Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Giáo trình hình họa học phần 1 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.25 MB, 30 trang )

MỤC LỤC
HỌC PHẦN 1 1
NHÓM TƯỢNG XƯƠNG SỌ, TƯỢNG PHÁC MẢNG, TƯỢNG LỘT DA
VÀ TƯỢNG CHÂN DUNG 1
MỞ ĐẦU 1
MỤC TIÊU 1
TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ ĐIỀU KIỆN HỖ TRỢ 1
NỘI DUNG BÀI HỌC 1
1. Những kiến thức chung về Hình hoạ 1
1.1. Khái niệm 1
1.2. Nguồn gốc hình hoạ 3
1.3. Vai trò của hình họa với học tập và sáng tác mỹ thuật 11
2. Đặc tính của chất liệu vẽ chì đen trắng với các bài vẽ khối cơ bản 24
2.1. Các yếu tố biểu đạt 24
2.2. Khả năng biểu đạt của chất liệu chì đen 24
2.3. Đặc điểm tâm lý thị giác trong bài vẽ hình hoạ đen trắng 25
3. Hướng dẫn tự học 26
3.1. Tìm hiểu thêm để củng cố kiến thức chung 26
3.2. Phân tích khả năng biểu đạt của chất liệu chì trong các bài hình hoạ và
tranh vẽ đen trắng 27
4. Yêu cầu cần đạt 28
5. Câu hỏi ôn tập 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO 29
HỌC PHẦN 1
NHÓM TƯỢNG XƯƠNG SỌ, TƯỢNG PHÁC MẢNG, TƯỢNG LỘT DA
VÀ TƯỢNG CHÂN DUNG
(2 tiết lý thuyết)
MỞ ĐẦU
Tái tạo không gian ba chiều trên mặt phẳng hai chiều là công việc của người
học và sáng tạo nghệ thuật hội hoạ (trong đó có hình hoạ). Sử dụng các thủ pháp diễn
tả thông qua đường nét, hình mảng, đậm nhạt, màu sắc để tạo không gian cho bài vẽ


đòi hỏi một quá trình nghiên cứu, vừa có kiến thức tổng thể, vừa có kỹ năng thực hành
cơ bản và sáng tạo.
Máy ảnh chỉ ghi lại một khoảng khắc nhất định của thực tiễn do máy móc thực
hiện. Do vậy, máy ảnh có thể giúp ích rất nhiều cho hoạ sỹ trong lấy tài liệu và sáng
tạo nghệ thuật, nhưng không thể thay thế được vẽ nghiên cứu bởi vẽ nghiên cứu là cả
một quá trình phân tích, tìm tòi của người vẽ trước đối tượng; khám phá và thể hiện
cái đẹp của đối tượng thông qua cảm xúc và khả năng của người vẽ.
MỤC TIÊU
- Hiểu được khái niệm, nguồn gốc của hình họa; vai trò của môn hình họa đối
với sáng tác và học tập các môn học khác, nắm được khái lược chương trình giảng dạy
hình họa ở hệ đại học.
- Hiểu được đặc tính, các yếu tố và khả năng biểu đạt của chất liệu vẽ chì trắng
đen.
TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ ĐIỀU KIỆN HỖ TRỢ
Các tư liệu về bài vẽ hình họa của các họa sỹ nổi tiếng trên các tài liệu
mỹ thuật các sách dạy vẽ hình họa; bài nghiên cứu hình họa; tư liệu về các bức
họa trên các tài liệu khảo cổ, các hiện vật
NỘI DUNG BÀI HỌC
1. Những kiến thức chung về Hình hoạ
1.1. Khái niệm
Nhu cầu vẽ là một hiện tượng tự nhiên mang tính bản năng của con người. Trẻ
em biết vẽ trước khi biết viết, biết đọc. Một đứa trẻ mới hai hoặc ba tuổi, nếu có một
vật trong tay như bút, phấn hoặc chỉ là một mẩu gạch cũng có thể gạch và vẽ những
1
hình, nét trên mặt phẳng trong khi chưa biết viết, biết đọc. Lịch sử văn minh nhân loại
cũng ghi nhận nhiều hiện tượng tương tự như vậy, các hình vẽ và hình hoạ đã có từ rất
lâu trước khi phát minh ra chữ viết. Khoảng 20.000 nghìn năm trước đây, người
nguyên thuỷ đã biết vẽ lên vách hang đá nơi họ sinh sống những hình người, hình thú
vật. Và thật kỳ diệu, những bức vẽ ấy sống động và rất gần với hiện thực, với đối t-
ượng được miêu tả.

Hiện thực của tự nhiên và xã hội luôn là đối tượng trung thành cho con người đi
tìm cái đẹp. Sự tìm tòi và khám phá vốn là thuộc tính của nghệ sỹ. Vì vậy, nghiên cứu
thực tế, vẽ lại thiên nhiên một cách trung thực là yêu cầu rất cần thiết đối với người
mới học mỹ thuật.
Theo “Từ điển thuật ngữ Mỹ thuật phổ thông”, hình hoạ là môn vẽ người hoặc
vật (mẫu) tương đối kỹ và chính xác, được thể hiện bằng nhiều kỹ thuật và chất liệu
khác nhau như chì đen, than, bột màu, sơn dầu. Từ trước tới nay, nghiên cứu và thể
hiện vẻ đẹp của con người luôn được đề cao, là đối tượng để hoạ sỹ khám phá, sáng
tạo. Con người là sản phẩm cao quý nhất, đẹp nhất của tự nhiên. Việc nghiên cứu ng-
ười mẫu (nhất là người mẫu khoả thân) luôn là mục tiêu của người học và sáng tác mỹ
thuật. Bởi con người là một hình mẫu đẹp nhất về cấu trúc, tỷ lệ. Những hình tượng
nghệ thuật thể hiện trên người khoả thân khác hẳn về chất, nội dung và hình thức nghệ
thuật với những loại tranh ảnh thiếu lành mạnh. Tuy nhiên, để vẽ được người mẫu, cần
có những luyện tập từ thấp tới cao, từng bước một với những kiến thức và kỹ năng cơ
bản của vẽ hình hoạ.
Những pho tượng lý tưởng về tỷ lệ, cấu trúc và vẻ đẹp của cơ thể con người đã
được các nhà điêu khắc cổ đại Hy Lạp như Pô-li-clét, Mi-rông, Phi-đi-át thể hiện mãi
mãi là những chuẩn mực tuyệt tác của nhân loại. Vì thế người ta đã mệnh danh cho đất
nước Hy lạp là “Vương quốc của cái đẹp”. Không thoả mãn với những gì đã có, các
hoạ sĩ thời Phục Hưng Ý, mà tiêu biểu là Lê-ô-na đờ Vanh-xi, Mi-ken-lăng-giơ, Ra-
pha-en đã vẽ nên những bức hình hoạ tuyệt đẹp về vẻ đẹp con người. Lịch sử mỹ
thuật đã cho thấy, hầu hết các hoạ sỹ nổi tiếng đều có trình độ rất cao về hình họa. Đó
chính là cái gốc giúp họa sĩ thành công trong xây dựng tác phẩm.
Hình hoạ có vai trò rất lớn trong học tập và sáng tác mỹ thuật. Hoạ sỹ người
Pháp Anh-gơ-rơ cho rằng: “đường nét là hình hoạ hay đúng ra nó là tất cả ”. Trong
thiên nhiên, mọi vật đều tồn tại có dạng hình thể, vẽ trước hết là ghi lại các hình thể đó
trên mặt phẳng của không gian 2 chiều.
Vậy hình hoạ là gì?
“Hình hoạ là phương pháp xây dựng hình thể để mô tả đối tượng khách
quan có thực mà mắt ta quan sát được bằng đường nét, mảng, hình khối, sáng tối

2
để tạo không gian trên mặt phẳng”. Không gian trong hình hoạ có thể là một màu
hoặc nhiều màu.
Có nhiều cách gọi khác nhau về hình hoạ nhưng nói chung có những cách gọi
chính là: hình họa, vẽ theo mẫu, vẽ tả thực, vẽ nghiên cứu
1.2. Nguồn gốc hình hoạ
1.2.1. Hình vẽ có từ thời nguyên thuỷ
Sự phát hiện ra những bức vẽ trong hang động Altamira (Tây Ban Nha) năm
1875 thực sự đã gây sửng sốt và tạo nên một cuộc tranh luận sôi nổi trong giới khảo cổ
học, sử học. Ban đầu, người ta đã không thể tin rằng tranh vẽ những con bò rừng, trang
trí tuyệt đẹp và sinh động, tưởng như còn rất mới kia không thể có cách đây trên một
vạn năm. Bởi lúc đó, người tiền sử với công cụ thô sơ, trình độ thấp kém không thể vẽ
được những con vật hoàn hảo như vậy.
Nhưng sau nhiều năm nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đã khẳng định các tranh
vẽ ở hang Altamira là nghệ thuật Tiền sử. Cái đặc sắc của các bức vẽ này là đàn bò
rừng được diễn tả rất thực với nhiều tư thế rất sống động, chứng tỏ khả năng quan sát
và thể hiện rất cao. Ngoài những kỹ thuật khắc chìm, dùng nét đen rồi bôi màu lên;
trong các hình vẽ ở hang động này có những chỗ đã được vờn bóng khối, diễn tả ánh
sáng và các sắc thái tương phản khá công phu.
Sau Altamira người ta còn tìm thấy nhiều bức vẽ trong các hang động ở Tây
Ban Nha, Pháp, Đức, Nga và Châu Phi Điểm nổi bật trong các bức vẽ này là người
nguyên thuỷ đã biết loại trừ những chi tiết nhỏ nhặt, chắt lọc lại những điểm rất cơ
bản, đặc trưng và tinh tế. Từ cái vỏ giống nhau được lặp đi lặp lại của sự việc, người
nguyên thủy đã đơn giản để diễn tả bản chất của đối tượng bằng lối hình học hoá và đồ
họa hoá.
Những bức họa đặc sắc trên các vách đá, những dấu chân rõ nét của người và
động vật, những vết khói ám từ những ngọn đuốc Tất cả là những kho báu vô giá
của loài người được thời gian lưu giữ và bảo tồn cho đến ngày nay. Được mệnh danh
là “nhà nguyện thời tiền sử".
Động Lascaux - một quần thể hang động thuộc miền tây nam nước Pháp sở hữu

một trong số những bức họa trên vách đá quý giá nhất trên thế giới. Những kiệt tác
nghệ thuật trên các vách đá trong hang động này có tuổi thọ ít nhất là 15.000 năm.
Hang động này được phát hiện vào ngày 12/9/1940 bởi 4 thanh niên có tên
Marcel Ravidat, Jacques Marsal, Georges Agnel, Simon Coencas, và chú chó Robot
của Ravidat. Sau Thế chiến thứ 2, công chúng mới có cơ hội dễ dàng tham quan khu
hang động này.
3
Hình 1- Đàn bò - nghệ thuật tiền sử
Hình 2 - Đàn ngựa trên vách động Lascaux
4
Hình 3- Bò rừng trên vách động Lascaux
Đến năm 1955, Lascaux thu hút trung bình 1.200 du khách đến tham quan mỗi
ngày khiến cho các tác phẩm hội họa bị hủy hoại khá nhiều bởi khí hecarbon dioxide.
Cuối cùng, vào năm 1963, người ta quyết định đóng cửa hang động, không cho phép
khách du lịch vào thưởng lãm nhằm bảo tồn các bức họa này.
Động Altamira độc đáo nhờ những bức họa trên vách đá. Altamira tọa lạc gần
Santilliana del Mar ở Cantabria, phía Bắc Tây Ban Nha, cách Santander 30 km về phía
Tây. Cũng giống như những hang động khác, Altamira cũng tình cờ được phát hiện ra.
Vào năm 1868, một thợ săn có tên Modesto Cubillas bị trượt ngã khi đi ngang
qua khu hang động này nhưng mãi 7 năm sau, một nhà quý tộc từ Santander có tên
Marcellino Sanz de Santuola mới chính thức khám phá ra Altamira.
5
Hình 4- Bò rừng trên vách động Altamira
Vào khoảng năm 1879, người phát hiện ra những bức họa trên vách đá trong
hang động này lại là cô con gái của nhà quý tộc tên Maria de Santuola. Hai cha con họ
quyết định giữ bí mật nhằm bảo tồn và gìn giữ những bức tranh đá đẹp tuyệt vời, mãi
cho đến khi họ qua đời, các chuyên gia vẫn còn nghi ngờ về tính xác thực của khu
động này.
Đến đầu thế kỷ XX, các nhà khoa học và các chuyên gia khảo cổ học mới phát
hiện ra khu hang động nhờ vào những vết tích từ thời kỳ đồ đá còn sót lại xung quanh

khu vực đó. Những bức họa của Altamira là bằng chứng rõ nét về nền văn hóa của
người Magdaléni (cách đây gần 16.000 năm) sinh sống tại phía Nam châu Âu.
Hình 5 - Một bức họa trên vách động Altamira
Động Chauvet nằm ở phía Nam nước Pháp cũng sở hữu rất nhiều tác phẩm
nghệ thuật đặc biệt. Hang động này trở nên nổi tiếng vào năm 1994 sau khi một nhóm
gồm 3 nhà nghiên cứu hang động phát hiện ra những vách đá của hang động này được
trang trí bằng những bức họa mô phỏng cuộc sống của con người vào thời kỳ đồ đá cũ.
6
Hơn thế nữa, những bức tường trong hang động vẫn còn lưu giữ những phần
hóa thạch còn sót lại của rất nhiều loài động vật trong đó có những loài ngày nay đã
tuyệt chủng. Trên sàn động cũng còn lưu lại khá nhiều dấu chân của động vật và con
người từ thời tiền sử. Động Chauvet nhanh chóng được xem là một trong những bảo
tàng tự nhiên về nghệ thuật thời tiền sử quan trọng nhất thế giới. Hang động này là
nơi cư ngụ của con người trong suốt 2 thời kỳ: Aurignacian (cách đây khoảng 32.000
đến 30.000 năm trước Công nguyên) và thời kì Gravettian (cách đây khoảng 28.000
đến 22.000 năm trước Công nguyên).
Hình 6 - Bức họa trên vách động Chauvet
Hầu hết các tác phẩm nghệ thuật thuộc thời kỳ Aurignacian đều nguyên vẹn cho
đến tận ngày nay trong khi đó vết tích của thời Gravettian còn sót lại chỉ là một dấu
chân trẻ con, một khoảng hang đá nhuốm khói carbon từ những cây đuốc mà họ đốt
cháy trong hang động.
Động Magura nằm ở phía Tây Bắc Bulgary, cách thủ đô Sofia 180 km.
Điểm có một không hai của hang động này là những bức tranh trên đá được hình thành
từ phân Dơi. Những bức tranh này bao gồm rất nhiều lớp, hình thành từ nhiều thời kỳ
khác nhau: Epupaleolith, Neolith, Eneolith, giai đoạn đầu của thời kỳ Đồ đồng. Những
bức họa trong hang động Magura miêu tả cảnh nhảy múa của những cô gái, cảnh săn
bắn của những người đàn ông, cảnh hóa trang
Hình 7 - Các hình vẽ trên vách động Magura
trong các lễ hội và rất nhiều hình ảnh động vật, mặt trời, các ngôi sao, nông cụ và
những cây cối. Rất nhiều các sự kiện và lễ hội tôn giáo qua các thời kỳ được phản ánh

bằng những biểu tượng, những nhân vật quan trọng trên nền vách đá. Một số hình ảnh
miêu tả rõ nét và phong phú các mặt đời sống tinh thần, vật chất của con người thời kỳ
tiền sử. Độc đáo nhất trong số tất cả các hang động được nhắc đến có lẽ là động
Cosquer bởi đây là một hang động dưới nước, cách đây 27.000 năm. Cosquer thuộc
vùng Calanque de Morgiou gần Marseille, Pháp, cách Cap Morgiou không quá xa.
Cửa vào hang động này đến nay vẫn ngập trong nước, dưới mực nước biển 37m. Năm
1991, Henri Cosquer đã khám phá ra chiếc hang đặc biệt này và vì vậy mà tên của ông
được đặt cho địa danh này.
7
Hình 8- Các hình vẽ trên vách động Magura
Hình 9 - Hình vẽ trên vách động Cosquer
Du khách có thể vào tham quan khu hang động thông qua một đường ống dài
175m nối thẳng vào cửa hang. Động có rất nhiều tác phẩm hội họa và điêu khắc có từ
thời kỳ tiền Paleolithic: những khuôn vẽ có cách đây 27.000 năm; những dấu vết của
động vật và con người cách đây 19.000 năm (thời kỳ Solutrean); những bức vẽ các loài
động vật từ bò rừng Bizon, dê rừng núi An-pơ, ngựa đến những sinh vật biển như Hải
cẩu, chim Anca và Sứa.
Động Font de Gaume là nơi cư ngụ của con người sinh sống quanh khu vực
thung lũng Dordogne cách nay khoảng 25.000 năm trước Công nguyên. Miệng hang là
nơi định cư của con người trong khoảng vài nghìn năm sau đó. Tuy nhiên, sau đó thì
hang động này bị lãng quên mãi cho đến thế kỷ thứ XIX, người dân địa phương mới
bắt đầu phát hiện ra Font de Gaume. Năm 1901, Denis Peyrony, một giáo viên đến từ
Les Eyzies, khám phá ra những bức họa bên trong Font de Gaume, có niên đại khoảng
17.000 năm, thuộc thời kỳ Magdaléni. Font de Gaume gìn giữ hơn 200 bức họa đa sắc
miêu tả rất nhiều
Hình 10 - Một bức họa trong động Font de Gaume
loài động vật như bò rừng Bizon, Ngựa và Voi Ma-mút.
8
Ngành khảo cổ học nước ta cũng đã tìm thấy những hình vẽ được khắc trên
vách đá ở động người xưa (Hoà Bình). Đó là những hình mặt người và thú được khắc

một cách đơn giản, khái quát, góc nhìn chính diện với đầy đủ mắt mũi, miệng rất sinh
động. Những viên đá sỏi có khắc hình nét mặt người ở Na Ca (Thái Nguyên) với trán
nhẵn, cằm rộng, mũi dài, mắt nheo và miệng cười tiêu biểu cho nghệ thuật của ngư-
ời nguyên thuỷ Việt Nam.
Những trống đồng cổ được phát hiện ở Đông Sơn (Thanh Hoá) vào năm 1924
không chỉ đạt đỉnh cao về kỹ thuật chế tác mà còn là tinh hoa, biểu tượng tiêu biểu của
văn minh người Việt Cổ. Đặc điểm quan trọng của nghệ thuật tạo hình trên trống đồng
là con người; con người chiếm vị trí chủ đạo trong thế giới muôn loài. Đó là hình các
chiến binh, vũ đạo và con người trong sinh hoạt đời thường như chèo thuyền, giã gạo
hình vẽ người được đơn giản và cách điệu khá cao theo hướng đồ hoạ hoá, kỷ hà hoá
một cách khúc triết, sinh động.
Hình 11 - Hình khắc ở hang Đồng nội- Hòa bình

Hình 12 - Hình mặt trống đồng
Hình 13 - Hoa văn trên trống đồng Ngọc Lũ
Hình 14 -Di tích bãi đá có hình khắc vẽ thời tiền sử xã Nấm Dẩn,
9
huyện Xín Mần - Lào Cai.
Như vậy, có thể nói nghệ thuật ra đời do nhu cầu của con người. Trong lao động
săn bắn và hái lượm, trong đấu tranh với thiên nhiên nghiệt ngã để bảo tồn và phát
triển, người nguyên thuỷ đã sáng tạo ra ngôn ngữ nghệ thuật cho mình. Những tác
phẩm hội hoạ đầu tiên trong buổi bình minh của loại người đều mang nặng dấu ấn của
hình hoạ. Đó là những hình vẽ các con vật, hình người với các động tác đa dạng, sống
động. Với cách vẽ đường viền chu vi hay những mảng màu đậm đặc, hình ảnh được
miêu tả chứng tỏ khả năng quan sát và rất thuộc mẫu của người vẽ. Dù đơn giản hay
tinh tế, vụng về hay trau chuốt, chất liệu thực vẫn là phẩm chất đầu tiên của bức vẽ
1.2.2. Hình vẽ có trước chữ viết
Trước khi dùng những ký hiệu đơn giản để nói lên tư tuởng của mình, tức chữ
viết, con người đã biết vẽ. Những hình vẽ trên hang động của người nguyên thuỷ
không chỉ để trang trí, mà còn là ký hiệu thông tin để ghi nhớ và báo cho cộng đồng

những con thú cần săn bắt. Qua những bức tranh ở Sa-ha-ra (châu Phi) có thể nhận biết
hai giống bò thông qua cấu tạo của sừng người Et-ki-mô có những ký hiệu bằng
hình vẽ rất cô đọng để chuyển tải thông tin cho nhau một cách nhanh chóng nhất.
Chữ tượng hình của người Ai cập, Trung quốc là loại chữ được biểu hiện trên
cơ sở hình tượng sự vật. Mặc dầu đã được đổi thay theo tiến trình tiến hoá lịch sử song
nhiều chữ vẫn còn mang nặng dấu ấn đó cho đến ngày nay; minh chứng khả năng hình
vẽ làm biểu tượng và là phương tiện truyền tải thông tin nhanh nhất, đơn giản nhất.
Lịch sử Trung quốc ghi nhận, có chữ ban đầu dựa vào một nguyên mẫu cụ thể,
thông qua hình vẽ làm biểu tượng cho ngôn ngữ. Qua quá trình vận động, ký hiệu đó
dần được chuyển hoá, đôi khi không còn hình dáng nguyên mẫu của ban đầu. Chữ
quân trong tiếng Hán cổ là một ví dụ. Khởi đầu là một bức chân dung vẽ người cầm
đầu bộ lạc với mặt, mồm và hai tay. Song từng bước, thời gian đã làm cho thay đổi, đi
dần đến đơn giản và thuận tiện hơn.
Tuy không hoàn toàn là chữ tượng hình, nhưng ở tấm đá của Pha-ra-ông- nac-
me-rơ (Ai cập cổ đại) với những hình khắc nổi và những dòng chữ ngắn đã kể lại một
cách đầy đủ, trọn vẹn chiến thắng của Nác-me-rơ của Vua Ai cập và đã thống nhất
đồng bằng sông Nin thành một quốc gia hùng mạnh. Tấm đá này giúp cho các nhà sử
học, ngôn ngữ học ngày nay có thể đọc và nghiên cứu khá chính xác lịch sử thời kỳ đó
thông qua các hình vẽ, hình tượng mà người Ai cập cổ đã ghi lại.
10
Hình 15 - Chữ tượng hình Ai cập cổ đại
Hình 16 - Chữ tượng hình Rongorongo
Hình 17 - Chữ tượng hình Rongorongo
Như vậy, trước khi có chữ viết, trong quá trình lao động, đấu tranh để tồn tại,
phát triển và tự hoàn thiện mình con người đã sáng tạo ra các ký hiệu bằng hình vẽ. Đó
là những bảng mẫu chữ viết nguyên sơ đầu tiên. Cùng với tiến trình văn minh nhân
loại, chữ viết đã không ngừng được hoàn thiện và đóng vai trò quan trọng trong đời
sống con người.
1.3. Vai trò của hình họa với học tập và sáng tác mỹ thuật
1.3.1. Hình hoạ là môn học cơ bản

Trong thiên nhiên, mọi vật tồn tại đều có hình thể. Đối với mỹ thuật, hình thể
đóng vai trò rất quan trọng, mỗi hình chiếm một vị trí nhất định trong không gian và
11
có tiếng nói tạo hình nhất định. Vẽ cũng có nghĩa là ghi lại hình dáng (hay hình thể
của vật) đó bằng đường nét, đậm nhạt. Thông qua các kỹ thuật và thủ pháp diễn tả về
tương quan tỷ lệ, hình khối, sáng tối, màu sắc và chất cảm để tạo không gian ba chiều
trên mặt phẳng hai chiều. Vị trí của các hình trong tác phẩm tạo hình nói lên sự vững
chãi, chặt chẽ cho bố cục, các nhân vật và các chi tiết theo ý đồ của tác giả. Hình hoạ
tham gia vào tất cả quá trình học tập, nghiên cứu và sáng tạo nghệ thuật của hoạ sỹ.
Từ cổ tới kim, không có hoạ sỹ nào lại coi thường việc nghiên cứu hình họa.
Quan niệm của người Ai cập cổ đại tin rằng việc bảo tồn thân xác và chân dung những
người quá cố, nhất là các Pha-ra-ông sẽ làm cho họ trường tồn. Ngôn ngữ Ai cập, từ
“thợ điêu khắc” có nghĩa là “người giữ cho sống mã”,. Vì thế, nhờ sự tập trung hoàn
toàn vào vào cấu trúc hình dáng cơ bản của đầu người mà những bức tượng chân dung
gây được nhiều ấn tượng sống động. Còn người Hy lạp La mã lại tin rằng khi tạo ra cái
đẹp bằng cách làm cho một hình tượng được xây dựng thông qua một cơ thể đẹp cụ
thể. Những pho tượng như người ném đĩa của Mi-rông, vệ nữ Mi-lô đã đạt được hiệu
quả cao về chuẩn cấu tạo của cơ thể người và vị thế kỳ lạ của chuyển động, tạo được
vẻ đẹp và sự duyên dáng trong diễn tả, nét quyến rũ của cuộc sống bình dị. Đến các
hoạ sỹ thời Phục Hưng, nghiên cứu hình hoạ là niềm say mê trong khám phá, sáng tạo,
nhất là nghiên cứu cơ thể con người. Hoạ sỹ Lê-ô-na đờ Vanh-xi ngay từ thời trẻ đã
học vẽ mẫu người khoả thân và các đường lượn trên mẫu quần áo. Ông học vẽ phác
hình vào các quyển sổ tay mà ngày nay còn lưu giữ được với hàng nghìn bức vẽ và
trang viết. Khi đã thành danh, ông vẫn dò dẫm nghiên cứu bí mật về cơ thể người bằng
cách mổ xẻ hơn 30 tử thi. Nhờ đó hoạ sĩ đã xây dựng nên những bức tranh bất tử,
trong đó con người là trung tâm của tác phẩm với các trạng thái tâm lý khác nhau. Nhà
họa sĩ, điêu khắc Mi-ken-lăng-giơ lại cố thâm nhập, tìm hiểu về cách miêu tả cơ thể
đẹp của con người khi chuyển động với tất cả các cơ bắp và gân cốt. Ông thích vẽ các
nhân vật khoả thân ở tư thế phức tạp. Bức tranh sự phán xét cuối cùng được vẽ trên
tường nhà thờ Xích-xtin là một tác phẩm hoàn hảo về ý tưởng, bố cục và nhất là vẻ

đẹp của các mẫu người khoả thân.

Hình 18 - Vẽ nghiên cứu hình họa của Lê-ô-na-đờ Vanh-xi
Để xây dựng tác phẩm diễn tả cái chết của Ma-ra, một trong những lãnh tụ của
cách mạng Pháp, hoạ sỹ Đa-vít đã học được cách tạo hình bắp thịt và cơ gân của thân
thể, đồng thời tạo cho nó vẻ đẹp quí phái để đặc tả Ma-ra, người đã tự nhận sẽ mang
lấy định mệnh tuần giáo khi đang làm việc cho hạnh phúc của cộng đồng bị kẻ thù sát
hại ngay trong bồn tắm. Còn hoạ sỹ Anh-gơ-rơ thường nhấn mạnh vào qui luật về độ
chính xác tuyệt đối trong giờ vẽ hình hoạ khi dạy học. Anh-gơ-rơ có kỹ thuật diễn tả
12
hình thể con người một cách vững chãi, cặn kẽ với vẻ trong sáng đến lạnh lùng của cái
đẹp.
Hình 19 – Picasso - Những cô nàng ở Avignon
Các họa sỹ nổi tiếng cận hiện đại sau này trước khi trở thành danh hoạ với các
trào lưu nghệ thuật hiện đại nổi tiếng, họ đều là những người vẽ nghiên cứu hiện thực,
nghiên cứu mẫu người rất nghiêm túc và cơ bản. Hoạ sỹ vĩ đại bậc nhất của thế kỷ 20
Pi-cát-xô đã từng nói đại ý rằng: năm mười ba tuổi tôi vẽ được như Mi-ken-lăng-giơ
nhưng đến năm 30 tuổi tôi vẽ được như trẻ con. Điều ấy nói lên rằng trước khi sáng
tạo ra những trường phái tân kỳ cho hội hoạ thế kỷ XX, Pi-cát-xô đã từng nghiên
cứu hội hoạ rất kinh điển, bài bản và có kết quả cao. Chính sự vững vàng về nghiên
cứu hình hoạ đã giúp ông đi sâu vào tìm tòi, khám phá, tạo nên những khuynh hướng
hội hoạ mới. Đây cũng là điểm chung của các hoạ sỹ hiện đại thời trẻ. Khi còn học vẽ
tại Ma-đơ-rít, hoạ sỹ nổi tiếng Đa-li đã nắm rất vững hình hoạ kinh viện để sau này khi
tham gia phong trào Siêu thực (từ năm 1928) ông đã có thể thể hiện trên tranh những
tương phản thực và ảo cùng với những ác mộng căng thẳng về các mâu thuẫn xã hội,
các nghịch lý trong cuộc sống.
Hình 20 - Đôi giày - tranh của Van Gốc
Hình 21 - “Người đàn bà tắm” của Anh-gơ-giơ
Năm 1925 trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương được thành lập. Cùng với
các môn học tạo hình khác, Hình họa được đề cao với quỹ thời gian được đào tạo

nhiều, trong thi tuyển thường được chú trọng và nhân hệ số. Một loạt các hoạ sỹ tài
danh của đất nước ta đã trưởng thành từ mái trường này và tác phẩm của họ đã để lại
dấu ấn đậm nét trong nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam. Đó là các hoạ sỹ Tô Ngọc Vân,
Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Gia Trí, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn
Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái
Hình 23 - La Vie - Picasso
Như vậy, Hình hoạ nói chung hay vẽ người nói riêng luôn là mục tiêu, là đối t-
ượng để người học vẽ nghiên cứu, tìm hiểu và phát hiện. Hình hoạ có vai trò quan
trọng giúp cho người học có thể đi sâu hơn, phát triển bền vững trên con đường sáng
13
tạo. Dù ở bất kỳ thời đại nào Hình hoạ vẫn là nghiên cứu cơ bản cho sáng tạo nghệ
thuật.
1.3.2. Các yếu tố nghiên cứu của hình hoạ
- Nét, mảng không gian sáng tối và hình khối:
+ Nét:
Nét còn gọi là đường viền hay đường chu vi, là ranh giới giữa vật này với vật
khác hay giữa một vật với không gian bao quanh. Định nghĩa một cách khoa học thì
đường nét là tập hợp của những điểm chuyển động, trong hội hoạ, khái niệm “đường”
và “nét” thường cùng song hành, muốn tạo nét phải có đường và đường làm nên nét.
Sử dụng đường nét hợp lý, hiểu được vị trí vai trò của chúng trong học tập và
sáng tác hội hoạ, đồ hoạ là yêu cầu cơ bản của dạy và học mỹ thuật. Ngay từ các lớp
đầu tiên, học sinh tiểu học đã được làm quen với nét thẳng, nét cong, nét thanh, nét
đậm và vai trò của chúng. Mỗi nét đều có đặc tính biểu cảm khác nhau.
Trong một bức tranh, người hoạ sỹ phải sử dụng đường nét một cách hợp lý, có
tình cảm mới tạo ra được thành công cho tác phẩm.
Trong giới tự nhiên, bất kỳ một vật thể nào cũng được tạo nên bởi nhiều đường
nét kết hợp, đường nét cũng chính là cái cảm đầu tiên của con mắt đối với hình dáng
của một vật thể. Hoạ sỹ Anh-gơ-rơ cho rằng: “Đường nét là hình hoạ hay đúng ra nó
là tất cả”. Vì vậy, vẽ cũng có nghĩa là ghi lại các hình thể đó bằng nét ngay từ đầu khi
tiến hành bài tập.

14
Hình 24 - Nét vẽ của họa sỹ Leonardo da Vinci
+ Mảng:
15
Một mặt phẳng có chu vi nhất định gọi là mảng. Vẽ là nghệ thuật diễn tả trên
mặt phẳng nhưng sử dụng các phương pháp khoa học về phép đo tỷ lệ, xa gần, tác
động của sáng tối trong không gian theo qui luật của mắt nhìn, có nghĩa là tạo được
không gian ba chiều trên mặt phẳng hai chiều.
Trong mỹ thuật, nhất là đối với bố cục tranh còn có mảng chính, mảng phụ,
mảng nổi, mảng chìm, mảng đậm, mảng nhạt đó là cách gọi một lượng đậm nhạt
màu nào đó chiếm diện tích nhất định trên mặt tranh, tạo thành một mảng riêng, khác
biệt rõ ràng với các mảng xung quanh. Một bức tranh đẹp thường được nói đến bởi sự
hài hoà chung của các hình mảng trong bố cục.
Hình 25- Thiếu nữ bên hoa huệ - Tô Ngọc Vân
Đối với người mới học vẽ bao giờ giáo viên cũng yêu cầu phải quy các vật thể
của tự nhiên định vẽ thành các mảng cụ thể để dễ nhận xét, phân tích và đẩy sâu bài
học.
+ Hình:
16
Mảng tạo nên hình nhất định, những hình khác nhau được sắp xếp tạo nên sự
cân đối hay thăng bằng trong bố cục, hình vẽ. Trong tâm lý học thị giác, hình gây ấn t-
ượng mạnh vì có tính ngưng tụ, Hình luôn tồn tại ở hai dạng: cụ thể và trừu tượng, nó
bao hàm nhiều khía cạnh, nhiều ý nghĩa, biểu hiện tính đa dạng của ngôn ngữ hội hoạ.
Trong hội hoạ khái niệm hình mảng thường không tách rời nhau. Mảng khái quát còn
hình cụ thể hơn. Hiểu được mối quan hệ của hình và mảng để sắp đặt trong một bố
cục cụ thể là việc tìm tòi, nghiên cứu và sáng tạo của người học mỹ thuật. Mỗi giai
đoạn, mỗi dân tộc, thậm chí mỗi cá nhân có cách xử lý hình mảng khác nhau như ng
đều đưa tới thành công và tạo nên bản sắc riêng.
Khi dạy các bài vẽ theo mẫu, cái mà sinh viên nhận biết trước tiên chính là hình
dáng bên ngoài của vật đó nhờ khối, màu và nét. Ví dụ, khi nhìn cái phích nước, cái

ấm trước mặt không phải bằng khối, bằng màu, bằng nét mà bằng hình cái phích, cái
ấm đó được tạo ra trong mắt và sẽ được thể hiện nhanh chóng. Người học có thể chỉ
dùng nét mà tạo hình (đồ hoạ) hoặc chỉ dùng màu mà tạo hình (hội hoạ). Kết quả về
hình có thể giống nhau; song ở sinh viên giỏi, do cách xử lý có toàn bộ, biết vận dụng
hiểu biết về khối, nét và tương quan đậm nhật nên bức vẽ đẹp hơn, sinh động hơn.
+ Khối:
Một vật thể phải có hình dáng và chiếm chỗ nhất định trong không gian. Khối
chính là những khoảng không gian được giới hạn bởi các mặt phẳng hoặc cong. Khối
là không gian ba chiều bị giới hạn, được ánh sáng phân rõ các chiều hướng và bề mặt,
được xác định bởi chiều cao, chiều rộng, chiều sâu. Như vậy, khối của vật thể được
nhận biết theo cách vật thể ấy được đặt trong một không gian có giới hạn và xác định.
Trong khi đó, đối với hội hoạ nói chung và hình hoạ nói riêng, khối và không gian là
yếu tố ảo do đậm nhạt tạo nên trên mặt phẳng. Khối là một trong những yếu tố của cấu
trúc tạo hình cũng như đường nét, màu sắc, chất cảm để tạo nên hình tượng vật thể
trên bức tranh.
Cảnh vật và con người trong giới tự nhiên được cấu tạo bằng các khối cụ thể
hoặc liên kết với nhau, đều hình thành và xuất phát từ một số khối cơ bản. Đó là khối
cầu, khối lập phương và khối hình chóp.
17
Hình 26 - Một số khối cơ bản
Hình 27 - Một số khối cơ bản và khối biến dạng
+ Các khối hình biến thể:
Xuất phát từ các hình hình học cơ bản và các khối cơ bản sẽ tạo ra được các
khối hình biến thể. Các khối hình này là sự kết hợp các tính chất cơ bản của hai hình
khối ghép với nhau. Ví dụ: khối hình hộp với hình tròn tạo ra khối hình trụ, khối hình
18
chóp với hình tròn tạo ra khối hình nón, biến thể của khối cầu tạo ra khối quả trứng,
của khối trụ là khối lục lăng
Nghệ thuật hội hoạ có thể khái quát mọi hình dạng trong giới tự nhiên thành các
khối cơ bản và biến thể những khối hình hộp, khối trụ, khối nón là hoàn toàn hợp lý.

Nếu chú ý quan sát sẽ thấy: ngôi nhà ngói mái có khối hình chóp, khung nhà là khối
hộp, thân, cành cây là khối trụ, vòm lá là dạng khối hình quả trứng hoặc khối cầu. Cơ
thể con người là sự tổng hoà đến tuyệt vời các hình khối. Đầu người là khối hình cầu,
cổ và chân tay có dạng khối hình trụ, thân là dạng khối hộp Nếu chi tiết thêm sẽ lại
thấy từng bộ phận của cơ thể con người cũng có cấu trúc từ các khối cơ bản hoặc khối
biến dạng. Nhiều hoạ sỹ đã khai thác và sử dụng cách khái quát các hình khối vào xây
dựng nhân vật, hình tượng để sáng tác và tạo nên cách nhìn riêng, độc đáo cho mình.
Hình 28 - Bài vẽ tĩnh vật của sinh viên Sư phạm mỹ thuật
- Sáng tối và đậm nhạt:
Con người nhận biết thế giới khách quan thông qua con mắt và ánh sáng. Ánh
sáng chiếu rọi vào vật thể làm nổi hình khối, làm cho vật có màu sắc và đem lại ý
nghĩa cho việc ghi lại hình bóng của vật thể đó. Ánh sáng chiếu vào một hay hai chiều
nào đó của vật thể làm cho vật thể đó nổi hình và khối lên, các chiều khác không nhận
được ánh sáng sẽ chìm trong mảng tối. Tuỳ thuộc vào cấu tạo hình khối; màu sắc và
chất của vật mẫu; tuỳ thuộc vào nguồn sáng mạnh hay yếu mà tương quan của vật mẫu
thay đổi khác nhau. Tuân thủ đúng qui luật tạo hình và làm cho vật nổi lên trên mặt
phẳng hai chiều của tờ giấy hoặc vải vẽ là công việc của bài nghiên cứu hình hoạ. Tả
được không gian thật của mẫu ngoài tác dụng làm nổi hình khối, tạo chiều sâu của vật
thể còn có ý nghĩa miêu tả chất, màu sắc và cảm giác về chất, mùi vị của vật mẫu.
19
Người họa sỹ giỏi sẽ sử dụng đậm nhạt với nhiều cung độ khác nhau để gợi tả,
tạo nên sự cuốn hút của tác phẩm nghệ thuật. Lịch sử mỹ thuật đã minh chứng, càng
về sau vai trò của sáng tối, đậm nhạt theo tự nhiên được các hoạ sĩ quan tâm đặc biệt.
Thời kỳ Phục Hưng đã khám phá ra qui luật của phối cảnh đường nét để tạo ra chiều
thứ ba, mở ra khả năng diễn tả chiều sâu và không gian của bức vẽ. Tác phẩm chân
dung nàng Mô-na-li-za (hay La Giô- công- đơ) của hoạ sỹ Lê-ô-na đờ Vanh -xi vẽ
năm 1503, nụ cười bí ẩn của người thiếu phụ càng được mê hoặc thêm bởi thiên nhiên
hùng vĩ phía sau với làn sương mờ ẩm ướt, con đường nhỏ len lỏi với những lùm
cây như ẩn, như hiện trong không gian tĩnh lặng. Không gian trong tranh với độ
chuyển đậm nhạt tinh tế, tài hoa của họa sỹ làm cho tác phẩm trở nên sống động.

Phẩm chất của ánh sáng trong tranh là một trong những đặc điểm gây ấn tượng
mạnh mẽ nhất của hoạ sỹ hay một khuynh hướng mỹ thuật. Sự lên ngôi của kỹ thuật
sáng tối từ thời Phục Hưng tiếp tục được phát huy và gây cảm hứng cho các hoạ sỹ
châu Âu sau này. Với Lê-vát-kê, Răm-bơ-răng nguồn sáng duy nhất được khai thác
một cách thi vị bằng sử dụng ấn tượng tương phản, chuyển sắc, sự tăng giảm từ các giá
trị sắc độ. Nguồn sáng đã trở thành phương pháp quen thuộc của họa sỹ để gợi ra hình
thể và khối của không gian ba chiều trên mặt phẳng hai chiều.
- Tỷ lệ và cân đối
Nói đến vẽ theo tự nhiên không thể không nói đến sự hài hoà của tỷ lệ và cân
đối, bởi đó là phẩm chất cơ bản tạo nên vẻ đẹp của cuộc sống. Ngay từ thuở còn sơ
khai, con người đã tạo ra cho mình hình mẫu lý tưởng về vẻ đẹp của giới tự nhiên và
con người. Một vùng phong cảnh đẹp, một công trình kiến trúc, một khuôn viên gia
đình được coi là đẹp phải có sự tổng hoà của cấu trúc, tỷ lệ và sự cân đối từ cái chung
đến cái riêng. Tỷ lệ và sự cân đối không tách rời nhau mà cùng hiện diện, liên kết hỗ
trợ nhau phù hợp với đặc điểm và quan niệm thẩm mỹ của mỗi dân tộc, thời đại.
Phong cảnh thiên nhiên, cỏ cây hoa trái, chim chóc muông thú vốn có sẵn và hài hoà,
cân đối nên bất kỳ sự tác động ngược lại nào cũng làm mất đi vẻ đẹp đó. Để nắm bắt
được thực tế, người học vẽ phải nghiên cứu sâu, kỹ đối tượng khách quan và các qui
luật chung của tự nhiên thông qua hình dáng, cấu tạo, tương quan tỷ lệ và sự cân đối.
Nghiên cứu ghi chép để tìm ra các qui luật và cấu trúc cơ bản của hiện tượng sự vật sẽ
giúp rất nhiều trong học tập và sáng tạo nghệ thuật.
Cấu tạo hình thể con người là kỳ công nhất của tạo hoá về cái đẹp. Người Hy
Lạp cổ đại cho rằng cấu trúc cổ đại của thân thể dựa trên những tương quan tỷ lệ hài
hoà của vũ trụ. Theo họ, sự hài hoà chính là cơ sở của cái đẹp mà con người thể hiện ở
sự cân đối của các bộ phận. Nhà điêu khắc Pô-ly-clê-tơ sống ở thế kỷ thứ V trước
Công Nguyên đục bức tượng “Người vác giáo” nổi tiếng đã tìm ra tỷ lệ con người khi
lấy chiều dài khuôn mặt kể từ cằm đến đỉnh cao nhất của trán bằng 1/10 chiều cao của
20
thân thể, còn chiều dài từ đầu cằm đến đỉnh đầu bằng 1/8 chiều cao này. Nhà kiến trúc
sư La mã Vi-tơ-ru-vi-ut-nơ (thế kỷ I trước Công Nguyên) lại đưa ra tiêu chuẩn đẹp của

thân thể con người theo qui tắc vuông. Theo ông, con người có hình dáng đẹp là người
có chiều cao đúng bằng chiều dài của sải tay mình; vòng ngực trung bình phải lớn hơn
vòng eo từ 10-15cm, chiều dài của vai phải lớn hơn hông Hoạ sỹ Lê-ô-na tán thành
quan điểm trên nhưng ông cho rằng thân hình đẹp lý tưởng phải có chiều cao tương
đối lớn vì thế ông đưa ra qui tắc tròn thay cho qui tắc vuông. Do đặc điểm cấu tạo của
người Việt Nam tỷ lệ trung bình từ 6,5 đến 7 đầu theo cách tính của Pô-ly-clê-tơ. Các
môn học giải phẫu tạo hình, luật xa gần hỗ trợ tích cực cho người học vẽ và các hoạ sỹ
trong học tập, nghiên cứu và sáng tạo nghệ thuật.

Hình 29 - Qui tắc vuông và tròn về cơ thể con người
1.3.3. Hình họa với sáng tác tranh
Bố cục tranh là cách sắp xếp các yếu tố tạo hình như hình, mảng, đường nét,
màu sắc, đậm nhạt sao cho hợp lý, lôgic để xây dựng nên một tác phẩm nghệ thuật làm
nổi rõ ý đồ sáng tác của hoạ sỹ. Hay nói cách khác bố cục tranh là sự tổng hoà các yếu
tố tạo hình trên mặt phẳng thông qua sự diễn tả và cách nhìn riêng của người vẽ. Trong
đó con người và cảnh vật là những đối tượng không thể thiếu trong các tác phẩm, nhất
là những bức vẽ hữu hình và có chủ đề xã hội.
Nghiên cứu kỹ cấu trúc cơ thể con người và cảnh vật, tương quan tỷ lệ giữa
chúng với nhau qua tác động của qui luật thị giác trong không gian là nhiệm vụ của
hình hoạ. Vẽ nghiên cứu hình hoạ tốt (nhất là vẽ mẫu người) luôn được các hoạ sỹ
quan tâm. Các tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng từ xa tới nay trên thế giới cũng như ở
Việt Nam đều lấy hình hoạ để phác thảo và xây dựng tác phẩm, dù đó là những bức
tĩnh vật như một đôi giầy cũ, một cái ghế của Van-gốc, hay những bức tranh tuyệt mỹ
của các hoạ sỹ thời Phục Hưng như Lê-ô-na đờ Vanh-xi, Mi-ken-lăng-giơ, Ra-pha-en ,
Gióc-Giôn, Ti-Xiêng
Hình minh hoạ dưới đây cho thấy, để xây dựng tác phẩm “Buổi họp mặt kín”,
ngoài sự kết hợp hài hoà, hợp lý trong sắp xếp các nhân vật kết hợp với không gian
kiến trúc. Hoạ sỹ Lê-ô-na đờ Vanh-xi đã rất chú tâm đến nghiên cứu hình dáng, động
tác và tình cảm nhân vật với những động thái khác nhau. Sự tinh tế trong thể hiện tâm
trạng, thái độ của từng người trong mười hai vị thánh tông đồ khi nghe Chúa Giê -su

nói “trong số các ngươi có kẻ phản bội ta” đã đưa kịch tính đến cao trào. Chính các
yếu tố đó cùng với tài nghệ của hoạ sỹ đã tạo cho bức tranh sức sống và trở thành bất
hủ.
21
Hình 30 - “Buổi họp mặt kín” - Leonardo da Vinci
1.3.4. Hình họa với các môn học khác
Hình hoạ có tác động bổ sung hỗ trợ cho các môn học khác trong học mỹ thuật.
Người có khả năng vẽ hình hoạ tốt có tác dụng tích cực tới các môn học khác.
- Với ký họa:
Nếu như hình hoạ nghiên cứu người, vật, cảnh ở trạng thái tĩnh và cần có một
khoảng thời gian tương đối dài thì ký hoạ lại nghiên cứu đối tượng ở trạng thái động
bằng cách ghi nhanh những đường nét, hình dáng, đặc điểm, hoạt động chính của đối
tượng đang diễn ra trong thực tế. Khi vẽ một đồ vật hay một dáng cây ngoài thiên
nhiên, hình hoạ nghiên cứu kỹ về cấu trúc tỷ lệ, hình khối sát với mẫu thật; nghiên
cứu tác động của nguồn sáng chiếu vào mẫu để diễn tả không gian, tạo cảm giác về cái
thực đang hiện hữu. Còn ký hoạ lại phải vẽ nhanh, bắt ngay được đường nét, hình
dáng đặc điểm chính của đồ vật hoặc cây cối. Việc vẽ thật đúng tỷ lệ hình khối và
phân tích kỹ không gian do nguồn sáng chiếu vào chỉ giới hạn ở mức độ vừa phải. T-
ương tự như vậy đối với vẽ người, để vẽ một bài hình hoạ nghiên cứu cần có nhiều
điều kiện và thời gian. Từ việc chọn mẫu, đặt dáng và tìm nguồn sáng chiếu vào mẫu
cho thích hợp đến vận dụng các kiến thức giải phẫu tạo hình; cách sử dụng que đo,
dây dọi và các kỹ năng để diễn tả tất cả các chi tiết, trước hết là các chi tiết lớn của
người mẫu trong không gian cụ thể của thời điểm đó. Đồng thời thể hiện chính xác
các cấu tạo, hình dáng của người mẫu trong mối tương quan sáng tối đậm nhạt
chung. Phải diễn tả đúng mẫu với hình dáng vững vàng, lột tả được tinh thần, đặc
điểm của mẫu. Đối với ký họa, (dù dáng tĩnh hay dáng động) là ghi chép nhanh
hình dáng chung, lược bỏ những chi tiết không cần thiết để tập trung vào diễn tả sâu
đặc điểm của cấu tạo và nét mặt cùng một vài chi tiết quan trọng của mẫu. Xuất phát
từ hoàn cảnh thực tế và đặc điểm riêng, các hoạ sỹ Việt Nam vẽ ký họa rất tốt. Nhiều
bức ký hoạ của các hoạ sỹ như Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Hoàng Trầm, Lê Lam,

Cổ Tấn Long Châu đã chứng tỏ khả năng vẽ hình hoạ cơ bản và tác động của hình
hoạ trong quá trình thâm nhập thực tế của họ và đó cũng là tiền đề cho các tác phẩm
sau này.
Ký hoạ là môn học rất gần gũi với hình hoạ, việc nắm vững cấu trúc hình thể
đậm nhạt trong nghiên cứu hình hoạ sẽ giúp ích cho ký hoạ rất nhiều, bởi ở thực tế
mọi cảnh vật, con người đều chuyên động và người học phải ghi chép ngay được.
Nghiên cứu hình hoạ tốt mới có thể chủ động khi ghi chép, lấy tài liệu tại thực tế để
tạo nên những bức tranh phản ánh đề tài muôn màu sắc của xã hội.
22
- Với điêu khắc:
Vẽ nghiên cứu người và vật trong giới tự nhiên của hình hoạ giúp cho điêu khắc
có cách nhìn về hình, khối và tỷ lệ tốt hơn. Hình hoạ nghiên cứu đối tượng trong
không gian ba chiều trên mặt phẳng hai chiều, còn chính điêu khắc mới nghiên cứu
đối tượng thực tế của không gian ba chiều. Vẽ hình hoạ tốt giúp người học, sáng tạo
điêu khắc chủ động, tinh tế hơn trong cách nhìn, cách thể hiện; vững chắc hơn trong
nghiên cứu và phân tích. Ngoài ra, khi xây dựng nhân vật, nhà điêu khắc có cơ sở để
thể hiện hình, đặc điểm và tình cảm tốt hơn nếu vững vàng về vẽ hình.
Hình hoạ và điêu khắc có mối quan hệ tương hỗ mật thiết với nhau trong học
tập và sáng tác nghệ thuật. Chính vì thế các chương trình đào tạo mỹ thuật, dù ở khoa
hội hoạ hay đồ hoạ đều có một số giờ điêu khắc để củng cố cách nhìn của hình hoạ.
Còn ở ngành điêu khắc, việc học hình hoạ trong chương trình đào tạo là bắt buộc
- Với trang trí:
Vẽ hình tốt sẽ hỗ trợ nhiều cho học trang trí thông qua ghi chép tài liệu thực tế.
Việc ghi chép cấu tạo hình thể và nắm bắt đặc điểm của đối tượng giúp cho bài trang
trí chủ động, sáng tạo hơn.
Đối với các bài chép hoa lá, chép và cách điệu gà, cá vàng người vẽ có khả
năng khái quát và bắt dáng cụ thể các chi tiết để giúp bài đơn giản, cách điệu thuận lợi
hơn. Đối với các bài có tính sáng tạo như tranh cổ động, tranh trang trí vai trò của
hình hoạ lại càng quan trọng, giúp sinh viên có điều kiện bắt dáng nhanh, chính xác và
đúng với cấu trúc của đối tượng cần ghi chép.

Hình 31 - "Rideau, Cruchon et Compotier" của danh họa Paul Czanne
Hình 32 - Bài trang trí (sinh viên trường ĐHSP nghệ thuật TW)
- Với các ngành nghệ thuật khác:
Hình hoạ còn tác động trực tiếp hoặc gián tiếp với các ngành nghệ thuật khác
như kiến trúc, trang trí điện ảnh, sân khấu, thiết kế mỹ thuật công nghiệp thông qua
cách nhìn hình, khối, cấu trúc tương quan trong mối quan hệ và ý tưởng của người
sáng tạo, thiết kế.
23
2. Đặc tính của chất liệu vẽ chì đen trắng với các bài vẽ khối cơ bản
2.1. Các yếu tố biểu đạt
2.1.1. Nét
Trong tự nhiên không có nét, mà do qui định của nghề vẽ và người vẽ mà thành.
Nét có khả năng biểu lộ tình cảm. Các nét có thể là nét to, nét nhỏ, nét thô, nét mảnh
Nét được sử dụng tuỳ theo đối tượng trong quá trình vẽ để mô tả hình thể, chất liệu và
tình cảm. Trong các bài hình hoạ, có thể sử dụng nét đơn hoặc tổ hợp của nhiều nét.
2.1.2. Mảng
Mảng là phần được giới hạn kín trên bề mặt. Có thể sử dụng nhiều nét để tạo
mảng. Mảng cũng có khả năng biểu lộ tình cảm và sức thuyết phục như nét. Trong
hình hoạ đen trắng, mảng được tạo thành bởi nhiều nét gạch bằng chất liệu chì hoặc
than. Do kỹ thuật thể hiện và cách sử dụng hiệu ứng của người vẽ để tạo thành mảng.
2.1.3. Khối
Là biểu hiện về mặt không gian. Trong tự nhiên khối là sự chiếm chỗ. Trong
hình hoạ nhờ nét, mảng và đậm nhạt tạo nên cảm giác có không gian hay có chiều sâu
trên mặt phẳng. Khối trong hình hoạ có sự biến đổi phức tạp. Vì vậy người vẽ phải biết
đơn giản để có thể thể hiện thành công và tạo được ý đồ muốn diễn tả. Tạo nên khối
chính, khối phụ, phần nổi bật và phần phụ trợ trên bài vẽ.
2.1.4. Đậm nhạt, sáng tối
Nhờ ánh sáng mà có thể cảm nhận được phần sáng và bóng tối trên các vật -
phần khuất của sáng. Trong nghiên cứu hình hoạ, mẫu thường được chiếu sáng ở một
phía nên đậm nhạt khá rõ ràng. Trong tự nhiên, mọi vật có màu sắc khi được chiếu

sáng nhưng người vẽ phải qui đổi về đậm nhạt của chất chì đen hoặc than và thể hiện
được sáng tối. Do vậy, đậm nhạt, sáng tối đôi khi cũng phần nào diễn tả được sắc thái,
chất cảm. Hoàn toàn có thể cảm nhận được màu xanh phấn và chất của củ su hào
thông qua bài vẽ hình hoạ đen trắng, hay màu trắng và sáng nhưng mờ và khô của chất
tượng thạch cao.
Hình 33 - Nguồn sáng chiếu vào vật mẫu tạo thành các độ đậm nhạt khác nhau
2.2. Khả năng biểu đạt của chất liệu chì đen
Chì đen là chất liệu phổ thông, dễ dùng, dễ sử dụng. Có nhiều bài hình hoạ và
nhiều trường có dạy vẽ sử dụng chất liệu chì đen khi học hình hoạ đen trắng. Chì đen
có khả năng diễn tả đường nét, sáng tối và chất
2.2.1. Khả năng diễn tả chất
24

×