Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Sự cần thiết khách quan thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.38 KB, 44 trang )

Việt Nam
Việt Nam sau một thời gian chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập
trung sang cơ chế thị trờng - định hớng CNXH - có sự điều tiết của Nhà nớc,
đã đạt đợc những thành tựu vô cùng to lớn và ý nghĩa trong sự tăng trởng và
phát triển kinh tế. Nhịp độ tăng trởng bình quân hằng năm về kinh tế của nớc
ta đợc đánh giá là đạt mức khá cao so với nhịp độ tăng trởng bình quân của
thế giới (tốc độ đó là xấp xỉ 9% trong giai đoạn 1990 - 1999 và năm 1995 đạt
mức cao nhất là 9,5%). Do vậy, đến nay mới chỉ sau hơn 10 năm đổi mới, bộ
mặt nền kinh tế xã hội của Việt Nam đã có nhũng thay đổi rõ rệt, từ một nền
kinh tế xã hội yếu kém và lạc hậu về mọi mặt, nay đang trên đà phát triển
không ngừng vói việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với gần 170 quốc gia
và tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế của thế giới. Thành công này là kết quả
tất yếu của việc phát huy nội lực kết hợp với việc tranh thủ mọi nguồn lực, cơ
hội từ các nớc khác, trong đó không thể không kể đến vai trò của hoạt động
đầu t trực tiếp nớc ngoài (FDI).
Luật đầu t nớc ngoài ban hành và thực hiện ở Việt Nam đã đợc hơn 10
năm (Luật này đợc ban hành và có hiệu lực từ tháng 12/1987). Suốt trong
thời gian này, FDI đã trở thành một bộ phận quan trọng và có tốc độ phát
triển nhanh nhất trong các hoạt động kinh tế đối ngoại của nớc ta, đóng góp
tích cực và ngày càng lớn vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nớc. Là một
nhân tố góp phần vào thành công cuỉa công cuộc đổi mới nền kinh tế. Với tốc
độ phát triển đến chóng mặt của nền kinh tế toàn cầu, để đẩy nhanh tiến trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nớc cũng nh để tiếp thu và vận dụng có
hiệu quả cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật thì trớc tiên chúng ta cần tập
trung đợc một nguồn vốn lớn trong tay. Mặt khác, ta biết rằng, nguồn vốn có
đợc ở trong nớc và nguồn vốn FDI ngày càng chiếm vị trí đặc biệt quan trọng
trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nớc, đồng thời nó cũng đáp
ứng yêu cầu mở cửa và hợp tác liên doanh giữa các cơ sở sản xuất trong nớc
và các tổ chức kinh tế doanh nghiệp nớc ngoài. Để đánh giá một cách đầy đủ
hơn về vai trò của FDI cũng nh những hạn chế nhất định của nó, hơn thế nữa,
để có những chủ trơng, giải pháp đúng đắn cho phơng hớng thu hút FDI trong


thời gian tới thì cần thiết phải nhìn nhận lại thực trạng hoạt động của FDI
trong những năm qua.
1
I. Sự cần thiết khách quan thu hút vốn đầu t
trực tiếp của nớc ngoài (FDI):
1. Đối với quá trình toàn cầu hoá:
Có thể nói, mối quan hệ giữa quá trình toàn cầu hoá với việc đầu t trựuc
tiếp của nớc ngoài là một mối quan hệ hai chiều và gắn bó; chúng là cơ sở,
đồng thời là mục tiêu hớng tới của nhau.
1.1. Về vai trò của FDI đối với quá trình toàn cầu hoá:
a, Trớc tiên, FDI là một trong những yếu tố năng động nhất trong
luồng các nguồn lực quốc tế đang tăng lên đối với các nớc đang phát triển.
Các Công ty triển khai chúng (gọi là các Công ty xuyên quốc gia - TNCS)
hiện đang là nhân tố quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu.
Các TNC có thể ảnh hởng đến sự phát triển thông qua khuyến khích đầu
t trong nớc, thông qua tiến hành hoạt động thơng mại và chuyển giao kiến
thức, kỹ năng và công nghệ. Tuy nhiên, các TNC không thể thay thế cho
những nỗ lực trong nớc. Chúng chỉ có thể cung cấp những cách tiếp cận tài
sản hữu hình và vô hình và là chất xúc tác cho đầu t và các năng lực trong n-
ớc. Trong một thế giới của sự cạnh tranh khốc liệt và những thay đổi công
nghệ nhanh chóng, vai trò động viên và xúc tiến này có thể là rất quan trọng.
Bởi vì, toàn cầu hoá có những nguy hiểm của nó, các nớc cần phải chuẩn bị
những năng lực riêng để khai thác những tiềm năng của mình, bao gồm cả
việc thông qua FDI.
b, FDI làm thu hẹp không gian kinh tế và thay đổi các điều kiện cạnh
tranh:
Sự tiến bộ kỹ thuật trong ngành vận tải và thông tin đã làm cho không
gian kinh tế co lại đáng kể. Các nớc ngày nay phải đối mặt với sự cạnh tranh
trực tiếp và ác liệt hơn bao giờ hết. Điều này dẫn tới một sự tái cấu trúc mạnh
mẽ những lợi thế so sánh và hành động của họ.

Bản chất của cạnh tranh là tự nó là một sự thay đổi với sự xuất hiện
nhanh chóng các sản phẩm mới, chu kì sản phẩm ngắn hơn, tính kịp thời của
2
việc đáp ứng nhu cầu và sự tác động lẫn nhau giữa các khách hàng trở nên
quan trọng hơn các dạng truyền thống của sự cạnh tranh dựa trên chi phí
thấp. ở tầm doanh nghiệp, điều này đòi hỏi các kĩ năng quản lý và các dạng
tổ chức mới. ở tầm quốc gia nó đòi hỏi các nớc phải mở cửa nhiều hơn đối
với các luồng thông tin quốc tế để phát triển các năng lực quốc gia nhằm hấp
thụ và sử dụng các thông tin này, để phát triển các kĩ năng mới, các định chế
và năng lực sáng tạo mới.
c, Các nớc đều coi FDI là một nguồn vốn ổn định hơn so với vốn ngắn
hạn và có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, đồng thời là nguồn
chuyển giao công nghệ chính yếu cho các nứoc tiếp nhận. Việc gia tăng
nguồn đầu t sẽ góp phần khắc phục khủng hoảng và giúp các nớc bị ảnh h-
ởng nhanh chóng phục hồi. Đây cũng là nguyên nhân làm cho cuộc đua tranh
giành lấy nguồn vốn FDI giữa các nớc trở nên gay gắt, quyết liệt.
d, Từ vài thập niên trở lại đây, đầu t trực tiếp nớc ngoài đã góp phần
không nhỏ trong quá trình tăng trởng của nhiều nớc, trong đó có cả sự thần
kì Châu á. Sự bùng nổ của đầu t và thơng mại ở tất cả các vùng trên thế giới
trong mấy năm gần đây là nhân tố chính góp phần thúc đẩy quá trình toàn
cầu hoá kinh tế ngày một lan rộng. Khu vực Châu á - Thái Bình Dơng đã trở
thành một điểm sáng trên bản đồ phân bổ đầu t của thế giới với nhiều lợi thế
về lao động, nguồn lực mà các nhà đầu t coi là rất có triển vọng và đặt nhiều
niềm tin.
1.2. Đồng thời, toàn cầu hoá cũng là một nguyên nhân thúc đẩy đầu
t trực tiếp, mà nòng cốt là các TNCs, MNCs của rất nhiều quốc gia khác
nhau. Đấy là vì:
a, Đằng sau những sự tăng trởng kinh tế (đợc coi là mục tiêu hàng đầu)
là quá trình hợp nhất, thôn tính và t nhân hoá tăng lên nhanh chóng. Các quốc
gia đều có nỗ lực riêng để thu hút đầu t. Xu hớng chung là cải thiện môi tr-

ờng đầu t theo hớng thông thoáng hơn, mềm dẻo hơn. Theo UNCTAD, trong
3
năm 1997, 89% trong số 151 điểm thay đổi thể lệ về FDI ở 76 nớc là theo h-
ớng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho đầu t nớc ngoài.
Các nớc có tỷ lệ thu hút đầu t lớn vẫn sẽ là các nớc công nghiệp phát
triển với khoảng 2/3 tổng số vốn đầu t, mà chủ yếu thông qua sự hợp nhất của
các TNC. Các nền kinh tế mới nổi và đang chuyển đổi sẽ tiếp tục gia tăng đ-
ợc lợng đầu t tiếp nhận, Mỹ - La tinh và Châu Phi sẽ là nơi dự báo sẽ tiến bộ
hơn cả.
b, Hai nữa là, quá trình toàn cầu hoá đang thay đổi phơng cách tiến hành
đầu t lẫn quy mô của các TNC. Công nghệ và sự chuyển giao làm tăng thêm
khả năng hợp tác quốc tế và tính cạnh tranh của các chủ đầu t và nó cũng là
đối tợng cạnh tranh chủ yếu. Chơng trình đào tạo con ngời ngày càng đợc
chú trọng hơn và trở thành một thứ tài sản để tiếp nhận khoa học kỹ thuật.
c, Trong giai đoạn hiện nay, tất cả các nớc cũng đang tìm cách để thu
hút FDI. Thị trờng thế giới đối với FDI là toàn cầu và nó đợc đặc trng bởi sự
cạnh tranh: Cạnh tranh giữa các Công ty và cạnh tranh giữa các quốc gia.
Những thách thức chính đối với các nớc - đặc biệt là đối với các nớc
đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi - có thể chia thành 2 dạng:
- Để tự bảo vệ, trong sự nhiệt tình thu hút FDI, chống lại việc tham gia
vào cuộc chạy đua cạnh tranh sâu sắc về tài chính, một cuộc "chiến tranh
khuyến khích" đang diễn ra giữa các nớc và trong một nớc.
- Để theo đuổi các chính sách và thực thi các biện pháp chính sách giúp
các nớc thu hút FDI, đặc biệt là để thu lợi từ đó càng nhiều càng tốt - hay nói
cách khác là để tối đa hoá lợi nhuận và những đóng góp mà FDI có thể tạo ra
cho sự phát triển.
Trong bối cảnh lý tởng, các nớc đa ra một số chào mời để các TNC tăng
lợi nhuận và sự cạnh tranh của chúng: một tổ hợp tài sản bao gồm lối vào thị
trờng và các nguồn lực hữu hình và vô hình không thể di chuyển đợc. Tơng
tự, các Công ty có thể đa ra những thứ mà các nớc đang cần để giành đợc lợi

thế phát triển của họ. Một gói các tài sản hữu hình và vô hình có thể di
chuyển đợc bao gồm: t bản, công nghệ, bí quyết, kĩ năng, nhãn hiệu, khả
4
năng tổ chức và quản lý, lối vào thị trờng, năng lực cạnh tranh, thực tiễn quản
lý và công nghệ môi trờng.
2. Vai trò của FDI ở Việt Nam:
Trong nền kinh tế nớc ta hiện nay, kể từ khi mở cửa thì cùng với xuất
khẩu, đầu t đợc coi là một trong hai nhân tố là động lực phát triển chủ đạo
của nền kinh tế Việt Nam. Trong đó, FDI là bộ phận quan trọng không thể
thiếu đợc trong tổng vốn đầu t phát triển kinh tế xã hội của đất nớc. Nó là
một điều kiện quan trọng để khai thác và phát triển các nguồn lực trong nớc
và là nhân tố thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nớc ta.
Điểu này đợc thể hiện ở:
2.1. FDI góp phần đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
trong sản xuất, đóng góp vai trò quan trọng vào công cuộc đổi mới,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng công nghiệp hoá. Cụ thể, các dự án
có vốn đầu t nớc ngoài đã đầu t 80% số vốn vào lĩnh vực sản xuất, nhiều
ngành ứng dụng khoa học công nghệ tiến tiến nh ngành bu điện, viễn thông,
thăm dò, và khai thác dầu khí, sản xuất vi mạch, điện tử, sản xuất hoá chất cơ
bản
Khu vực có vốn FDI đã tạo ra trong năm
Chỗ làm việc trực tiếp, ngoài ra còn tạo công ăn việc làm cho hàng vạn
lao động gián tiếp trong lĩnh vực xây dựng, cung ứng nguyên liệu cho sản
xuất
2.2. Vai trò của FDI đối với công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt
Nam:
a, Vốn đầu t trục tiếp nớc ngoài là nguồn vốn quan trọng và là một trong
những điều kiện tiên quyết để Việt Nam thực hiện và đẩy nhanh sự công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nớc.
- Từ khi thực hiện chính sách đầu t trực tiếp nớc ngoài cho đến nay, vốn

đầu t nớc ngoài thực hiện tại Việt Nam bình quân 1.111,75 triệu USD/năm.
Vốn đầu t xây dựng cơ bản của các dự án đầu t nớc ngoài bình quân thời kì
1991 - 1999 là 16.291 tỷ/năm. Đối với một nền kinh tế có quy mô nh nớc ta
5
thì đây là một lợng vốn đầu t không nhỏ, nó thực sự là nguồn vốn góp phần
tạo ra sự chuyển biến không chỉ về quy mô đầu t mà điều quan trọng hơn là
nguồn vốn này có vai trò nh "chất xúc tác - điều kiện" để việc đầu t của ta đạt
đợc hiệu quả nhất định.
- Vốn đầu t nớc ngoài - mà chủ yếu là vốn FDI là nguồn vốn bổ sung
quan trọng giúp Việt Nam phát triển một nền kinh tế cân đối, bền vững theo
yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá
- Hoạt động FDI còn là một trong những nguồn thu quan trọng cho ngân
sách Nhà nớc. Các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài (không kể dầu khí)
đã thực hiện nộp ngân sách Nhà nớc (thời kì 1994 - 1999) với số tiền 1.489
triệu USD.
- Về định tính, sự hoạt động của đồng vốn có nguồn gốc từ FDI nh là
một trong những động lực gây phản ứng dây chuyền làm thúc đẩy sự hoạt
động của đồng vốn trong nớc. Một số chuyên gia kinh tế tính toán rằng, cứ
một đồng vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài hoạt động sẽ làm cho bốn đồng vốn
trong nớc hoạt động theo.
b. Hoạt động FDI góp phần tạo ra những năng lực sản xuất mới, ngành
nghề mới, sản phẩm mới, công nghệ mới, phơng thức sản xuất - kinh doanh
mới, làm cho kinh tế nớc ta từng bớc chuyển biến theo định hớng kinh tế thị
trờng hiện đại:
- Khu vực kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài luôn có chỉ số phát triển cao
hơn chỉ số phát triển của các thành phần kinh tế khác, và cao hơn hẳn chỉ số
phát triển chung của cả nớc (Năm 1998, chỉ số phát triển của khu vực kinh tế
có vốn đầu t nớc ngoài là 116,88% thì chỉ số phát triển chung của cả nớc là
105,8%). Tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài cũng có xu h-
ớng tăng lên tơng đối ổn định (Năm 1995 = 6,3%, năm 1996 = 7,39%, năm

1997 = 9,07%, năm 1999 = 10,3%).
+ Đối vói ngành công nghiệp: Các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài
không những chiếm tỷ trọng cao mà còn có xu hớng tăng lên đáng kể trong
tổng giá trị sản xuất của toàn ngành. Khu vực có vốn đầu t nớc ngoài luôn tạo
6
ra hơn 25% giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp. Trong ngành công
nghiệp khai thác, các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài đang có vị tá hàng
đầu, với tỷ trọng 79% giá trị sản xuất của các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc
ngoài chiếm khoảng 22% và có xu hớng ngày càng tăng lên.
Các công nghệ đang sử dụng trong lĩnh vực dầu khí, viễn thông, hoá
chất đều thuộc loại công nghệ hiện đại và các công nghệ này thực sự đã
góp phần tạo nên bớc ngoặt tích cực trong quá trình phát triển kinh tế của
nuớc ta. Đa số các thiết bị trong các ngành công nghiệp điện tử, hoá chất, ô
tô, xe máy, vật liệu xây dựng đều là những dây chuyền tự động hoá tơng đối
hiện đại. Một số sản phẩm điện tử, vi mạch, ngời máy công nghiệp đ ợc
sản xuất bằng công nghệ tiên tiến. Các khách sạn, văn phòng cho thuê đều đ-
ợc trang bị các thiết bị hiện đại tiêu chuẩn quốc tế.
+ Đối với ngành nông nghiệp: Tính đến nay còn 221 dự án đầu t trực
tiếp nớc ngoài đang hoạt động trong ngành nông nghiệp với tổng số vốn đăng
ký hơn 2 tỷ USD. Đầu t nớc ngoài đã góp phần đáng kể nâng cao năng lực
sản xuất cho ngành nông nghiệp, chuyển giao cho lĩnh vực này nhiều giống
cây - giống con, tạo ra sản phẩm chất lợng cao, góp phần thúc đẩy quá trình
đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp và khả năng cạnh tranh của nông lâm sản
hàng hoá. Vốn đầu t nớc ngoài còn góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông lâm nghiệp theo yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nền kinh
tế.
- Một vấn đề nữa rất quan trọng là nếu nh trớc đây, các doanh nghiệp
Việt Nam chỉ biết sản xuất kinh doanh thụ động theo sự chỉ định của cấp trên
thì sự xuất hiện của các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài đã thực sự trở
thành nhân tố tác động mạnh làm thay đổi căn bản phơng thức sản xuất kinh

doanh của các doanh nghiệp Việt Nam theo hớng tích cực và ngày càng thích
nghi với nền kinh tế thị trờng.
- Sự xuất hiện của các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài đã đơng
nhiên đặt các doanh nghiệp Việt Nam trong hoàn cảnh bắt buộc tham gia vào
cuộc cạnh tranh về mọi mặt để xác định khả năng tồn tại hay phá sản. Để có
7
thể tồn tại đợc, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ có con đờng là phải thay đổi
một cách căn bản từ công nghệ, phơng thức sản xuất kinh doanh, trình độ của
ngời lao động Theo phản ứng dây chuyền nh trên, một mặt tạo cho các
doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện tiếp cận và bắt nhịp đợc vào quỹ đạo
của sự phát triển. Mặt khác, ngời tiêu dùng lại có lợi hơn. Đầu t nớc ngoài
thực sự đã trở thành lực lợng có điều kiện để giải những bài toán khó mà các
nhà đầu t trong nớc thờng gặp và khó giải quyết. Khi FDI hoạt động, phát
huy hiệu quả không những sẽ tạo ra môi trờng thuận lợi, cùng các yếu tố hấp
dẫn thu hút các nhà đầu t trong nớc bỏ vốn ra đầu t sản xuất kinh doanh, mà
còn du nhập vào Việt Nam các phơng thức kinh doanh mới trong việc tiếp thị
mua bán hàng hoá, dịch vụ du lịch, tạo ra sự cạnh tranh trên thị trờng vốn, thị
trờng dịch vụ, thị trờng nguyên nhiên vật liệu
c, Hoạt động của các dự án đầu t trực tiếp nớc ngoài đã tạo ra một số l-
ợng lớn chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp có thu nhập cao, đồng thời góp
phần hình thành cơ chế thúc đẩy việc nâng cao năng lực cho ngời lao động
Việt Nam.
- Tính đến ngày 31/12/1999, các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài
đã tạo ra cho Việt Nam 296.000 chỗ làm việc trực tiếp và khoảng 1 triệu lao
động gián tiếp. Nh vậy, số lao động làm việc trong các bộ phận có liên quan
đến hoạt động của dự án đầu t nớc ngoài bằng khoảng 39% tổng số lao động
bình quân hằng năm trong khu vực Nhà nớc. Đây là một kết quả nổi bật của
FDI.
- Thu nhập bình quân của lao động làm việc trong các doanh nghiệp có
vốn đầu t nớc ngoài là 70 USD/tháng, bằng khoảng 150% mức thu nhập bình

quân của lao động trong khu vực Nhà nớc. Do đó đã tạo ra sự cạnh tranh nhất
định trên thị trờng lao động. Tuy nhiên, lao động làm việc trong các doanh
nghiệp này đòi hỏi cờng độ lao động cao, kỹ thuật nghiêm khắc đúng với
yêu cầu của lao động làm việc trong nền sản xuất hiện đại.
Trong một số lĩnh vực còn có yêu cầu đối với lực lợng lao động phải có
trình độ cao về tay nghề, học vấn, ngoại ngữ, vi tính Sự hấp dẫn về thu
8
nhập cùng với đòi hỏi cao về trình độ là những yếu tố tạo nên cơ chế buộc
ngời lao động Việt Nam có ý thức tự tu dỡng, rèn luyện nhằm nâng cao trình
độ và tay nghề để có thể đủ điều kiện vào làm việc tại các doanh nghiệp loại
này. Theo đánh giá của một số chuyên gia về hoạt động cho thấy, đến nay đa
số các công nhân làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài đều
đợc bồi dỡng trởng thành và tạo nên một đội ngũ công nhân lành nghề, đáp
ứng đợc yêu cầu trong nền sản xuất tiên tiến.
Sự phản ứng dây chuyền tự nhiên, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
có vốn đầu t nớc ngoài với các doanh nghiệp trong nớc trên thị trờng lao
động là nhân tố thúc đẩy lực lợng lao động trẻ tự đào tạo một cách tích cực
và có hiệu quả hơn, cũng nh góp phần hình thành cho ngời lao động Việt
Nam nói chung một tâm lí tuân thủ nền nếp làm việc theo tác phong công
nghiệp hiện đại có kỷ luật.
- Về đội ngũ các cán bộ quản lý, kinh doanh: Trớc khi bớc vào cơ chế
thị trờng, chúng ta cha có nhiều nhà doanh nghiệp giỏi có khả năng tổ chức
sản xuất kinh doanh có hiệu quả trong môi trờng cạnh tranh. Khi các dự án
đầu t nớc ngoài bắt đầu hoạt động, các nhà đầu t nớc ngoài đa vào Việt Nam
những chuyên gia giỏi đồng thời áp dụng những chế độ quản lý, tổ chức, kinh
doanh hiện đại nhằm thực hiện dự án có hiệu quả, đây chính là điều kiện tốt,
một mặt để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận, học tập và nâng cao trình
độ, kinh nghiệm quản lý. Mặt khác, để liên doanh có thể hoạt động đợc tốt,
nhà đầu t nớc ngoài cũng buộc phải đào tạo cán bộ quản lý cũng nh lao động
Việt Nam đến một trình độ đủ để đáp ứng đợc yêu cầu kĩ thuật công nghệ

đang đợc sử dụng trong các dự án. Nh vậy, dù không muốn thì các nhà đầu t
nớc ngoài cũng phải tham gia vào công tác đào tạo nguồn nhân lực Việt
Nam.
d, Đầu t trực tiếp nớc ngoài thúc đẩy quá trình mở cửa và hội nhập của
nền kinh tế Việt Nam với thế giới, nó là một trong những phơng thức đa hàng
hoá sản xuất tại Việt Nam xâm nhập thị trờng nớc ngoài một cách có lợi
nhất:
9
- Thứ nhất: Các nhà đầu t nớc ngoài thông qua thực hiện dự án đầu t đã
trở thành "cầu nối", là điều kiện tốt để Việt Nam nhanh chóng tiếp cận và
tiến hành hợp tác đợc với nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế, cũng nh
những trung tâm kinh tế, KTCN mạnh của thế giới.
- Bên cạnh đó, hoạt động FDI đã giúp Việt Nam mở rộng hơn thị phần ở
nớc ngoài. Đối vói những hàng hoá xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn
đầu t nớc ngoài, vô hình chung đã biến các bạn hàng truyền thống của các
nhà đầu t nớc ngoài tại Việt Nam thành bạn hàng của Việt Nam. Nhờ có
những lợi thế trong hoạt động thị trờng thế giới nên tốc độ tăng kim ngạch
xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài cao hơn tốc độ tăng
kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nớc (năm 1999: kim ngạch
xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài tăng 30,2% so với
năm trớc, thì kim ngạch xuất khẩu của cả nớc tăng 23%, còn kim ngạch xuất
khẩu của các doanh nghiệp trong nớc chỉ tăng 21,1%). Về số tuyệt đối, kim
ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài đã tăng một
cách đáng kể qua các năm. (Nếu năm 1992 đạt 52 triệu USD, năm 1995 đạt
440,1 triệu USD thì năm 1999 đạt tới 2577 triệu USD). Nh vậy, kim ngạch
xuất khẩu của các doanh nghiệp loại này đạt đợc trong năm 1999 bằng 5,8
lần của năm 1995 và bằng 49 lần năm 1992. Về số tơng đối, tỷ trọng kim
ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nớc có xu hớng tăng lên. Năm 1995 = 8,1% thì mức
tăng dần qua các năm đến năm 1999 tăng lên 22,3%. Về chủng loại hàng hoá

xuất khẩu, nếu không kể dầu thô, u điểm hơn hẳn của hàng hoá xuất khẩu
của doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài so với hàng hoá xuất khẩu của
doanh nghiệp trong nớc ở chỗ chúng chủ yếu là hàng công nghiệp chế biến
và chế tạo, trong đó có nhiều sản phẩm thuộc công nghệ cao nh bảng mạch in
điện tử, máy thu hình, ngời máy
2.3. Vai trò của các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài ngày càng
đợc khẳng định trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nớc: tạo ra
khoảng 8,6 GDP của cả nớc; 25% giá trị sản xuất công nghiệp, 19% giá trị
10
xuất khẩu; tạo việc làm trực tiếp cho gần 30 vạn lao động Khẳng định vai
trò của các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, tại cuộc họp với đại diện
các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài ngày 4/2/1998 ở TP Hồ Chí Minh,
Thủ tớng Phan Văn Khải đã phát biểu "Đảng và Nhà nớc Việt Nam khẳng
định rằng, các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài dới nhiều hình thức, kể
cả hình thức nớc ngoài đầu t 100% vốn, hoạt động ở Việt Nam đều là một bộ
phận hữu cơ của nền kinh tế Việt Nam. Khẳng định điều đó có nghĩa là xác
nhận sự gắn bó chặt chẽ giữa quyền lợi của đất nớc chúng tôi với quyền lợi
của các nhà đầu t nớc ngoài "
Tóm lại, hoạt động FDI vừa qua đã góp phần làm chuyển biến nền kinh
tế Việt Nam theo hớng của một nền kinh tế công nghiệp hoá. Đối với Việt
Nam, vốn FDI đóng vai trò nh lực khởi động, nh một trong những điều kiện
đảm bảo cho sự thành công của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Một số dự án FDI đã góp phần làm vực dậy một số doanh nghiệp Việt Nam
đang trong điều kiện khó khăn, đình đốn, có nguy cơ phá sản. Không những
thế, nó còn góp phần hình thành nhiều ngành nghề sản xuất mới, cũng nh
nhiều sản phẩm mới. Vì khả năng thu hồi vốn và có lãi phụ thuộc hoàn toàn
vào kết quả sản xuất kinh doanh nên các nhà đầu t nớc ngoài thờng tính toán
cân nhắc kỹ lỡng khi đa vào Việt Nam những thiết bị, kĩ thuật công nghệ tiên
tiến, hiện đại hoặc ở mức thấp nhất cũng có khả năng phát huy nhất định.
FDI là một trong những kênh đa nền kinh tế Việt Nam hội nhập thế giới tơng

đối có hiệu quả. Là khu vực hấp dẫn, tạo ra nhiều việc làm và nâng cao năng
lực cho ngời lao động; là môi trờng lý tởng để chúng ta học hỏi tiếp thu kinh
nghiệm quản lý, khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh của nền kinh tế thị tr-
ờng hiện đại; là điều kiện tốt để Việt Nam mở rộng thị trờng cả trong và
ngoài nớc.
II. Thực trạng vốn đầu t trực tiếp của nớc ngoài
tại Việt Nam:
1. Thực trạng đầu t trực tiếp của nớc ngoài (FDI) tại Việt Nam:
11
a, Những kết quả và những thuận lợi mà Việt Nam có đợc trong việc
thu hút nguồn vốn của FDI trong hơn 10 năm qua:
* Từ khi "luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam" có hiệu lực cho đến hết
tháng 12/1999, Nhà nớc ta đã cấp giấy phép cho 2.766 dự án FDI với tổng số
vốn đăng ký là 37.055,66 triệu USD. Tính bình quân mỗi năm chúng ta cấp
phép cho 230 dự án với mức 3.087,97 triệu USD vốn đăng ký (cha kể các dự
án của Việt - Sovpetro)
- Nhịp độ thu hút FDI của ta có xu hớng tăng nhanh tù năm 1988 đến
năm 1995 cả về số dự án cũng nh vốn đăng ký. Riêng năm 1996, sở dĩ có l-
ợng vốn đăng kí tăng vọt lên là do có 2 dự án đầu t vào lĩnh vực phát triển đô
thị ở Hà Nội và TP HCM đợc phê duyệt với quy mô dự án lớn (hơn 3 tỷ/2 dự
án). Nh vậy, nếu xét trong cả thời kì 1988 - 1999 thì năm 1995 có thể đợc
xem là năm đỉnh cao về thu hút FDI của Việt Nam (cả về số dự án, vốn đăng
kí cũng nh quy mô dự án)
- Nếu theo số lợng vốn đăng kí thì quy mô dự án bình quân của thời kì
đầu thực hiện chính sách thu hút FDI thì quy mô dự án đầu t vào nớc ta bình
quân ở thời kì này là không thấp.
- Đến nay, tức là ở thời diểm 1999, số vốn đã thự hiện bằng 42,4% của
tổng số vốn đăng kí. Trong điều kiện của một nền kinh tế kém phát triển, kết
cấu hạ tầng lạc hậu, các nguồn lực cũng nh chính sách đối với đầu t nớc
ngoài còn nhiều biến động, thị trờng phát triển cha đầy đủ thì tỷ lệ vốn

đầu t trực tiếp nớc ngoài thực hiện đợc ở mức nh vậy cũng không phải là
thấp.
* Sau hơn 10 năm thi hành luật đầu t nớc ngoài, hoạt động đầu t nớc
ngoài đã góp phần đáng kể làm gia tăng kim ngạch xuất khẩu (năm 1996
chiếm khoảng 16% tổng kim ngạch xuất khẩu, năm 1997 đạt 19%, với các số
liệu chứng tỏ tốc độ gia tăng kim ngạch xuất khẩu liên tục trong các năm tù
1992 - 1999 nh đã trình bày ở phần trớc; Đồng thời, FDI nói riêng và việc
thực thi luật đầu t nớc ngoài nói chung cũng góp phần bình ổn cán cân thanh
toán quốc tế của Việt Nam.
12
* Về mặt cơ cấu, đầu t nớc ngoài đã đi vào hầu hết các lĩnh vực của nền
kinh tế quốc dân, tỷ trọng các dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp, chế biến
nông - lâm - thuỷ sản, sản xuất hàng xuất khẩu ngày càng tăng. Cơ cấu đầu t
theo lãnh thổ ngày càng cân đối hơn. Tất cả các địa phơng trên cả nớc đã có
dự án FDI. Trừ thăm dò và khai thác dầu khí ở thềm lục địa, phần lớn dự án
còn lại tập trung ở ba vùng kinh tế trọng điểm. Tuy vậy, đầu t nớc ngoài vẫn
tập trung chủ yếu vào một số địa phơng nh TP HCM, Hà Nội, Đồng Nai,
Bình Dơng
Về hình thức đầu t, vốn đầu t tập trung phấn lớn vào các doanh nghiệp
liên doanh, chiếm 65%, doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài chiếm 18% và
hợp đồng hợp tác kinh doanh chiếm 7%. Ngoài ra đến nay mới chỉ có 2 dự án
đợc thực hiện theo hình thức BTO. Các dự án 100% vốn nớc ngoài tập trung
chủ yếu trong các khu vực công nghiệp và chế xuất vì đảm bảo các điều kiện
cơ sở hạ tầng, tránh đợc nhiều thủ tục hành chính phức tạp.
* Hiện nay, có 58 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu t tại Việt
Nam, bao gồm nhiều Công ty và tập đoàn nổi tiếng trên thế giới. Đối tác
trong nớc tham gia vào các liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh chủ yếu
là doanh nghiệp Nhà nớc với 95% số dự án và 99% tổng vốn đầu t. Các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ đầu t vào một số dự án có quy mô nhỏ.
* Những cơ hội mới từ các thành tựu quan trọng của hơn 10 năm đổi

mới, đặc biệt là sự tăng trởng kinh tế liên tục trong nhiều năm với nhịp độ
cao, việc nâng cao một bớc năng lực sản xuất xã hội, năng lực xuất khẩu,
mức sống của nhân dân và sức mua của thị trờng trong nớc, những cố gắng
rất lớn đề hoàn thiện và hoàn thành hệ thống pháp luật , tất cả đã tạo cho
các nhà đầu t nớc ngoài một hình ảnh mới về Việt Nam trên thế giới nh là
một thị trờng thơng mại và đầu t có sức hấp dẫn. Thêm vào đó, sự tăng trởng
cao và tơng đối vững chắc của nhiều nớc trong khu vực cùng với triển vọng
tốt đẹp về vai trò của khu vực này trong nền kinh tế thế giới. Đó là cơ hội tốt
mà Việt Nam có thể tranh thủ thu hút dòng FDI vào với quy mô lớn hơn, chất
lợng cao hơn, phục vụ mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nớc.
13
b, Những tồn tại và một số vấn đề nảy sinh đáng lo ngại:
- Tuy liên tiếp thu hút đợc FDI, nhng đến khoảng giữa năm 1996, đã bắt
đầu xuất hiện một số dấu hiệu suy giảm của FDI, cho dù vào thời điểm cuối
năm có 2 dự án lớn là khu đô thị Nam Thăng Long và An Phú với số vốn ớc
đạt 3,1 tỷ USD và một trong 2 dự án này đã không tiển khai đợc trong năm
1997. Xu hớng giảm nguồn FDI rõ rệt hơn vào các năm 1998, 1999: Nếu so
với năm 1997, số dự án đợc duyệt của năm 1998 chỉ bằng 79,71%; năm 1999
chỉ bằng 80,58%. Số liệu tơng ứng của vốn đăng kí là 83,83% và 33,01%.
Quy mô dự án theo vốn đăng kí bình quân của năm 1999 lại nhỏ đi một cách
đột ngột và ở mức thấp nhất từ trớc đến nay. (5,52 triệu USD/1 dự án - chỉ
bằng 41,19% quy mô bình quân của thời kì 1988 - 1999 và chỉ bằng 31,27%
quy mô dự án của năm cao nhất 1995).
- Cơ cấu đầu t nớc ngoài vào Việt Nam nhìn chung còn cha hợp lý: Các
dự án đầu t nớc ngoài tại Việt Nam mới tập trung vào một số địa bàn và
những ngành có khả năng thu hồi vốn nhanh, ít rủi ro và cơ sở hạ tầng khá.
+ Về cơ cấu đầu t theo địa bàn, lãnh thổ, vùng:
Trong số hơn 2200 dự án đầu t, có đến 58% tập trung vào vùng Đông
Nam Bộ với 52,5% tổng số vốn đầu t và 54% tổng vốn pháp định. Kể đến là
đồng bằng Sông Hồng với 23,6% số dự án, 31,7% số vốn đầu t và 30% tổng

vốn pháp định. Cụ thể, vốn đầu t nớc ngoài tập trung chủ yếu vào 3 tỉnh -
thành phố sau: TP HCM với 513 dự án đạt 8,176 tỷ USD, chiếm 27,4% tổng
vốn đầu t cả nớc; tiếp đến là Hà Nội có 280 dự án với 6,882 tỷ USD chiếm
23,1% tổng vốn đầu t; Đồng Nai có 204 dự án với 3,974 tỷ USD, chiếm 13%
tổng vốn đầu t. Ba tỉnh, thành này có tỷ trọng vốn đầu t FDI chiếm tới 63,5%
tổng vốn đầu t của cả nớc (số liệu của năm 1998).
Trong khi đó ở 6 vùng còn lại, tuy có nhiều tiềm năng nhng lại rất ít dự
án đầu t: Tây Nguyên 7 dự án với số vốn 50 triệu USD, Tây Bắc có 7 dự án
với 41 triệu USD, đồng bằng sông Cửu Long 128 dự án với số vốn 763,2 triệu
USD Số dự án đầu t vào vùng xa, vùng nghèo vẫn còn ít ỏi.
+ Đối với cơ cấu đầu t theo ngành:
14
Vốn đầu t thu hút chủ yếu vào các ngành công nghiệp (37,9%), kinh
doanh khách sạn và căn hộ văn phòng (35%) là chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Trong khi đó các dự án đầu t vào lĩnh vực nông nghiệp - lâm nghiệp với tỷ lệ
không đáng kể, chiếm 11,3%.
- Vẫn còn những yếu kém về công trình kết cấu hạ tầng, đặc biệt là khu
vực miền Trung: Mặc dù áp dụng chính sách u đãi về tiền thuê đất và thuế lợi
tức nhng do phải bỏ nhiều chi phí cho các công trình ngoài hàng rào, hoặc
chi phí vận chuyển hàng xuất khẩu bằng container đến cảng cửa khẩu khá xa
(các dự án may mặc xuất khẩu) nên vô hình chung, các u đãi này đã bị triệt
tiêu. Bên cạnh việc sử dụng vốn ODA, chính phủ chủ trơng huy động FDI dới
hình thức BTO, BOT và BT để cải thiện hạ tầng, nhng cho đến nay cha đem
lại hiệu quả bởi vì các nhà đầu t đều đánh giá rằng các công trình kết cấu hạ
tầng tại Việt Nam còn nhiều rủi ro. Vì vậy, cơ sở hạ tầng yếu kém tại sẽ tiếp
tục không tạo ra đợc sự hẫp dẫn thu hút FDI trong thời gian tới.
- Yếu kém về quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch ngành kinh tế - kĩ thuật
trong việc gọi vốn FDI:
+ Quy hoạch về đất công nghiệp.
Đến nay, thủ tớng chính phủ đã phê duyệt thành lập 45 khu công

nghiệp trên địa bàn 10 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ơng và chấp thuận
việc nghiên cứu khả thi thành lập 18 khu công nghiệp tại 17 tỉnh để đầu t đến
năm 2000. Tuy nhiên, đối với các khu công nghiệp đã đi vào hoạt động hoặc
đang tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng, việc quy hoạch chi tiết rất chậm,
khiến các nhà đầu t, thậm chí gây cho họ tâm lí hoài nghi.
Việc quy hoạch phát triển các khu công nghiệp và các khu du lịch, dịch
vụ, các dự án trồng rừng, cây nguyên liệu giấy cần sử dụng diện tích đất khá
lớn liên quan đến an ninh quốc phòng, nhng do phối hợp quy hoạch không
đồng bộ, có dự án đầu t nớc ngoài đã đợc cấp giấy phép và chấp thuận cho
thuê đất về nguyên tắc, nhng khi đi vào triển khai, Bộ quốc phòng phản đối,
lại phải chuyển đến địa điểm hoặc phải giảm đáng kể diện tích đất dẫn đến
dự án không khả thi hoặc kém khả thi.
15
+ Quy hoạch phát triển các ngành kinh tế - kĩ thuật.
Việc quy hoạch, gọi vốn FDI vào một số ngành quá yếu kém và các nhà
đầu t nớc ngoài cũng đã tin vào những dự báo khả quan của ta. Vì vậy, chúng
ta cũng phải chịu trách nhiệm về tình trạng d thừa công suất của một số
ngành, đặc biệt là các ngành khách sạn, nhà ở, văn phòng cho thuê và các tổ
hợp dịch vụ cao cấp; Công nghiệp lắp ráp; Công nghiệp mía đờng
- Yếu kém về cung ứng lao động cho các doanh nghiệp - FDI:
Mặc dù Việt Nam có một lực lợng lao động dồi dào và sẽ có thể cung
ứng cho các doanh nghiệp - FDI và các doanh nghiệp khác đến 1,5 triệu ngời
mỗi năm, nhng đến nay lực lợng lao động của ta vẫn bộc lộ nhiều yếu kém so
với các nớc ASEAN. Cụ thể:
+ Thứ nhất, rất hiếm lực lợng công nhân lành nghề. Đã có những doanh
nghiệp - FDI thuộc ngành cơ khí không tuyển nổi một công nhân kĩ thuật dới
30 tuổi có tay nghề bậc 5. Hiện nay, việc tuyển một công nhân có tay nghề
cao ngay tại địa bàn Hà Nội khó khăn hơn nhiều việc tuyển một sinh viên tốt
nghiệp đại học.
+ Thứ hai, hệ thống các trờng đại học của ta cha đảm bảo chất lợng về

đào tạo ngoại ngữ, đặc biệt là nhữn chuyên ngành tài chính - kế toán. Vì vậy,
lại có một nghịch lý nữa là, các doanh nghiệp - FDI buộc phải tuyển sinh
viên tốt nghiệp khối đại học ngoại ngữ rồi sau đó cho đi đào tạo chuyên
ngành kinh tế, tài chính - kế toán.
+ Thứ ba, hầu hết lao động trực tiếp của các doanh nghiệp - FDI đều
tuyển từ các vùng nông thôn, cha qua đào tạo. Chính vì vậy, chi phí cho dạy
nghề rất tốn kém. Các nhà quản lý nớc ngoài đều có đánh giá chung là lao
động Việt Nam tuy chịu khó và cần cù nhng vì kinh nghiệm nghề nghiệp ít,
không có tác phong công nghiệp cho nên năng suất lao động thấp.
- Khó khăn về cân đối ngoại tệ cho các doanh nghiệp - FDI:
Theo luật đầu t nớc ngoài và các văn bản dới luật, ngân hàng Nhà nớc
chỉ cân đối ngoại tệ cho các doanh nghiệp - FDI hoạt động trong lĩnh vực
xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu thiết yếu (Danh mục hàng thay thế công
16
bố - thờng là hàng năm). Trong điều kiện Nhà nớc và doanh nghiệp đều thiếu
ngoại tệ thì quy định trên là phù hợp vói tình hình thực tiễn. Tuy nhiên, trong
điều kiện khoảng 70% các doanh nghiệp tiêu thụ hàng hoá tại thị trờng Việt
Nam và nguyên liệu chủ yếu dựa vào nguồn nhập khẩu, việc không có một
chính sách và biện pháp giúp tất cả các doanh nghiệp, trong đó có cả các
doanh nghiệp - FDI, cân đối nguồn ngoại tệ để nhập khẩu nguyên liệu (cha
nói đến các mục đích cần nguồn ngoại tệ khác) sẽ không đảm bảo cho các
doanh nghiệp hoạt động bình thờng và cản trở việc tiếp tục huy động nguồn
vốn FDI.
- Thủ tục hành chính trong lĩnh vực FDI còn quá rờm rà, nhiêu khê cũng
là nguyên nhân cơ bản gây cản trở cho việc thu hút FDI:
+ Các nhà đầu t nớc ngoài kêu ca, phàn nàn nhiều về việc xin giấy phép
đầu t, thủ tục thuê đất, xin giấy phép xây dựng cũng nh các thủ tục triển khai
thực hiện quá trình xây dựng cơ bản.
+ Còn nhiều điều phải xem xét lại trong thủ tục kiểm tra hàng hoá, xuất
- nhập khẩu của các doanh nghiệp - FDI trong nhiều trờng hợp kiểm tra gian

lận thơng mại, các cơ quan hải quan đã giữ hàng hoá ở cửa khẩu khá lâu gây
ách tắc cho hoạt động của các doanh nghiệp - FDI.
- Ngoài ra, một yếu kém nữa cần nói đến là sự hoạt động của các cơ
quan chức năng trong việc kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp FDI:
Trong lĩnh vực này phải nói rằng kiểm tra thì nhiều nhng chất lợng thì cha
đạt yêu cầu bỏi lẽ cán bộ đợc cử đi kiểm tra cha đủ trình độ phát hiện những
vi phạm của đơn vị, đặc biệt về lĩnh vực tài chính, về giá nhập khẩu nguyên
liệu, giá xuất khẩu thành phẩm đích thực. Sự buông lỏng quản lý, trong đó
bao gồm công tác kiểm tra của các đơn vị chủ quản bên Việt Nam trong các
doanh nghiệp liên doanh với nớc ngoài đã dẫn đến tình trạng không phát hiện
đợc những yếu kém trong hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị, chỉ đến
khi doanh nghiệp thua lỗ hàng trăm tỷ đồng, cơ quan quản lý Nhà nớc mới
biết.
17

×