Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Trồng rong nho Nhật xuất sang Nhật pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.27 KB, 11 trang )

Trồng rong nho Nhật xuất sang… Nhật
Một nhóm chuyên gia người Nhật đã bay sang Việt Nam,
trực tiếp đến tận cơ sở nuôi trồng của kỹ sư địa chất Lê Bền
để tìm hiểu thực tế toàn bộ quy trình nuôi trồng, sơ chế cây
rong nho. Đến lúc đó họ mới chấp nhận đặt hàng.
Tình cờ trong bữa cơm với một đối tác đến từ xứ sở mặt trời
mọc, một kỹ sư địa chất nghĩ đến việc chuyển nghề trồng
rong nho khi người khách luôn miệng nhắc đến loại thực
phẩm tươi ngon bổ dưỡng này. Và từ ý tưởng đó cộng với
kiến thức học hỏi qua tài liệu khoa học và sự kiên nhẫn của
một con người có chút trải nghiệm trong cuộc sống đã giúp
cho anh Lê Bền, hội viên Hội Khoa học - Kỹ thuật Khánh
Hòa nghiên cứu, cải tiến phương pháp trồng và nhân giống
thành công cây rong nho có chất lượng cao.
Kết quả sáng tạo đó không chỉ giúp cho anh đoạt giải khuyến
khích tại Hội thi sáng tạo khoa học - kỹ thuật toàn quốc lần
thứ 9 (2006-2007), mà còn mở ra một triển vọng mới cho
hoạt động nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam.
Cải tiến phương pháp trồng rong nho biển
Tôi tìm đến cơ sở trồng và chế biến rong nho do kỹ sư Lê
Bền đảm trách ở thôn Đông Hà, xã Ninh Hải, huyện Ninh
Hòa, tỉnh Khánh Hòa trong buổi sáng tinh mơ. Ở đó, lần đầu
tiên tôi được nhìn thấy loại rong nho du nhập từ Nhật Bản
với những chùm quả mẩy tròn, xanh mướt bám vào nhau
thành một chuỗi hạt dài gần 20cm.
Rong nho tươi mới thu hoạch.
Cầm những cây rong nho vừa thu hái, anh Lê Bền tâm sự:
"Tôi vốn là kỹ sư địa chất, nên chuyện trồng rong nho là mối
duyên rất tình cờ. Cách đây hơn bốn năm, khi tôi còn đang
kinh doanh đá granit, trong bữa cơm xã giao với một người
khách Nhật Bản, tôi thấy vị khách hàng của mình tỏ ra chẳng


ngon miệng khi không tìm thấy rong nho biển trong thực
đơn. Hỏi ra mới biết loại rong này có nguồn gốc từ
Philippines, sau đó được người Nhật đưa về trồng từ năm
1986 để làm thức ăn thường trực như món rau xanh ở ta vậy.
Lúc đó, tôi chợt nhớ đến những khu ao đìa ven biển miền
Trung đang bị bỏ hoang do nuôi tôm sú thất bại, nên mới
nghĩ đến chuyện trồng thử nghiệm".
Phải mất khá nhiều lần thuyết phục, đến cuối năm 2004, vị
khách hàng mua bán đá granit mới mang sang cho kỹ sư Lê
Bền 200 gram rong nho giống và một số tài liệu hướng dẫn
cách trồng. Anh Bền cùng người cháu là Đặng Ngọc Cảnh
tiến hành nhân giống trong những bể kiếng theo các tài liệu
hướng dẫn.
Hơn một tháng sau, anh Bền mang toàn bộ rong nho thu được
từ bể kiếng đưa xuống trồng thử nghiệm ở một số ao đìa tôm
sú đang thời gian bỏ hoang. Kinh nghiệm không có, môi
trường nước không được kiểm định đánh giá bằng những chỉ
số khoa học cụ thể, nên gần một tuần sau khi thử nghiệm,
không ít cây rong nho… biến mất.
Nhiều đêm thức trắng bên ao đìa dùng đèn để soi, anh Bền
mới phát hiện ra nguyên nhân hao hụt cây giống là do cá tạp
và một số sinh vật biển "dọn" dần. Cú vấp đầu tiên không
làm Bền nản lòng, vì anh đã nghĩ ra cách ngăn chặn các loài
sinh vật biển bằng phương pháp trồng trong các nhà lồng
được thiết kế bằng lưới. Mặc dù đã có giải pháp khống chế
các loài sinh vật biển tấn công rong nho, nhưng nguồn vốn
đầu tư cho nhà lồng không phải là ít, nếu trồng theo phương
pháp này e rằng hiệu quả kinh tế thấp kém, thậm chí có thể…
phá sản. Kỹ sư Lê Bền tiếp tục dành thời gian nghiên cứu,
tính toán để tìm ra một phương pháp khác.

Anh Bền kể: "Bên Nhật người ta trồng rong nho theo hai
phương pháp cơ bản, đó là trồng trực tiếp xuống đáy biển
hoặc ao đìa và trồng treo trong các túi lưới, thả lơ lửng trong
nước. Ngoài hai phương pháp cơ bản này, một số vùng còn
trồng rong nho trong các bể bê tông chứa nước biển. Ngẫm
nghĩ mãi, tôi thấy nếu áp dụng theo các phương pháp trên
vẫn chưa ổn, vì trồng tiếp đáy thì rong nho dễ bị bẩn và hư
hỏng khi thu hoạch; còn trồng treo thì cây rong không hút
được dưỡng chất từ đáy biển nên sinh trưởng chậm, đưa vào
bể bê tông thì chi phí cũng không ít".
Sau khi tìm hiểu và so sánh, kỹ sư Lê Bền đã tìm ra một
phương pháp trồng rong nho hoàn toàn mới, gọi nôm na là
phương pháp kê sàn có lưới che. Theo đó, rong nho được
trồng trong các khay nhựa đã lót nilon có chứa mùn cát dinh
dưỡng. Những chiếc khay rong được sắp đặt trên các kệ sạp
đóng bằng vật liệu tre, gỗ, hoặc đá đặt chìm dưới nước. Bên
trên được che chắn bằng loại lưới che hoa lan có thể di động
để điều tiết ánh sáng, nhiệt độ của nước khi cần thiết. Bên
ngoài là một guồng máy đập trong nước để tạo dòng chảy,
tăng cường oxy.
Với phương pháp này, rong nho có đủ điều kiện hấp thụ chất
dinh dưỡng trong những chiếc khay, mà không chịu sự ảnh
hưởng của các loại tạp chất dưới đáy ao đìa, còn lưới che di
động có thể điều chỉnh, khắc phục được thời tiết khí hậu nắng
nóng. Thêm một ưu điểm nữa là phương pháp kê sàn giúp
cho việc thu hoạch sản phẩm nhanh gọn, chi phí đầu tư thấp,
hiệu quả kinh tế nâng cao. Nét nổi bật nhất là những mẫu
rong nho trồng theo phương pháp kê sàn đã được các cơ quan
chức năng kiểm nghiệm, kết luận có đủ các tiêu chuẩn an
toàn vệ sinh thực phẩm và giàu chất dinh dưỡng.

Loại rau cao cấp hứa hẹn nhiều triển vọng
Kỹ sư Lê Bền tâm sự: "Từ kết quả thành công bước đầu, tôi
xây dựng đề tài nghiên cứu khoa học "Cải tiến phương pháp
trồng rong nho cho năng suất cao, chất lượng tốt". Mặc dù đề
tài này đã đoạt giải khuyến khích tại Hội thi sáng tạo khoa
học - kỹ thuật toàn quốc lần thứ 9, nhưng không dễ thuyết
phục được người Nhật một cách dễ dàng".
Thật vậy, người Nhật vốn rất khắt khe về tiêu chuẩn hàng
hóa, nhất là những loại thực phẩm tác động trực tiếp đến sức
khoẻ con người. Vì thế khi anh Bền giới thiệu, chào bán sản
phẩm rong nho "Made in Việt Nam", một vài đối tác đã mang
sản phẩm về tận bên Nhật để kiểm nghiệm lại. Kết quả được
đánh giá bằng những chỉ số khoa học hẳn hoi, nhưng đối tác
vẫn chưa tin rằng rong nho trồng ở Việt Nam lại có chất
lượng tốt hơn ở xứ sở của họ. Chính vì vậy, một nhóm
chuyên gia người Nhật đã bay sang Việt Nam, trực tiếp đến
tận cơ sở nuôi trồng của anh Bền để tìm hiểu thực tế toàn bộ
quy trình nuôi trồng, sơ chế cây rong nho.
Đến lúc đó họ mới chấp nhận đặt hàng của Công ty TNHH
Trí Tín, TP Nha Trang do kỹ sư Lê Bền đảm nhiệm vai trò
Phó giám đốc. Đến nay, cơ sở nuôi trồng và chế biến rong
nho tươi của doanh nghiệp Trí Tín đã được nâng cấp, mở
rộng với công suất mỗi năm 30-40 tấn.
Kỹ sư Lê Bền tại cơ sở trồng và chế biến rong nho ở xã Ninh
Hải, huyện Ninh Hòa.
Tiếp xúc với phóng viên Báo CAND, ông Yamacuchi - kỹ sư
thủy sản người Nhật đang được đặc trách giám sát kỹ thuật
tại cơ sở nuôi trồng rong nho của anh Bền, nhận xét: "Đây là
một phương pháp hữu hiệu, chi phí đầu tư thấp. Với thời gian
trồng 20 ngày, cây rong nho đã đạt độ dài từ 10 đến 20cm,

trong khi đó ở Okinawa - Nhật Bản là nơi có điều kiện môi
trường tốt nhất, cây rong nho cũng chỉ đạt khoảng 6 đến 7cm.
Đành rằng sản phẩm rong nho ở Okinawa sạch, nhưng cây
rong trồng ở đây dài, quả lớn, màu sắc đẹp, mùi vị và chất
lượng thơm ngon hơn".
Với phương pháp trồng nêu trên, thời gian sinh trưởng của
rong nho từ khi trồng đến khi thu hoạch từ 15 đến 20 ngày,
mỗi hécta có thể cho năng suất 30 tấn/năm, cao gấp đôi so
với kết quả trồng ở Nhật Bản, trong khi đó chi phí đầu tư
thấp hơn khoảng 10 lần, nhưng giá thành sản phẩm mỗi
kilôgam rong nho tươi vẫn thu được từ 10 đến 15 USD.
Để có được sản phẩm rong nho đủ tiêu chuẩn xuất khẩu sang
thị trường Nhật, sau khi thu hoạch từ cơ sở nuôi trồng, khâu
sơ chế đã được thực hiện theo một quy trình kỹ thuật hết sức
cẩn trọng và nghiêm ngặt. Cây rong được cắt thành đoạn
ngắn từ 5 đến 7cm trước khi đưa vào bể tẩy lọc chất bẩn, rồi
chuyển vào máy ly tâm làm khô nước. Tiếp đó là lựa chọn
những cây rong khoẻ, đạt chất lượng để đóng gói. Sản phẩm
rong nho trên thị trường hiện có hai loại rong tươi có thời
gian sử dụng từ 5 đến 6 ngày, rong muối từ 2 đến 3 tháng.
Rong nho không chỉ là thực phẩm bổ dưỡng, mà còn được
chế biến sản phẩm mặt nạ chăm sóc da.
Với những kết quả bước đầu về nghiên cứu, cải tiến phương
pháp trồng và nhân giống rong nho có chất lượng cao, tin
rằng việc chuyển giao kỹ thuật trồng rong nho sẽ được nhân
rộng và phát triển trong cộng đồng, đặc biệt là những vùng
đảo thiếu rau xanh và nước ngọt. Sản phẩm cây rong nho
nuôi trồng ở cơ sở của anh Lê Bền đã chứng minh loài cây
này có khả thích hợp với điều kiện tự nhiên và thời tiết, khí
hậu nhiều vùng biển ở Việt Nam. Bây giờ, loài rau xanh cao

cấp này cũng đã có mặt trong thực đơn ở một số nhà hàng
Hoa Ý, Cây Sáo, Thiên Quế… TP Hồ Chí Minh và trong nay
mai sẽ trở thành loại thực phẩm phố biển trong các bữa ăn
của người Việt. n
Theo Tiến sĩ Nguyễn Hữu Đại, Trưởng phòng Thực vật biển
- Viện Hải dương học Nha Trang: Rong nho biển có tên khoa
học Caulerpa lentilifera thuộc bộ rong cầu lục Caulerpales,
ngành rong lục Chlorophyta. Do hình dạng và giá trị dinh
dưỡng cao, nên rong nho còn được ví như trứng cá Hồi xanh
(Green Caviar) hoặc Nho biển (Sea grapes). Đây là loài rong
lục phân bố ở vùng biển ấm Thái Bình Dương như
Philippines, Java, Micronesia, Bikini… ở những vũng, vịnh
kín sóng, nước trong. Rong nho biển có đặc điểm mềm, giòn
và ngon nên được ưa chuộng như một loại rau xanh cao cấp.
Tại Việt Nam vào năm 2006, các nhà khoa học ở Viện Hải
dương học Nha Trang đã tìm thấy rong nho ở đảo Phú Quý,
tỉnh Bình Thuận, nhưng kích thước chỉ bằng 1/3 hay 1/4 rong
nho biển có nguồn gốc Nhật Bản. Tháng 9-2006, những mẫu
rong nho tươi đã được gửi đến một Trung tâm Dịch vụ phân
tích thí nghiệm ở TP Hồ Chí Minh kiểm định thành phần hóa
học. Kết quả cho thấy rong nho biển không chứa nhiều
đường, đạm, nhưng rất giàu vitamin A, C và các nguyên tố vi
lượng cần thiết và có hàm lượng Iod cao. Một số tài liệu đề
cập rong nho biển còn có khả năng kháng khuẩn, kháng nấm,
có thể ngừa bệnh cao huyết áp và thấp khớp.

×