Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Phân tích khái niệm, đặc điểm của tội phạm trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.52 KB, 14 trang )

A. MỞ ĐẦU
Khái niệm và đặc điểm của tội phạm là một trong những
vấn đề quan trọng nhất của luật hình sự. Chế định tội phạm là
chế định trung tâm thể hiện rõ nét bản chất giai cấp, các đặc
điểm chính trị, xã hội cũng như pháp lý của luật hình sự ở mỗi
nước. Tội phạm là một hiện tượng xã hội, cho nên khái niệm và
đặc điểm của nó luôn luôn gắn liền với sự phát triển xã. Để bảo
vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, Nhà nước đã quy định hành
vi nào là tội phạm và áp dụng trách nhiệm hình sự hoặc hình
phạt đối với người nào thực hiện các hành vi đó. Do đó, tội
phạm khơng chỉ mang thuộc tính lịch sử-xã hội mà cịn mang
bản chất là một hiện tượng pháp lý. Để làm rõ vấn đề trên, em
xin được lựa chọn đề tài “Phân tích khái niệm, đặc điểm của
tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam” làm bài tiểu luận
cuối kì cho mình.
Do kiến thức và tài liệu tham khảo cịn nhiều hạn chế, bài
tiểu luận của em sẽ không tránh khỏi những sai sót, khuyết
điểm. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý và chỉ dẫn của
các thầy cơ giáo để bài tiểu luận được chất lượng hơn, hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
B. NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM TỘI PHẠM
1. Khái niệm tội phạm trong Bộ luật hình sự năm
1985
Trong lịch sử lập pháp Việt Nam, khái niệm tội phạm lần
đầu tiên được quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự 1985 như sau:
“1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm
1



hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vơ ý, xâm phạm độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xâm
phạm chế độ Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chế độ kinh tế và sở
hữu xã hội chủ nghĩa, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác
của cơng dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa”.
2. Khái niệm tội phạm trong Bộ luật hình sự năm
1999
Kế thừa quy định về khái niệm tội phạm ở Bộ luật hình sự
năm 1985, Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định:
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực
hiện một cách cố ý hoặc vơ ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xâm phạm chế độ
chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật
tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản,
các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm
những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”. 
3. Khái niệm tội phạm trong Bộ luật hình sự năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Kế thừa quy định về khái niệm tội phạm từ các Bộ luật hình
sự trước đó, Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự 2015 quy định như
sau: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn

2


hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi
ích hợp pháp của cơng dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của
trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật
này phải bị xử lý hình sự”. Từ đây, chúng ta có thể phân tích các
khía cạnh của khái niệm này để hiểu rõ hơn về tội phạm được
quy định trong Bộ luật hình sự 2015 như sau:
Thứ nhất, về chủ thể của tội phạm: Nếu như hai Bộ luật
hình sự trước quy định chủ thể của tội phạm chỉ có thể là con
người cụ thể, thì trong Bộ luật hình sự 2015, chủ thể của tội
phạm ngồi con người cịn có thể là pháp nhân thương mại. Đây
chính là điểm mới của Bộ luật hình sự 2015 so với hai Bộ luật
trước đó. Tuy nhiên, khơng phải bất cứ con người cụ thể nào
hoặc pháp nhân thương mại nào cũng là chủ thể của tội phạm.
Họ chỉ có thể trở thành chủ thể của tội phạm nếu như thỏa mãn
được những điều kiện nhất định theo quy định của Bộ luật hình
sự. chủ thể của tội phạm là người thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội, nhưng không phải ai thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội cũng đều là chủ thể của tội phạm, mà chỉ những
người có năng lực trách nhiệm hình sự mới là chủ thể của tội
phạm. Bộ luật hình sự 2015 khơng quy định năng lực trách
nhiệm hình sự là gì, mà chỉ quy định tình trạng khơng có năng
lực trách nhiệm hình sự (Điều 21) và tuổi chịu trách nhiệm hình
sự (Điều 12). Từ quy định này, có thể hiểu chủ thể của tội phạm
phải là người đạt độ tuổi nhất định, có khả năng nhận thức và
điều khiển hành vi của mình.
Thứ hai, về hành vi của tội phạm: Khoản 1 Điều luật xác

định tội phạm phải là hành vi của con người. Những gì mới chỉ
trong tư tưởng, chưa thể hiện ra bên ngồi bằng hành vi thì
3


không thể là tội phạm. Chỉ qua hành vi của mình, con người mới
có thể gây thiệt hại, gây ra sự nguy hiểm cho xã hội. Hành vi
của tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Đó là hành vi đã
gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể đến các quan hệ xã
hội được luật hình sự bảo vệ. Nếu thiệt hại gây ra hoặc đe dọa
gây ra khơng đáng kể thì khơng phải là hành vi nguy hiểm cho
xã hội và không bị coi là hành vi phạm tội. Việc đánh giá hành
vi nào là nguy hiểm cho xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
nhau. Khi đã xác định một hành vi là nguy hiểm cho xã hội cũng
tức là đã coi hành vi đó là hành vi phạm tội. Tuy nhiên người
thực hiện hành vi đó có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay
khơng cịn phải căn cứ vào các yếu tố khác như tuổi chịu trách
nhiệm hình sự, lỗi và các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình
sự,…
Thứ ba, về yếu tố lỗi: Tính có lỗi tuy là bộ phận hợp thành
của tính nguy hiểm cho xã hội, nhưng để nhấn mạnh nguyên
tắc lỗi, Bộ luật hình sự 2015 đã tách tính có lỗi thành dấu hiệu
độc lập (cố ý hoặc vô ý). Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối
với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi đó
dưới hình thức cố ý hoặc vơ ý. Luật hình sự coi lỗi là một dấu
hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm. Nếu một hành vi nguy
hiểm cho xã hội không bị coi là có lỗi thì người có hành vi nguy
hiểm cho xã hội khơng bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thứ tư, về khách thể của tội phạm: Khách thể của tội
phạm là các quan hệ xã hội bị xâm phạm mà các quan hệ xã

hội đó được Bộ luật hình sự bảo vệ. Khách thể là một yếu tố rất
quan trọng, các hành vi xâm phạm đến các quan hệ xã hội
không phải là khách thể của tội phạm thì khơng phải là tội
phạm. Bộ luật hình sự 2015 chỉ bảo vệ những quan hệ xã hội có
4


liên quan trực tiếp đến độc lập, chủ quyền, thống nhất, tồn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền
văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự an tồn xã hội, quyền, lợi
ích hợp pháp của tổ chức, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của
công dân và những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội
chủ nghĩa.
4. Ý nghĩa của khái niệm tội phạm
Khái niệm tội phạm là một trong những khái niệm cơ bản
nhất của luật hình sự, trong đó xác định đầy đủ các yếu tố cấu
thành tội phạm như hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm,
năng lực chịu trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hình sự của
người phạm tội và các vấn đề khác. Từ khái niệm tội phạm, luật
hình sự xác định các khái niệm khác nhau như cơ sở của trách
nhiệm hình sự, hình thức lỗi, các giai đoạn thực hiện tội phạm,
đồng phạm, các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự,…Cũng
từ khái niệm này, trong phần các tội phạm, luật hình sự quy
định các điều luật với những khung hình phạt cụ thể để phân
hóa trách nhiệm hình sự, hình phạt.
Trong thực tiễn áp dụng, cơ quan có thẩm quyền tuy dựa
vào cấu thành tội phạm để xác định tội phạm nhưng phải trên
cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ về khái niệm, bản chất
cũng như những đặc điểm của tội phạm nói chung mới có thể

áp dụng luật hình sự một cách đúng đắn qua việc xác định đúng
tội danh, đánh giá đúng tính chất và mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội.
5. Điểm mới trong quy định về khái niệm tội phạm
trong Bộ luật hình sự 2015 so với các Bộ luật hình sự
trước đó
5


Bộ luật hình sự 2015 đã có một số điểm mới tiến bộ hơn
các Bộ luật trước đó trong khái niệm tội phạm. Việc nghiên cứu
những điểm mới cũng như những nội dung trong khái niệm tội
phạm khơng chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà cịn có ý nghĩa to
lớn trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm của Đảng
và Nhà nước ta. Điều này được thể hiện qua một số nội dung cụ
thể như sau:
Thứ nhất, Bộ luật hình sự 2015 bổ sung chủ thể chịu trách
nhiệm hình sự khơng những chỉ có cá nhân mà cịn có pháp
nhân thương mại. Đây là nội dung hồn tồn mới và là lần đầu
tiên pháp luật hình sự Việt Nam bổ sung chủ thể pháp nhân
thương mại với tư cách là một loại chủ thể phải chịu trách
nhiệm hình sự để đáp ứng với tình hình mới. Thực tế đấu tranh
phòng chống các loại tội phạm trên lĩnh vực kinh tế trong thời
gian qua cho thấy một số tổ chức kinh tế lợi dụng việc Bộ luật
hình sự chưa quy định pháp nhân thương mại phải chịu trách
nhiệm hình sự nên đã thực hiện nhiều loại hành vi nguy hiểm
gây thiệt hại rất lớn cho xã hội, trong khi đó chế tài xử lý vi
phạm hành chính thì không đủ sức răn đe, nên việc bổ sung
pháp nhân thương mại vào nhóm chủ thể phải chịu trách nhiệm
hình sự là hết sức cần thiết.

Thứ hai, Bộ luật hình sự 2015 đưa quyền con người vào
nhóm quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị hành vi
phạm tội xâm hại. Hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào
chính thức đưa ra định nghĩa về quyền con người. Hiến pháp
năm 2013 được ban hành, tuy không nêu định nghĩa về quyền
con người, nhưng nội dung của Hiến pháp đã xác định rõ chủ
thể và nội dung của quyền con người. Theo Hiến pháp thì quyền
con người được hiểu là quyền tự nhiên sẵn có và bất cứ ai sinh
6


ra cũng được hưởng quyền đó, bao gồm cả cơng dân Việt Nam,
người nước ngồi và cả người khơng có quốc tịch.
Lý giải cho việc bổ sung quyền con người vào nhóm quan
hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, nhà làm luật lý giải là việc
bổ sung quyền con người nhằm phù hợp với tinh thần Hiến pháp
mới về việc tiếp tục ghi nhận và bảo vệ mạnh mẽ hơn quyền
con người. Khi “đạo luật gốc” xác định quyền con người là một
trong những quyền cơ bản cần được cơng nhận, tơn trọng, bảo
vệ thì Bộ luật hình sự 2015 bổ sung quyền con người vào các
quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ là hợp lý và cần thiết.
Thứ ba, bổ sung dấu hiệu về hậu quả pháp lý "phải bị xử lý
hình sự" vào khái niệm tội phạm. Trong khoa học hình sự, một
hành vi bị coi là tội phạm khi có đủ bốn dấu hiệu, bao gồm: tính
nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật và tính phải
bị xử lý hình sự. Tính phải bị xử lý hình sự đối với một hành vi
được hiểu là hành vi đó phải được quy định trong Bộ luật hình
sự bằng một tội phạm cụ thể và kèm theo đó một hình phạt
cũng như các biện pháp xử lý hình sự khác tương ứng. Hay nói
khác hơn, đấu hiệu phải bị xử lý hình sự là dấu hiệu ln gắn với

mọi tội phạm trong Bộ luật hình sự.
Tuy nhiên, trong Bộ luật hình sự 1985 và Bộ luật hình sự
1999 thì dấu hiệu này chưa được ghi nhận trong khái niệm tội
phạm. Đây có thể nói là hạn chế, thiếu sót của hai Bộ luật này.
Vì vậy, việc bổ sung dấu hiệu "phải bị xử lý hình sự" vào khái
niệm tội phạm trong Bộ luật hình sự 2015 là nhằm khắc phục
hạn chế trong khái niệm tội phạm của các Bộ luật hình sự trước
đây. Đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để khẳng định tính
phải bị xử lý hình sự là một những dấu hiệu của tội phạm, đảm
bảo tính răn đe của pháp luật hình sự, nhằm nâng cao hiệu quả
7


đấu tranh phịng, chống tội phạm trước tình hình tội phạm ngày
càng diễn biến phức tạp, tinh vi cần phải được ngăn chặn một
cách có hiệu quả trên thực tế.
II. CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA TỘI PHẠM
Điều 8 Bộ luật hình sự quy định, tội phạm là hành vi nguy
hiểm cho xã hội. Hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội
phạm chứa đựng đầy đủ các dấu hiệu: Tính nguy hiểm cho xã
hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự và tính phải chịu hình
phạt.
1. Tính nguy hiểm cho xã hội
Tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản, quan trọng
nhất, quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm. Hành vi
của một cá nhân hoặc pháp nhân thương mại được coi là nguy
hiểm cho xã hội nếu nó khơng phù hợp với chuẩn mực hoặc đạo
đức xã hội, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội.
Thiệt hại do tội phạm gây ra có thể là thiệt hại về thể chất (tính
mạng, sức khỏe con người), thiệt hại về vật chất (tài sản), thiệt

hại về danh dự, nhân phẩm hay những tác hại gây ra cho an
ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội... Khoản 2 Bộ luật hình sự
2015 quy định: “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm
nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội khơng đáng kể thì khơng
phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác”. Ví dụ,
trộm cắp tài sản có giá trị chưa đến 2 triệu đồng mà chưa gây
ra hậu quả nghiêm trọng hoặc chưa bị xử lý hành chính về hành
vi chiếm đoạt, chưa bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản hoặc đã
bị kết án nhưng đã được xóa án tích thì khơng coi là tội phạm.
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm tồn tại một cách
độc lập, khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của
con người. Tuy nhiên, những nhà làm luật xác định sự đáng kể
8


của hành vi nguy hiểm cho xã hội dựa trên điều kiện kinh tế - xã
hội, tình hình phịng chống tội phạm... Người áp dụng pháp luật
xác định sự đáng kể của hành vi nguy hiểm cho xã hội dựa vào
những quy định của Bộ luật hình sự. Theo đó những tình tiết,
căn cứ nhận thức, đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm bao gồm: tính chất, tầm quan trọng của mối quan hệ xã
hội bị xâm hại; tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội;
mức độ thiệt hại gây ra hoặc đe dọa gây ra; tính chất, mức độ
lỗi; động cơ, mục đích của người thực hiện hành vi; phương
pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện; hồn cảnh chính trị - xã
hội tại địa điểm và thời điểm hành vi phạm tội xảy ra; nhân thân
người thực hiện hành vi; những tình tiết tăng nặng hoặc giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi.
Tính nguy hiểm cho xã hội là đặc điểm thể hiện dấu hiệu
về nội dung của tội phạm. Chính vì vậy, việc xác định dấu hiệu

này khơng chỉ là căn cứ để phân biệt hành vi phạm tội với
những hành vi vi phạm pháp luật khác mà còn là cơ sở để xác
định tội phạm, phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa tội
phạm.
2. Tính có lỗi
Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự thì tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ
luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc
pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý. Lỗi là
thái độ chủ quan của con người đối với hành vi (có tính gây thiệt
hại cho xã hội) của mình và đối với hậu quả của hành vi đó thể
hiện dưới dạng cố ý hoặc vơ ý. Người thực hiện hành vi có tính
gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu họ đã lựa chọn và
thực hiện trong khi họ có đủ điều kiện lựa chọn xử sự khác
9


không gây thiệt hại cho xã hội. Một người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội, nếu khơng có lỗi thì khơng được coi là
hành vi phạm tội. Bộ luật hình sự 2015 quy định một số trường
hợp khơng phải là tội phạm do người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội nhưng khơng có lỗi như: sự kiện bất ngờ; phịng
vệ chính đáng; tình thế cấp thiết; gây thiệt hại trong khi bắt giữ
người phạm tội; rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng
tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ; thi hành mệnh lệnh
của người chỉ huy hoặc cấp trên.
Khi xác định “có lỗi” là một dấu hiệu của tội phạm cùng với
dấu hiệu “nguy hiểm cho xã hội”, Bộ luật hình sự muốn nhấn
mạnh ngun tắc có lỗi. Luật hình sự Việt Nam không chấp
nhận việc quy tội khách quan, nghĩa là truy cứu trách nhiệm

hình sự chỉ căn cứ vào việc một người đã thực hiện hành vi gây
thiệt hại cho xã hội mà không căn cứ vào lỗi của họ. Việc áp
dụng hình phạt khơng chỉ nhằm mục đích trừng trị mà qua đó
cịn nhằm mục đích giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật, phòng
ngừa tội phạm xảy ra. Mục đích giáo dục này chỉ có thể đạt
được khi hình phạt được áp dụng cho người có lỗi. Đối với người
khơng có lỗi, hình phạt khơng thể phát huy được tác dụng giá
dục. Do vậy, “có lỗi” phải được xác định là một nguyên tắc của
Bộ luật hình sự và được coi là một dấu hiệu quan trọng của tội
phạm.
3. Tính trái pháp luật hình sự (tính được quy định trong Bộ luật
hình sự)
Đây là đặc điểm thể hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ
nghĩa của luật hình sự Việt Nam. Theo đó, bất kỳ một hành vi
nào bị coi là tội phạm cũng đều được quy định trong Bộ luật
hình sự. Đặc điểm này xuất phát từ nguyên tắc “Không ai bị kết
10


tội vì một hành vi mà lúc họ thực hiện luật pháp quốc gia hay
quốc tế không coi là tội phạm” được ghi nhận tại Khoản 2 Điều
11 Tuyên bố thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc, được Bộ
luật hình sự 2015 pháp điển hố tại Điều 2 “1. Chỉ người nào
phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu
trách nhiệm hình sự; 2. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm
một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải
chịu trách nhiệm hình sự” và khoản 1 Điều 8 “Tội phạm là hành
vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự”.
Do đó, một người thực hiện hành vi dù nguy hiểm cho xã hội
đến đâu nhưng hành vi đó chưa được quy định trong Bộ luật

hình sự thì khơng bị coi là tội phạm.
Việc xác định “được quy định trong luật hình sự ” là dấu
hiệu của tội phạm không những là cơ sở đảm bảo cho việc
chống tội phạm được thống nhất, tránh tuỳ tiện mà còn là động
lực thúc đẩy cơ quan lập pháp phải kịp thời bổ sung, sửa đổi
luật theo sát sự thay đổi của tình hình tội phạm. Tính được quy
định trong luật hình sự tuy chỉ là dấu hiệu về mặt hình thức
pháp lí, phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu về mặt
nội dung chính trị, xã hội của tội phạm nhưng vẫn có tính độc
lập tương đối và có ý nghĩa quan trọng. Nếu chỉ coi trọng tính
nguy hiểm của xã hội sẽ dễ dẫn đến tình trạng tuỳ tiện trong
việc xác định tội phạm . Ngược lại, nếu quá coi trọng tính được
quy định trong luật hình sự sẽ dễ dẫn đến tình trạng xác định
tội phạm một cách hình thức, máy móc. Nhằm tránh những
trường hợp như vậy, khoản 2 Điều 8 Bộ luật hình sự 2015 quy
định : “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính
chất nguy hiểm cho xã hội khơng đáng kể thì không phải là tội
phạm...”.
11


Có thể thấy, tính trái pháp luật hình sự và tính nguy hiểm
cho xã hội là hai dấu hiệu có mối quan hệ biện chứng với nhau,
tính trái pháp luật hình sự là dấu hiệu về mặt hình thức pháp lí
phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Đặc điểm
này có ý nghĩa về thực tiễn là tránh việc xử lý tuỳ tiện của người
áp dụng pháp luật, bởi lẽ để đánh giá hành vi có phải là tội
phạm hay không, trước hết người áp dụng pháp luật phải xem
xét hành vi đó có được quy định trong Bộ luật hình sự hay
khơng rồi mới xem xét đến tính nguy hiểm cho xã hội của hành

vi đó. Về mặt lý luận, nó giúp cho cơ quan lập pháp kịp thời bổ
sung sửa đổi Bộ luật hình sự theo sát sự thay đổi của tình hình
kinh tế - xã hội để cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm
đạt hiệu quả.
4. Tính phải chịu hình phạt (tính phải được xử lý hình sự)
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của
Nhà nước đối với người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm
tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp
nhân thương mại đó. Tính nguy hiểm cho xã hội vừa là cơ sở
của việc phân hố tính chịu hình phạt trong luật, vừa là cơ sở để
cá thể hố hình phạt trong áp dụng luật hình sự. Tính chịu hình
phạt được coi là dấu hiệu của tội phạm vì nó được xác định bởi
chính những thuộc tính khách quan bên trong của tội phạm. Chỉ
có hành vi phạm tội mới phải chịu biện pháp trách nhiệm là
hình phạt, khơng có tội phạm thì cũng khơng có hình phạt. Bộ
luật hình sự năm 2015 bổ sung đặc điểm “phải bị xử lí hình sự”
trong định nghĩa khái niệm tội phạm tại Điều 8 mà khơng sử
dụng đặc điểm “phải chịu hình phạt” vì cho rằng biện pháp xử
lý hình sự khơng chỉ là hình phạt mà cịn gồm cả các biện pháp
hình sự phi hình phạt. Tuy nhiên, hình phạt vẫn là biện pháp xử
12


lí hình sự cơ bản có tính đặc trưng. Xét về bản chất, đặc điểm
“phải bị xử lý hình sự” và đặc điểm “phải chịu hình phạt” khơng
có sự khác nhau. Đặc điểm “phải bị xử lí hình sự” phản ánh bao
qt hơn, cịn đặc điểm “phải chịu hình phạt” phản ánh được
nội dung chính có tính đặc trưng, cụ thể của biện pháp hình sự.
Nói tội phạm có tính chịu hình phạt có nghĩa là bất cứ hành vi
phạm tội nào do tính nguy hiểm cho xã hội cũng đều bị đe dọa

phải chịu hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước có tính
nghiêm khắc nhất trong hệ thống những biện pháp cưỡng chế.
Khi quyết định hình phạt, Tịa án căn cứ vào quy định của
Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm
nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Như vậy, tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội là cơ sở để phân
hóa, cá thể hóa hình phạt khi áp dụng đối với từng trường hợp
phạm tội cụ thể.
C. KẾT LUẬN
Như vậy, việc xác định khái niệm và đặc điểm của tội
phạm có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ sở để nghiên cứu sâu hơn
về phần các tội phạm cụ thể. Qua những phân tích trên, có thể
hiểu một cách chung nhất tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã
hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến các quan hệ xã hội được
luật hình sự bảo vệ và phải bị xử lý hình sự. Bên cạnh đó, một
hành vi được coi là tội phạm chỉ khi có sự tổng hợp của bốn đặc
điểm là tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật
hình sự và tính phải chịu hình phạt. Nếu thiếu dù chỉ một trong
bốn đặc điểm đó thì hành vi đó khơng thể bị coi là tội phạm.
13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội: Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam phần chung, năm 2020.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam
phần chung, NXB. Cơng an nhân dân, năm 2018.

3. Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
4. GS.TS Nguyễn Ngọc Hịa: Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
năm 2015 (được sửa đối, bổ sung năm 2017) phần chung, NXB.
Tư pháp.
5. Đinh Văn Quế: Bình luận Bộ luật hình sự 2015, phần thứ nhất
– Những quy định chung, NXB. Thông tin và truyền thông.
6. “Tội phạm và cấu thành tội phạm”,
/>7. TS. Trương Quang Vinh, “Bàn về khái niệm "tội phạm" trong
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999”,
/>8. ThS. Nguyễn Thị Vân, “Những điểm mới trong khái niệm tội
phạm của Bộ luật Hình sự năm 2015”,
/>
14



×