phải trả cả gốc và lãi trong thời gian xác định. Cho vay thường được
định lượng theo hai chỉ tiêu : doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ.
- Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ
khách hàng của mình. Bảo lãnh là hình thức tài trợ thơng qua uy tín, ngân
hàng khơng phải xuất tiền ngay khi bảo lãnh do vậy nó được ghi vào tài sản

ngoại bảng.
- Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách
hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân
hàng. Nghiệp vụ chiết khấu dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và những
người ký tên trên thương phiếu. Độ an toàn của thương phiếu tương đối cao
do tối thiểu có hai người cam kết trả tiền cho ngân hàng. Hơn nữa, thương
phiếu có tính thanh khoản cao nên ngân hàng có thể thực hiện tái chiết khấu
tại Ngân hàng Nhà nước.
- Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê
theo những thỏa thuận nhất định. Sau một thời gian nhất định, khách hàng
phải trả cả gốc và lãi cho ngân hàng.
1.2.2.3. Căn cứ theo tài sản đảm bảo
Theo tiêu thức này, tín dụng được chia thành 2 loại:
- Tín dụng khơng có tài sản đảm bảo : loại tín dụng này có thể được cấp
cho các khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xun có
lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa…
- Tín dụng có tài sản bảo đảm : là loại tín dụng dựa trên cơ sở các bảo
đảm như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Sự bảo
đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung
cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
1.2.3. Tín dụng trung, dài hạn của NHTM

Trần Phương Anh

Lớp Ngân hàng 46C


Chuyên đề tốt nghiệp

9


1.2.3.1. Khái niệm và các hình thức tín dụng trung, dài hạn của NHTM
Quan niệm về tín dụng trung, dài hạn rất khác nhau ở các nước trên thế
giới. Ở Việt Nam, tín dụng trung, dài hạn là các khoản tín dụng có thời hạn
trên 1 năm.
- Tín dụng trung hạn : từ trên 1 năm đến 5 năm tài trợ cho các tài sản cố
định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng
hao mịn.
- Tín dụng dài hạn : trên 5 năm tài trợ cho các cơng trình xây dựng như
nhà, sân bay, cầu đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian
sử dụng lâu.
Dựa và mục đích cho vay, tín dụng trung, dài hạn được phân chia thành
nhiều hình thức khác nhau:
- Cho vay kỳ hạn : thường dùng để tài trợ cho các mục đích chung của
doanh nghiệp, bao gồm tài trợ mua sắm bất động sản phục vụ sản xuất kinh
doanh, các thiết bị sản xuất, tài trợ vốn cho việc thanh tốn các khoản nợ như
nợ đến hạn mua máy móc thiết bị trả chậm nước ngoài đã được ngân hàng
bảo lãnh…Việc thanh tốn tiền theo định kỳ có thể bằng nhau hoặc khác
nhau, có thời hạn ân hạn.
- Cho vay mua sắm máy móc thiết bị trả góp : là các khoản cho vay tài
trợ nhu cầu mua sắm máy móc thiết bị của doanh nghiệp có thời hạn trên 1
năm, tiền vay là lãi được thanh toán dần cho Ngân hàng theo định kỳ. Việc
thanh toán tiền vay và lãi bằng nhau theo các định kỳ. Tuy nhiên, các doanh
nghiệp thường khơng thích dạng này vì khơng thuận lợi bằng cho vay kỳ hạn
(không trả được nợ trước hạn để giảm tiền lãi).
- Tài trợ theo dự án : là một hình thức cho vay trung, dài hạn trong đó
ngân hàng chỉ thu hồi được vốn từ nguồn thu nhập tạo ra từ dự án và phải
chịu rủi ro trong trường hợp dự án không thành công. Tài trợ theo dự án

Trần Phương Anh


Lớp Ngân hàng 46C


Chuyên đề tốt nghiệp

10

thường được áp dụng trong các dự án đầu tư hạ tầng như xây dựng đường xá,
cấp nước đơ thị, năng lượng...
1.2.3.2. Đặc điểm của tín dụng trung, dài hạn
* Vốn đầu tư lớn, thời hạn dài và thu hồi vốn chậm
Đối tượng tài trợ của tín dụng trung, dài hạn là các nhu cầu đầu tư vào
tài sản cố định, mua sắm máy móc thiết bị, dự án xây dựng mới…của doanh
nghiệp. Đặc điểm của đối tượng này là có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu.
Do đó, khoản cho vay để tài trợ cho các đối tượng này đòi hỏi một số vốn đầu
tư lớn. Hơn nữa, nguồn trả nợ cho khoản vay được lấy từ quỹ khấu hao cơ
bản và lợi nhuận thu được từ dự án. Vì vậy, thời hạn trả nợ thường kéo dài
đến khi dự án kết thúc, dẫn đến thu hồi vốn chậm.
* Rủi ro cao
Do đặc điểm của tín dụng trung, dài hạn là có thời gian dài, thu hồi vốn
chậm nên độ rủi ro của các khoản tín dụng này ln cao. Một dự án có thời
gian đầu tư dài có thể chịu nhiều tác động của các yếu tố như thiên tai, chiến
tranh, sự thay đổi của mơi trường kinh tế, chính sách pháp luật, tâm lý người
dân…Hơn nữa, các khoản tín dụng trung, dài hạn thường có số vốn đầu tư lớn
nên khi rủi ro xảy ra sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng hơn cho ngân hàng so với
các khoản tín dụng ngắn hạn.
* Lợi nhuận từ các khoản tín dụng trung, dài hạn lớn
Do các khoản tín dụng trung, dài hạn có thời hạn dài, độ rủi ro cao nên
lãi suất của các khoản vay này thường cao hơn lãi suất ngắn hạn. Sự biến đổi

lãi suất cho vay trung, dài hạn có thể dựa trên cơ sở lãi suất cơ bản do Ngân
hàng Nhà nước quy định, lãi suất của thị trường quốc tế hoặc sự biến đổi của
chỉ số giá cả chung.
Ngồi ra, do các khoản tín dụng trung, dài hạn có tính thanh khoản thấp,
khả năng chuyển đổi thành tiền thấp hoặc chịu chi phí cao nên ngân hàng

Trần Phương Anh

Lớp Ngân hàng 46C


Chuyên đề tốt nghiệp

11

thường đặt mức lãi suất cao cho các khoản vay này. Thêm vào đó, các khoản
tín dụng trung, dài hạn có số vốn lớn nên thu nhập mà các khoản tín dụng này
đem lại cho ngân hàng là lớn.
1.3. Doanh nghiệp xây lắp
1.3.1. Khái niệm doanh nghiệp xây lắp
Doanh nghiệp xây lắp (hay còn gọi là doanh nghiệp xây dựng) là doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo quy định của pháp
luật, có đăng ký kinh doanh về xây dựng (Theo điều 16 Nghị định
52/1999/NĐ-CP ngày 08/07/1999 của Chính phủ).
Các doanh nghiệp này thực hiện quá trình xây dựng mới, xây dựng lại,
cải tạo các cơng trình nhà máy, đường xá, cầu cống, nhà cửa… nhằm phục vụ
sản xuất và đời sống xã hội.
Trách nhiệm của các doanh nghiệp xây lắp :
- Đăng ký hoạt động xây dựng tại các cơ quan có thẩm quyền theo quy
định pháp luật.

- Chịu trách nhiệm trước pháp luật về các nội dung đã cam kết trong hợp
đồng với chủ đầu tư, bao gồm số lượng, chất lượng, tính chính xác của sản
phẩm theo thời gian thực hiện hợp đồng, thực hiện bảo hành chất lượng sản
phẩm xây dựng theo quy định.
- Thực hiện an toàn lao động, các chế độ bảo hiểm cơng trình xây dựng,
bảo vệ mơi trường sinh thái trong q trình xây dựng…Thơng tin rộng rãi về
năng lực hoạt động của doanh nghiệp để chủ đầu tư biết và lựa chọn.
1.3.2. Hoạt động cơ bản của doanh nghiệp xây lắp
Hoạt động của từng doanh nghiệp xây lắp phụ thuộc vào ngành nghề
kinh doanh mà doanh nghiệp đăng ký với pháp luật. Tuy nhiên, hoạt động cơ
bản của doanh nghiệp xây lắp thường bao gồm như sau:
- Xây dựng

Trần Phương Anh

Lớp Ngân hàng 46C


Chun đề tốt nghiệp

12

+ Xây dựng các cơng trình cơng nghiệp, công cộng và dân dụng : các
nhà máy (cơ khí, điện, điện tử viễn thơng, hóa chất, hóa dầu, phân bón, may
mặc da giày, thuốc lá…), văn phịng, bệnh viện, khách sạn, các khu nhà ở,
chung cư, trường học, trung tâm văn hóa, trung tâm thể thao, trung tâm
thương mại.
+ Xây dựng các cơng trình kỹ thuật hạ tầng : các cơng trình giao thơng,
đê đập, sân bay, các khu đô thị và công nghiệp, các khu chế xuất, hệ thống
cấp thoát nước, xử lý nước thải, san đắp mặt bằng.

+ Xây dựng các cơng trình điện, hệ thống kiểm tra đo đếm, viễn thông :
nhà máy phát điện, đường dây, trạm biến áp, các hệ thống truyền tải và phân
phối, các hệ thống thiết bị kiểm tra, các cơng trình và hệ thống thơng tin, viễn
thơng…
- Tư vấn thiết kế : tư vấn đầu tư, lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, quản lý
dự án, khảo sát địa chất, thiết kế kỹ thuật, thiết kế chi tiết, lập dự tốn, giám
sát kỹ thuật cơng trình, kiểm tra chất lượng các cơng trình cơng nghiệp và dân
dụng, thiết kế cơng trình điện…
- Lắp đặt
+ Lắp các thiết bị công nghệ, khung nhà công nghiệp, xưởng sản xuất
+ Lắp đặt các thiết bị tự động, thiết bị điện, thiết bị đo, hiệu chỉnh
điện…
- Chế tạo
+ Thiết bị xây dựng, thiết bị bê tông, gạch, băng tải…
+ Chế tạo kết cấu thép, khung nhà công nghiệp, dầm chịu lực…
- Hoạt động khác
+ Đào tạo công nhân kỹ thuật
+ Kinh doanh, xuất nhập khẩu các loại hàng hóa, vật tư thiết bị
+ Xuất khẩu lao động…

Trần Phương Anh

Lớp Ngân hàng 46C


Chuyên đề tốt nghiệp

13

1.3.3. Đặc điểm của doanh nghiệp xây lắp

1.3.3.1. Về sản phẩm của doanh nghiệp xây lắp
Sản phẩm của doanh nghiệp xây lắp thường mang những đặc điểm
riêng, khác với các sản phẩm hàng hóa trong lĩnh vực khác như mỗi sản phẩm
đều có thiết kế riêng, yêu cầu riêng về công nghệ, quy phạm…Những đặc
điểm riêng này chi phối làm cho công tác quản lý, điều hành hoạt động trong
quy trình thực hiện đầu tư dễ gây ra lãng phí, thất thốt, phát sinh tiêu cực. Vì
vậy, việc xây dựng cơ chế, chính sách trong hoạt động xây lắp và đầu tư
không thể đạt kết quả tốt nếu không nghiên cứu đặc điểm riêng biệt của ngành
xây lắp cũng như đặc điểm về sản phẩm của ngành.
- Sản phẩm xây lắp là các cơng trình có quy mô lớn, kết cấu phức tạp.
Sản phẩm xây lắp mang tính cố định, nơi sản xuất ra sản phẩm đồng thời là
nơi sản phẩm được hoàn thành và đưa vào sử dụng. Các điều kiện sản xuất
như vật liệu, lao động, máy móc thi cơng phải di chuyển theo địa điểm đặt sản
phẩm cơng trình.
Đặc điểm này làm khó khăn cho cơng tác tổ chức sản xuất. Việc bố trí
các cơng trình tạm phục vụ thi cơng như lán trại cùng phương tiện, máy móc
thiết bị làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp và tốn kém. Do đó, các doanh
nghiệp xây lắp cần lựa chọn loại hình tổ chức quản lý sản xuất thích hợp, linh
hoạt, tăng cường tính cơ động về mặt trang thiết bị, máy móc phục vụ thi
cơng.
- Q trình xây dựng lâu dài, chịu nhiều tác động của điều kiện tự nhiên,
khiến cho máy móc thiết bị, cơng trình dễ bị hư hỏng, ảnh hưởng đến tiến độ
thi công. Đặc điểm này làm cho các đơn vị xây lắp khơng lường trước được
hết những khó khăn do tác động của thời tiết, khí hậu. Rủi ro xảy ra làm ảnh
hưởng tới tiến độ thi công cơng trình, giá thành cơng trình, thậm chí cả chất
lượng cơng trình.

Trần Phương Anh

Lớp Ngân hàng 46C



Chuyên đề tốt nghiệp

14

Hơn nữa, cũng do quá trình xây dựng kéo dài nên đòi hỏi các doanh
nghiệp xây lắp phải lập dự toán (dự toán thiết kế và thi cơng). Dự tốn là chi
phí cần thiết cho việc đầu tư xây dựng được tính tốn cụ thể ở giai đoạn thiết
kế kỹ thuật xây dựng, không vượt tổng mức đầu tư đã duyệt.
- Sản phẩm xây lắp mang tính đơn chiếc, thường được sản xuất theo đơn
đặt hàng. Vì thế, chi phí bỏ vào sản xuất cũng khác nhau giữa các cơng trình.
Chi phí cho sản phẩm xây lắp rất đa dạng, phong phú, sử dụng nhiều loại
nguyên vật liệu, máy móc thi cơng và nhiều loại thợ các ngành nghề khác
nhau.
- Sản phẩm xây lắp có thời gian sử dụng lâu dài, chất lượng của sản
phẩm có ý nghĩa quyết định. Vì vậy, mọi sai lầm trong quá trình thi cơng
thường khó sửa chữa, gây thiệt hại nghiêm trọng. Do vậy, trong q trình thi
cơng cần phải thường xun kiểm tra, giám sát chất lượng cơng trình.
- Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc theo giá thỏa
thuận với chủ đầu tư (hay giá đấu thầu). Do vậy, tính chất hàng hóa của sản
phẩm xây lắp không thể hiện rõ như sản phẩm thông thường. Sản phẩm thông
thường không biết người tiêu dùng là ai, trong khi sản phẩm xây lắp đã được
quy định trước giá cả, người mua, người bán thông qua hợp đồng giao nhận
thầu.
- Doanh nghiệp xây lắp có trách nhiệm bảo hành sản phẩm xây lắp sau
khi bàn giao. Bảo hành cơng trình là điều kiện bắt buộc, được xác lập trên cơ
sở pháp luật và hợp đồng kinh tế giữa chủ đầu tư và đơn vị nhận thầu. Bảo
hành cơng trình nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của chủ đầu tư, đồng thời xác
lập trách nhiệm của các đơn vị thi công xây lắp trong sửa chữa các hư hỏng

xảy ra trong thời gian bảo hành.
- Sản phẩm xây lắp liên quan đến nhiều ngành khác nhau trong quá trình
xây dựng và sử dụng. Tài sản cố định của các ngành khác nhau là sản phẩm

Trần Phương Anh

Lớp Ngân hàng 46C


Chuyên đề tốt nghiệp

15

của ngành xây lắp. Do vậy, chất lượng sản phẩm xây lắp liên quan đến chất
lượng đầu tư của các ngành và hiệu quả đầu tư trong nền kinh tế.
1.3.3.2. Về hoạt động của doanh nghiệp xây lắp
Doanh nghiệp xây lắp có hai lĩnh vực hoạt động chủ yếu là hoạt động
tìm kiếm hợp đồng xây dựng và hoạt động bàn giao cơng trình hồn thành,
thanh quyết toán hợp đồng xây dựng với chủ đầu tư.
Trong xây dựng, người ta thường phân biệt một bên là chủ đầu tư (bên
A) và đơn vị xây dựng bao thầu (bên B). Hiện nay, các dự án đều thực hiện
đấu thầu công khai nhằm chọn các đơn vị xây dựng có đủ tư cách pháp nhân,
năng lực hành nghề xây dựng. Do đó, một trong những vấn đề quyết định sự
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp xây lắp là phải giành được thế chạnh
tranh để có thể ký được nhiều hợp đồng xây dựng. Nếu hoạt động này đạt kết
quả tốt thì các hoạt động khác của doanh nghiệp như hoạt động sản xuất thi
công xây lắp, hoạt động bàn giao cơng trình, hoạt động tài chính… mới có
điều kiện được thực hiện.
Hoạt động bàn giao cơng trình xây dựng hồn thành và thanh quyết tốn
hợp đồng với chủ đầu tư được xem là hoạt động quan trọng cuối cùng trong

hợp đồng xây dựng. Hoạt động này có quan hệ tích cực cũng như tiêu cực tới
hoạt động tìm kiếm hợp đồng xây dựng của doanh nghiệp. Nếu cơng trình xây
dựng đảm bảo chất lượng và thời gian thi cơng sẽ làm tăng uy tín của doanh
nghiệp xây lắp trên thị trường. Ngược lại, nếu doanh nghiệp bàn giao những
cơng trình khơng đảm bảo chất lượng và thời gian thì có thể sẽ khơng được
chủ đầu tư chấp nhận, gây khó khăn cho việc thanh quyết tốn và uy tín của
doanh nghiệp xây lắp sẽ bị giảm.
1.3.3.3. Về tình hình tài chính của doanh nghiệp xây lắp
- Vốn tự có của doanh nghiệp xây lắp thấp, chủ yếu là máy móc thiết bị
đã qua sử dụng. Thực tế hiện nay, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp xây lắp

Trần Phương Anh

Lớp Ngân hàng 46C


Chuyên đề tốt nghiệp

16

chỉ chiếm khoảng 5-15% trong tổng nguồn vốn, còn lại là vốn vay ngân hàng
và vốn chiếm dụng khác. Do đó, gánh nặng về chi phí lãi vay lớn gây áp lực
đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Trong khi đó, do sản lượng thi
cơng tăng lên cùng với yêu cầu cao về chất lượng công trình địi hỏi doanh
nghiệp phải trang bị những thiết bị thi cơng hiện đại. Vì vậy, nhu cầu vốn (cả
vốn lưu động và vốn đầu tư trung, dài hạn) ngày càng tăng. Do đó, trong hoạt
động của các đơn vị này, nhu cầu vay vốn ngân hàng để tài trợ là thường
xuyên và rất lớn.
- Nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp xây lắp thường chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Các ngân

hàng thường cho vay các doanh nghiệp xây lắp chủ yếu để tài trợ vốn lưu
động, phục vụ thi cơng các cơng trình. Đối với nhu cầu đầu tư mới, ngân hàng
thường chỉ tham gia tài trợ một phần, phần còn lại các doanh nghiệp xây lắp
phải bỏ vốn tự có của mình.
- Tốc độ chu chuyển vốn trong các doanh nghiệp xây lắp thường không
cao. Do quy mô lớn, thời gian sản xuất kéo dài nên vốn dùng để đầu tư vào
cơng trình dễ bị ứ đọng, gây ra tình trạng thất thốt lãng phí. Nếu cơng trình
thiếu vốn hoạt động thì q trình thi cơng sẽ bị gián đoạn, thời gian xây dựng
bị kéo dài hơn. Khi cơng trình hồn thành, cơng tác nghiệm thu, quyết toán và
thanh toán phụ thuộc nhiều vào chủ đầu tư. Do vậy, các doanh nghiệp xây lắp
thường bị chiếm dụng vốn trong thời gian dài, tốc độ quay vòng vốn lưu động
thấp. Nhu cầu vốn lưu động cần thiết cho thi công lớn trong khi vốn chủ sở
hữu chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn nên các doanh nghiệp xây lắp phải
huy động vốn bên ngoài, chủ yếu là vốn vay ngân hàng.
1.3.3.4. Về tổ chức quản lý của doanh nghiệp xây lắp
Hoạt động tổ chức quản lý, điều hành có ảnh hưởng lớn đến tiến độ hồn
thành, chất lượng các cơng trình xây dựng và hiệu quả sản xuất kinh doanh

Trần Phương Anh

Lớp Ngân hàng 46C


Chuyên đề tốt nghiệp

17

của doanh nghiệp xây lắp. Hoạt động sản xuất thường diễn ra ở ngoài trời,
chịu nhiều ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên nên địi hỏi cơng tác tổ chức,
quản lý trong xây dựng phải khoa học, hợp lý để đảm bảo phối hợp tốt hoạt

động của các đội, nhóm lao động, đảm bảo cung ứng, dự trữ, bảo quản vật
liệu…tránh rủi ro và đem lại hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp.
1.4. Vai trị của tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp
Trong nền kinh tế, xuất phát từ sự khác biệt về đặc điểm tuần hoàn luân
chuyển vốn cũng như về chu kỳ kinh doanh, chu kỳ thu nhập của các doanh
nghiệp mà một số doanh nghiệp thiếu hụt về vốn trong khi một số chủ thể
khác lại tạm thời thặng dư vốn. Tín dụng trung, dài hạn đã khắc phục tình
trạng này bằng cách tập trung vốn tiền tệ nhàn rỗi của các chủ thể trong nền
kinh tế để cung cấp cho các chủ thể cần vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh. Nhờ đó đã làm giảm hệ số tiền nhàn rỗi trong lưu thông, tăng nhanh
tốc độ quay vịng của vốn, góp phần điều hịa vốn đảm bảo cho quá trình sản
xuất kinh doanh được liên tục. Như vậy, nếu khơng có nguồn vốn tín dụng
trung, dài hạn thì doanh nghiệp khó có thể thực hiện được mục đích kinh tế
của mình trong những điều kiện cụ thể, hay nói cách khác là nhờ nguồn vốn
tín dụng trung, dài hạn bổ sung kịp thời, các doanh nghiệp mới có cơ hội để
khai thác và nắm bắt được thời cơ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình. Tín dụng trung, dài hạn cũng phát huy vai trò quan trọng đối với doanh
nghiệp xây lắp :
- Tín dụng trung, dài hạn đáp ứng nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp
xây lắp, giúp các doanh nghiệp này duy trì và mở rộng quá trình sản xuất kinh
doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh đồng thời tạo điều kiện cho doanh
nghiệp tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường.
Thông qua tài trợ cho việc sửa chữa, thay thế, đổi mới máy móc thiết bị,
các dự án xây dựng phát triển, tín dụng trung, dài hạn đã góp phần quan trọng

Trần Phương Anh

Lớp Ngân hàng 46C



Chuyên đề tốt nghiệp

18

tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế, tạo điều kiện cần cho sự
phát triển của đất nước.
- Tín dụng trung, dài hạn thúc đẩy quá trình tập trung vốn, tập trung sản
xuất của doanh nghiệp xây lắp đối với nền kinh tế.
Ngân hàng và các doanh nghiệp xây lắp có quan hệ lâu dài nên ngân
hàng có thể nắm được tình hình tổ chức cũng như chu kỳ sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Với vai trị của mình, tín dụng ngân hàng góp phần điều
hịa vốn giữa các doanh nghiệp xây lắp, thúc đẩy toàn bộ ngành xây dựng
phát triển, tăng cường chữ tín với khách hàng.
Tuy nhiên, tín dụng ngân hàng đặc biệt là tín dụng trung, dài hạn thường
được tập trung tài trợ cho các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp làm ăn hiệu
quả. Điều này bắt buộc các doanh nghiệp xây lắp phải chủ động đứng vững và
có sức cạnh tranh lớn trên thị trường.
Hơn nữa, khi cho vay, ngân hàng thường tìm hiểu tình hình tài chính của
doanh nghiệp, đánh giá mặt mạnh, mặt yếu, rủi ro của doanh nghiệp. Do vậy,
để có thể vay vốn ngân hàng, các doanh nghiệp phải đảm bảo khả năng tài
chính tốt. Tín dụng ngân hàng trở thành cơng cụ kích thích quá trình sản xuất,
quản lý kinh tế, kiểm tra, giám sát các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
- Tín dụng trung, dài hạn góp phần tác động đến tăng cường chế độ hạch
toán kinh tế của doanh nghiệp xây lắp.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng ngân hàng là dựa trên cơ sở cho vay có
hồn trả cả gốc và lãi. Điều này buộc các doanh nghiệp phải tính tốn để có
một tỷ lệ lãi trên vốn vay lớn hơn lãi suất cho vay của ngân hàng, kích thích
việc sử dụng vốn có hiệu quả. Khi sử dụng vốn vay ngân hàng, các doanh
nghiệp phải đảm bảo khả năng hoàn trả nợ vay đúng hạn, thực hiện đúng theo
hợp đồng tín dụng.Vì thế địi hỏi các doanh nghiệp phải sáng tạo trong việc


Trần Phương Anh

Lớp Ngân hàng 46C


Chuyên đề tốt nghiệp

19

nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất, tăng vịng quay vốn,
nâng cao doanh lợi của doanh nghiệp.
Tóm lại, tín dụng trung, dài hạn có vai trị rất quan trọng, được coi như
một mắt xích khơng thể thiếu đối với hoạt động của các doanh nghiệp và của
tồn bộ nền kinh tế. Tín dụng trung, dài hạn mang lại lợi nhuận cao cho ngân
hàng, giúp doanh nghiệp làm ăn có lãi. Đặc biệt trong điều kiện Việt Nam
hiện nay, khi cơ cấu kinh tế nhiều mặt chưa hợp lý, thất nghiệp ở mức độ cao,
thì đầu tư tín dụng trung, dài hạn góp phần sắp xếp lại sản xuất, từng bước
hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Hoạt động tín dụng trung, dài hạn giúp cho
việc khai thác sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, nguồn tài nguyên, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần giải quyết tốt các vấn đề của xã hội.
1.5. Chất lượng tín dụng trung, dài hạn của NHTM
1.5.1. Khái niệm chất lượng tín dụng trung, dài hạn
Tín dụng trung, dài hạn của NHTM có vai trị quan trọng trong việc đáp
ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Tín dụng trung, dài hạn quyết định sự tồn
tại và phát triển của ngân hàng thương mại. Tín dụng trung, dài hạn hiệu quả
làm tăng thêm vốn từ việc tăng vòng quay vốn, thu hút nhiều khách hàng,
tăng khả năng sinh lời của các dịch vụ ngân hàng. Tuy nhiên, nghiệp vụ tín
dụng đặc biệt là tín dụng trung, dài hạn tiềm ẩn nhiểu rủi ro đối với hoạt động
ngân hàng. Vì vậy, để đảm bảo mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động, kiểm

soát rủi ro, ngân hàng phải nâng cao chất lượng tín dụng nói chung cũng như
chất lượng tín dụng trung, dài hạn nói riêng.
Để hiểu một cách đầy đủ về chất lượng tín dụng trung, dài hạn, trước
tiên chúng ta cần đưa ra định nghĩa về chất lượng.
Chất lượng là toàn bộ các đặc tính của một hàng hóa hoặc dịch vụ đáp
ứng được yêu cầu của người mua. Vật liệu, kiểu dáng, kỹ thuật chế biến là

Trần Phương Anh

Lớp Ngân hàng 46C


Chuyên đề tốt nghiệp

20

những đặc điểm quan trọng của chất lượng sản phẩm ảnh hưởng đến việc
người tiêu dùng mua sản phẩm đó.
Chất lượng tín dụng là khái niệm phản ánh hiệu quả hoạt động tín dụng
của ngân hàng. Chất lượng tín dụng là sự thỏa mãn nhu cầu của khách hàng
góp phần vào sự phát triển xã hội, đồng thời đảm bảo sự tồn tại và phát triển
của ngân hàng.
Tùy thuộc vào từng đối tượng tham gia vào quan hệ tín dụng mà chất
lượng tín dụng được đánh giá dựa trên các giác độ khác nhau :
- Đối với sự phát triển kinh tế xã hội : tín dụng phục vụ sản xuất lưu
thơng hàng hóa, góp phần giải quyết công ăn việc làm, khai thác khả năng
tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy q trình tích tụ và tập trung sản xuất,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Đối với khách hàng : tín dụng phải phù hợp với mục đích sử dụng của
khách hàng với lãi suất và kỳ hạn nợ hợp lý, thủ tục đơn giản, thuận tiện.

- Đối với ngân hàng :
Chất lượng tín dụng trước hết được đánh giá qua tính an tồn của khoản
tín dụng hay khả năng trả nợ của khách hàng. Vốn cho vay ra phải được hoàn
trả đầy đủ và đúng hạn.
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh
doanh tiền tệ nên ngoài việc đảm bảo an tồn vốn vay thì việc gia tăng lợi
nhuận là mục tiêu mà ngân hàng luôn hướng tới. Một khoản cho vay có chất
lượng là khoản cho vay được hoàn trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi.
Ngoài ra, chất lượng tín dụng đối với ngân hàng thương mại còn được
đánh giá qua khả năng mở rộng thị phần, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh
dịch vụ, tối ưu hóa lợi nhuận ngân hàng.
Như vậy, có thể thấy chất lượng tín dụng là mục tiêu tổng hợp, phản ánh
mức độ thích nghi của ngân hàng thương mại với sự thay đổi của môi trường

Trần Phương Anh

Lớp Ngân hàng 46C


Chuyên đề tốt nghiệp

21

bên ngoài, thể hiện sức mạnh của một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để
tồn tại.
Chất lượng tín dụng trung, dài hạn phản ánh kết quả hoạt động tín dụng
trung, dài hạn của ngân hàng thương mại. Chất lượng tín dụng trung, dài hạn
được thể hiện qua các chỉ tiêu như chỉ tiêu khả năng sinh lãi, tỷ lệ nợ quá hạn,
nợ xấu…
1.5.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn

1.5.2.1. Các chỉ tiêu định tính
- Các khoản tín dụng trung, dài hạn được thực hiện theo đúng quy trình
tín dụng. Quy trình tín dụng là tổng hợp các ngun tắc, quy định của ngân
hàng trong việc cấp tín dụng. Việc có thực hiện đúng các quy trình tín dụng
hay khơng ảnh hưởng trực tiếp đến tính an tồn và khả năng sinh lời của
khoản vay.
- Thời gian xét duyệt một khoản tín dụng trung, dài hạn. Tín dụng trung,
dài hạn thường được sử dụng để tài trợ cho các dự án đầu tư, mua sắm trang
thiết bị. Do độ rủi ro cao nên thời gian xét duyệt tín dụng trung, dài hạn
thường dài hơn so với một khoản tín dụng ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu thời gian
xét duyệt quá dài sẽ gây ảnh hưởng đến nhu cầu vốn, khả năng sản xuất kinh
doanh của khách hàng. Đối với doanh nghiệp xây lắp, thời gian xét duyệt tín
dụng ảnh hưởng đến tiến độ hồn thành cơng trình, khả năng thực hiện hợp
đồng của doanh nghiệp xây lắp.
- Mức độ hài lòng của khách hàng đối với hoạt động tín dụng của ngân
hàng.
Tuy nhiên, những chỉ tiêu định tính này rất khó để có thể lượng hóa, với
những khách hàng khác nhau thì sự thỏa mãn và đánh giá sẽ khác nhau. Vì
thế, ngân hàng thường sử dụng các chỉ tiêu định lượng để đánh giá vì nó dễ

Trần Phương Anh

Lớp Ngân hàng 46C


Chun đề tốt nghiệp

22

tính tốn. Ngân hàng phân tích tổng hợp các chỉ tiêu, từ đó đưa ra kết luận về

chất lượng tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng.
1.5.2.2. Các chỉ tiêu định lượng
* Tỷ trọng dư nợ tín dụng trung, dài hạn
Dư nợ tín dụng trung, dài hạn
Tỷ trọng dư nợ tín dụng = —————————————
trung, dài hạn

Tổng dư nợ tín dụng

Dư nợ tín dụng trung, dài hạn và tổng dư nợ tín dụng là các chỉ tiêu
mang tính thời điểm. Nó phản ánh lượng vốn ngân hàng đã giải ngân cho các
khoản tín dụng mà khách hàng đang còn nợ ngân hàng tại thời điểm cuối kỳ.
Tổng dư nợ tín dụng phản ánh quy mơ tín dụng, sự tăng trưởng tín dụng
của ngân hàng. Thơng qua chỉ số này cũng đánh giá được khả năng huy động
vốn của ngân hàng. Ngân hàng có tổng dư nợ tín dụng cao chứng tỏ khả năng
huy động vốn của ngân hàng tốt.
Dư nợ tín dụng trung, dài hạn phản ánh lượng vốn trung, dài hạn khách
hàng đang nợ ngân hàng vào thời điểm cuối kỳ. Tỷ trọng dư nợ tín dụng
trung, dài hạn cho biết dư nợ trung, dài hạn chiếm bao nhiêu phần trăm trong
tổng dư nợ.
Qua chỉ tiêu này có thể thấy được chính sách tín dụng của ngân hàng là
mở rộng hay thu hẹp quy mơ tín dụng trung, dài hạn. Thơng thường, do tín
dụng trung, dài hạn có độ rủi ro cao nên tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn thường
thấp hơn so với tỷ trọng dư nợ tín dụng ngắn hạn.
Để đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây
lắp, các ngân hàng thường tính tốn và xem xét chỉ tiêu về tỷ trọng dư nợ tín
dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp :

Trần Phương Anh


Lớp Ngân hàng 46C


Chuyên đề tốt nghiệp

23

Tỷ trọng dư nợ tín dụng
trung, dài hạn đối với

Dư nợ tín dụng TDH đv DNXL
=

——————————————

doanh nghiệp xây lắp

Dư nợ tín dụng TDH

Chỉ tiêu dư nợ tín dụng trung, dài hạn đối với doanh nghiệp xây lắp phản
ánh quy mơ và sự tăng trưởng hoạt động tín dụng trung, dài hạn đối với doanh
nghiệp xây lắp của ngân hàng. Tổng dư nợ tín dụng trung, dài hạn đối với
doanh nghiệp xây lắp cao và tăng trưởng cho thấy ngân hàng đã và đang mở
rộng thị phần trong ngành xây lắp. Ngược lại, dư nợ tín dụng trung, dài hạn
đối với doanh nghiệp xây lắp qua các năm giảm chứng tỏ chính sách thu hẹp
tín dụng đối với doanh nghiệp xây lắp của ngân hàng.
Chỉ tiêu dư nợ tín dụng trung, dài hạn đối với DNXL cần xem xét kết
hợp với chỉ tiêu tỷ trọng dư nợ tín dụng trung, dài hạn đối với DNXL để đánh
giá đầy đủ hơn về tình hình tăng trưởng tín dụng đối với các doanh nghiệp
thuộc ngành nghề này. Chỉ tiêu dư nợ tín dụng mới chỉ phản ánh sự tăng

trưởng tuyệt đối nhưng nếu dư nợ trung, dài hạn đối với DNXL tăng với tốc
độ thấp hơn dư nợ tín dụng trung, dài hạn thì tỷ trọng này lại giảm. Điều này
phụ thuộc chủ yếu vào chính sách tín dụng của ngân hàng trong từng thời kỳ.
Tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn mới chỉ đánh giá được một phần chất
lượng tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng. Để đánh giá cụ thể hơn, ta cần
xem xét đến tính an toàn, lành mạnh và khả năng sinh lời của các khoản tín
dụng trung, dài hạn.
* Tỷ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn
Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN : “nợ quá hạn là khoản nợ mà
một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn”. Một khoản vay không
trả đầy đủ, đúng hạn như thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng thì trở thành nợ
q hạn.

Trần Phương Anh

Lớp Ngân hàng 46C


Chuyên đề tốt nghiệp

24

Tỷ lệ nợ quá hạn là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất
lượng tín dụng của ngân hàng, phản ánh những rủi ro trong hoạt động tín
dụng mà ngân hàng phải đối mặt. Tỷ lệ này được xác định qua công thức sau :
Dư nợ quá hạn trung, dài hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = ————————————————
trung và dài hạn

Tổng dư nợ tín dụng trung, dài hạn


Chỉ tiêu nợ quá hạn cho biết trong tổng dư nợ tín dụng trung, dài hạn của
ngân hàng có bao nhiêu % là nợ quá hạn.
Các khoản nợ quá hạn phát sinh có thế do những nguyên nhân chủ quan
như trình độ quản lý của khách hàng yếu kém, công nghệ sản xuất lạc hậu hay
do những nguyên nhân khách quan như sự thay đổi trong chính sách của nhà
nước, rủi ro trong kinh doanh như thiên tai, chiến tranh…Khả năng thu hồi
các khoản nợ quá hạn cũng khác nhau, có khoản nợ do khách hàng gặp khó
khăn tạm thời, chậm thanh tốn nhưng cũng có khách hàng đình trệ sản suất,
thua lỗ nặng nề, khơng có khả năng trả nợ.
Nếu ngân hàng có nhiều khoản nợ trung, dài hạn quá hạn, tỷ lệ nợ quá
hạn trung, dài hạn cao, ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn, tình trạng kéo dài sẽ
ảnh hưởng đến sự tồn tại của ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn cao, tính an toàn
của khoản vay thấp, ngân hàng đứng trước nguy cơ mất vốn, có thể dẫn đến
mất khả năng thanh tốn. Tỷ lệ nợ quá hạn trung, dài hạn thấp cho thấy chất
lượng tín dụng của ngân hàng cao. Tuy nhiên, việc chuyển nợ quá hạn cần
tuân thủ đúng nguyên tắc, tránh việc gia hạn nợ tràn lan để giảm tỷ lệ nợ quá
hạn.
Thực tế cho thấy hoạt động tín dụng của ngân hàng khơng thể khơng có
nợ q hạn. Ngân hàng phải chấp nhận nợ quá hạn, cố gắng kiểm soát tỷ lệ
này ở mức độ hợp lý.

Trần Phương Anh

Lớp Ngân hàng 46C


Chuyên đề tốt nghiệp

25


Tỷ lệ nợ quá hạn được xem là cao hay thấp cần so sánh với tỷ lệ chung
của ngành và tỷ lệ chấp nhận của chính ngân hàng.
Tỷ lệ nợ quá hạn ≤ 3% : mức độ an toàn của ngân hàng tương đối cao.
Tỷ lệ nợ quá hạn 3%-5% : được coi là bình thường.
Tỷ lệ nợ quá hạn ≥ 5% : hoạt động tín dụng của ngân hàng ẩn chứa
nhiều rủi ro.
Đối với doanh nghiệp xây lắp, ngân hàng thường sử dụng thêm tỷ lệ nợ
quá hạn đối với doanh nghiệp xây lắp để đánh giá :
Dư nợ quá hạn TDH của DNXL
Tỷ lệ nợ quá hạn TDH = ————————————————
đối với DNXL

Tổng dư nợ TDH của DNXL

Qua chỉ tiêu này, ngân hàng có thể xem xét đánh giá khả năng trả nợ của
các DNXL, trên cơ sở đó có những chính sách tín dụng thích hợp đối với
ngành nghề này.
* Chỉ tiêu lợi nhuận
Chất lượng tín dụng của ngân hàng ngồi u cầu an tồn cịn cần tạo ra
lợi nhuận. Nếu một khoản tín dụng chỉ thu được gốc mà khơng thu được lãi
thì sẽ không tạo ra thu nhập cho ngân hàng, không bù đắp được những chi phí
mà ngân hàng bỏ ra để huy động vốn và các chi phí khác. Do vậy, việc phân
tích chỉ tiêu lợi nhuận có ý nghĩa quan trọng đối với đánh giá chất lượng tín
dụng của ngân hàng nói chung cũng như đánh giá chất lượng tín dụng trung,
dài hạn nói riêng.
Lợi nhuận từ tín dụng trung, dài hạn
Chỉ tiêu lợi nhuận = ————————————————
Tổng dư nợ tín dụng trung, dài hạn


Trần Phương Anh

Lớp Ngân hàng 46C


×