Tải bản đầy đủ (.doc) (171 trang)

Hợp đồng dịch vụ pháp lý ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (783.97 KB, 171 trang )

HOÀNG THỊ VỊNH

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THỊ VỊNH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

NĂM 2014

HÀ NỘI - 2014

I


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THỊ VỊNH

HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 62.38.50.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS PHẠM HỮUNGHỊ

HÀ NỘI - 2014

II


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu trong luận án đều được trích dẫn nguồn trung thực. Những
kết luận khoa học của Luận án chưa được ai công bố trong bất kỳ cơng trình
nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

HOÀNG THỊ VỊNH

III


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1...............................................................................................................7
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU...............................................................................................7
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1........................................................................................24
CHƯƠNG 2............................................................................................................. 25
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ...................................25
PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM........................................................................................25
2.1.1.2. Quan niệm về dịch vụ pháp lý ở Việt Nam.................................................27

Nghiên cứu khái niệm DVPL rất cần phân định một cách rõ ràng DVPL mang
tính thương mại và DVPL khơng mang tính thương mại......................................28
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2........................................................................................46
CHƯƠNG 3.............................................................................................................47
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ.......................47
Ở VIỆT NAM..........................................................................................................47
Thứ ba: Điều kiện hành nghề Thừa phát lại..........................................................49
Thứ tư: Điều kiện hành nghề Tư vấn viên pháp luật.............................................50
Hai là: Tổ chức cung ứng dịch vụ pháp lý của Công chứng viên...........................53
Ba là: Tổ chức cung ứng dịch vụ pháp lý của Thừa phát lại..................................53
Bốn là: Tổ chức cung ứng DVPL của Tư vấn viên pháp luật.................................55
3.2.4.2. Tổng phí dịch vụ pháp lý............................................................................86
3.3.2.2. Phương thức nghiệm thu kết quả công việc................................................93
3.3.2.3. Phương thức giao nhận...............................................................................97
CHƯƠNG 4...........................................................................................................110
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG DỊCH
VỤ PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM................................................................................110
4.1.1.1. Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam hình thành và phát triển trên cơ sở một nền
dịch vụ pháp lý công..............................................................................................110
4.1.1.2. Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam ra đời muộn và có sự phát triển mất cân đối
giữa các loại hình DVPL.......................................................................................110
4.3.1.1. Hồn thiện các quy định về khái niệm dịch vụ pháp lý............................121

IV


4.3.1.5. Hoàn thiện các quy định về DVPL của Luật sư.......................................125
4.3.1.6. Hồn thiện các quy định về DVPL của cơng chứng viên..........................126
Bốn là: Hoàn thiện các quy định về người đại diện ký kết hợp đồng...................129
Năm là: Hoàn thiện các quy định về ủy quyền lại ký kết HĐDVPL....................130

KẾT LUẬN...........................................................................................................147

V


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Nghĩa tiếng Việt

BLDS 2005
BLTTHS; BLTTDS
CCV; CHV
DN; GPKD
ĐTV; CQĐT
DVPL; HĐDVPL
TMDVPL

Bộ luật dân sự 2005
Bộ luật tố tụng hình sự; Bộ luật tố tụng dân sự
Cơng chứng viên; Chấp hành viên
Doanh nghiệp; Giấy phép kinh doanh
Điều tra viên; Cơ quan điều tra
Dịch vụ pháp lý; Hợp đồng dịch vụ pháp lý
Thương mại dịch vụ pháp lý
General agreement on Trade in Serveses

GATS
GATT
GCNĐKKD

HNKTQT
LCC 2006;
LĐLSVN
LDN 2005, LĐT 2005
LLS 2006; LTM 2005
QLNN; HCNN
TAND; VKSND
THA; THADS
TMDV; DVTM
TPL; VPTPL
TTTGPLNN
TVVPL; TTTVPL
VAHS; ĐTVAHS
VPCC; VPLS
WTO

Hiệp định chung về thương mại dịch vụ
General agreement on Trade and Tarrifs
Hiệp định chung về thương mại hàng hóa và thuế quan
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
Hội nhập kinh tế quốc tế
Luật Cơng chứng 2006
Liên đồn Luật sư Việt Nam
VIETNAM BAR FEDRATION (VBF).
Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Đầu tư 2005
Luật Thương mại 2005; Luật Thương mại 2005
Quản lý nhà nước; Hành chính nhà nước
Tịa án nhân dân; Viện kiểm sát nhân dân
Thi hành án; Thi hành án dân sự
Thương mại dịch vụ; Dịch vụ thương mại

Thừa phát lại; Văn phòng thừa phát lại
Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước
Tư vấn viên pháp luật; Trung tâm tư vấn pháp luật
Vụ án hình sự; Điều tra vụ án hình sự
Văn phịng cơng chứng; Văn phịng luật sư
World Trade organization
Tổ chức thương mại Thế giới

VI


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, các tổ chức và cá
nhân ngày càng có nhu cầu sử dụng DVPL. Các tổ chức và cá nhân cần sự trợ giúp
pháp lý một cách thường xuyên nhằm đảm bảo sự an toàn về mặt pháp lý cho các giao
dịch của mình.
Q trình tồn cầu hóa kinh tế đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của DVPL
cho các tổ chức và cá nhân ở tầm quốc tế. Các chủ thể tham gia nhiều giao dịch liên
quan đến nhiều lĩnh vực được điều chỉnh bởi pháp luật trong nước và pháp luật
quốc tế. Hình thức pháp lý của các giao dịch đó là hợp đồng. Để các giao dịch của
các chủ thể diễn ra an toàn và hiệu quả thì cần phải có sự trợ giúp pháp lý từ phía
các nhà cung cấp DVPL. Việc trợ giúp pháp lý của nhà cung cấp DVPL đối với bên
sử dụng DVPL được thể hiện dưới hình thức HĐDVPL. Để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể HĐDVPL, đặc biệt là của bên sử dụng DVPL và phòng
ngừa tranh chấp xảy ra, đòi hỏi pháp luật về HĐDVPL phải khơng ngừng hồn
thiện. Đồng thời hệ thống pháp luật quốc gia về HĐDVPL phải phù hợp với các
Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết.
Ở Việt Nam, DVPL mới khởi động và phát triển từ những năm 90 của thế kỷ
20 trở lại đây. So với bề dầy truyền thống nghề luật ở các nước phát triển như Hoa

Kỳ, Anh, Pháp…thì kinh nghiệm hành nghề của giới luật gia Việt Nam là quá ít ỏi
và chưa bài bản. Các tổ chức, cá nhân cũng chưa có thói quen sử dụng DVPL cho
các hoạt động của mình. Tình trạng quan liêu, hách dịch, cửa quyền của một bộ
phận cán bộ, công chức nhà nước ở Việt Nam vẫn còn, với sự thiếu hiểu biết của
một bộ phận người dân nên rất cần có sự trợ giúp của nhà cung cấp DVPL. “Chất
thương mại” của hoạt động cung cấp DVPL, cũng như sự điều chỉnh của pháp luật
đối với hoạt động dịch vụ này còn nhiều hạn chế, bất cập.
Pháp luật điều chỉnh HĐDVPL ở Việt Nam hiện nay cịn chưa hồn chỉnh và
được quy định ở rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau, như: Bộ luật Dân sự năm
2005; Luật Thương mại năm 2005; Các đạo luật chuyên ngành và một số văn bản
dưới luật, bước đầu đặt cơ sở pháp lý cho hoạt động DVPL của các nhà cung cấp
DVPL ký kết HĐDVPL với các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng DVPL.

1


Các văn bản pháp luật nêu trên quy định về hợp đồng, HĐDV và DVPL chứ
không quy định trực tiếp về HĐDVPL. Điều đó dẫn đến một thực tế là trong một số
trường hợp cùng một vấn đề nhưng lại được điều chỉnh bằng nhiều quy định của các
văn bản khác nhau và những quy định đó lại chồng chéo, mâu thuẫn với nhau.
Ngược lại, có nhiều vấn đề lại không được quy phạm pháp luật nào điều chỉnh hoặc
quy định khơng rõ ràng hoặc q chung chung…gây khó khăn, lúng túng cho các
chủ thể HĐDVPL, cho hoạt động QLNN và hoạt động giải quyết chấp về
HĐDVPL.
Để đảm bảo tính thống nhất, tính minh bạch, tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc
cho việc ký kết và thực hiện HĐDVPL, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
QLNN cũng như hoạt động giải quyết tranh chấp HĐDVPL thì pháp luật về
HĐDVPL cần phải được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện.
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết này, tác giả đã lựa chọn vấn đề “Hợp đồng dịch
vụ pháp lý ở Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ của mình. Đây là một đề tài có

tính thời sự và thực tiễn cao. Hoàn thành đề tài này sẽ là một đóng góp đáng kể vào
việc hồn thiện pháp luật HĐDVPL và phát triển TMDVPL ở Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của
pháp luật điều chỉnh HĐDVPL, trên cơ sở đó xác định các quan điểm, đề xuất một số
giải pháp hoàn thiện pháp luật HĐDVPL ở Việt nam trong thời gian tới.
Với mục đích như trên, các nhiệm vụ mà luận án phải giải quyết là:
- Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về DVPL, từ đó phân tích, làm rõ
những vấn đề lý luận về HĐDVPL và pháp luật điều chỉnh HĐDVPL;
- Phân tích nội dung cơ bản của pháp luật về HĐDVPL; đánh giá những ưu
điểm và nhược điểm của pháp luật Việt Nam hiện hành về HĐDVPL.
- Xây dựng quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật HĐDVPL ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án:
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là: Các quan điểm, tư tưởng luật học về DVPL
và HĐDVPL; Các văn bản pháp luật thực định của Việt Nam về HĐDVPL; Cam kết

2


của Việt Nam trong các Điều ước quốc tế về DVPL; Pháp luật nước ngoài và pháp luật
quốc tế về HĐDVPL; Thực tiễn xây dựng, áp dụng pháp luật HĐDVPL ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận án:
Mặc dù tên luận án là HĐDVPL, song tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu DVPL
mang tính thương mại và theo đó HĐDVPL được nghiên cứu cũng giới hạn trong
phạm vi HĐDVPL được giao kết giữa bên cung ứng DVPL là những tổ chức hành
nghề chuyên nghiệp có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật để cung ứng
DVPL cho khách hàng, có thu thù lao và các tổ chức hành nghề đó hoạt động theo
nguyên tắc cạnh tranh. Nói cách khác "dịch vụ pháp lý" là đối tượng của hợp đồng
cũng có tính hàng hóa (mua, bán).

Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu HĐDVPL có tính thương mại, tức là chỉ
nghiên cứu pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động cung ứng
DVPL thơng qua hình thức pháp lý là HĐDVPL mà bên cung ứng DVPL là tổ chức
hành nghề cung ứng DVPL, có giấy phép hoạt động DVPL và mục đích cung ứng
DVPL là để thu thù lao. Luận án không nghiên cứu HĐDVPL khơng có tính thương
mại, nghĩa là khơng nghiên cứu pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong
hoạt động cung ứng DVPL thông qua HĐDVPL mà bên cung ứng là các cơ quan, tổ
chức nhà nước cho các đối tượng được thụ hưởng DVPL, nhằm thực hiện nhiệm vụ
quản lý nhà nước hoặc mục tiêu xã hội khác.
Pháp luật điều chỉnh HĐDVPL là vấn đề cịn tương đối mới ở Việt Nam và có
nội dung phức tạp. Luận án tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản trong pháp
luật điều chỉnh HĐDVPL, đặc biệt là những nội dung đặc thù hoặc có nhiều điểm bất
cập, đang gây cản trở, làm giảm hiệu quả của hoạt động DVPL ở Việt Nam.
Pháp luật điều chỉnh HĐDVPL hiện nằm rải rác ở các văn bản pháp luật khác
nhau, điều chỉnh các quan hệ cụ thể phát sinh trong quá trình các bên tham gia quan hệ
HĐDVPL. Vì vậy, việc nghiên cứu pháp luật HĐDVPL được thực hiện dưới nhiều
cách tiếp cận khác nhau. Luận án lựa chọn cách tiếp cận để nghiên cứu pháp luật
HĐDVPL dựa trên các nội dung cơ bản. Bao gồm:
i) Các quy định về chủ thể HĐDVPL
ii) Các quy định về nội dung HĐDVPL
iii) Các quy định về thực hiện HĐDVPL

3


iv) Các quy định về điều kiện có hiệu lực của HĐDVPL
v) Các quy định về trách nhiệm do vi phạm HĐDVPL.
Với phạm vi nghiên cứu đã được xác định, từ chương 2 đến chương 4, Luận án
tập trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá và đưa ra quan điểm cũng như giải pháp hoàn
thiện pháp luật điều chỉnh HĐDVPL dựa trên cơ sở phân tích, đánh giá 5 vấn đề trên.

4. Những kết quả nghiên cứu và những điểm mới của luận án
Luận án đạt được những kết quả sau:
Thứ nhất, Tổng hợp, bổ sung nhận thức và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận
về DVPL, như: khái niệm DVPL, phạm vi DVPL, tính thương mại của DVPL, phân
loại DVPL; Xây dựng được hệ thống lý luận khoa học về pháp luật HĐDVPL ở
Việt Nam.
Thứ hai, Làm rõ được thực trạng pháp luật HĐDVPL ở Việt Nam thông qua
các vấn đề, gồm: chủ thể HĐDVPL; nội dung của HĐDVPL; thực hiện HĐDVPL;
điều kiện có hiệu lực của HĐDVPL và trách nhiệm do vi phạm HĐDVPL.
Thứ ba, Đánh giá được thực trạng pháp luật HĐDVPL ở Việt Nam, chỉ ra được
những hạn chế, bất cập của pháp luật HĐDVPL hiện hành đã và đang ảnh hưởng tiêu
cực đến hiệu quả thực hiện hoạt động cung ứng DVPL, quyền tự do, bình đẳng trong
kinh doanh của các chủ thể cung ứng DVPL trong điều kiện nền kinh tế thị trường
Việt Nam;
Thứ tư, Xác định các yêu cầu, đề xuất quan điểm khoa học cho việc hoàn thiện
pháp luật HĐDVPL, đảm bảo cho các tổ chức hành nghề cung ứng DVPL tiến hành
hoạt động DVPL có hiệu quả, tự do và bình đẳng;
Thứ năm, Đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định về HĐDVPL trong các luật
chuyên ngành về DVPL và các văn bản pháp luật liên quan. Cụ thể là: i) Kiến nghị
hoàn thiện các quy định pháp luật về DVPL tiến tới xây dựng Luật DVPL, đặc biệt là
hoàn thiện khái niệm DVPL; Kiến nghị hoàn thiện các quy định về HĐDVPL, về các
vấn đề: khái niệm HĐDVPL; chủ thể HĐDVPL (bên cung cấp DVPL); nội dung
HĐDVP, đặc biệt là các vấn đề chất lượng DVPL, thù lao cho từng loại hình DVPL,
nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên cung ứng DVPL; về thực hiện HĐDVPL, đặc biệt
là thực hiện những HĐDVPL bị phụ thuộc vào bên thứ ba, những HĐDVPL mà bên sử
dụng DVPL vì bị ràng buộc bởi những bất cập của pháp luật nên gặp khó khăn trong

4



việc tham gia ký kết và/hoặc thực hiện; Kiến nghị hồn thiện các quy định về điều kiện
có hiệu lực của HĐDVPL; Kiến nghị hoàn thiện căn cứ và cách thức áp dụng các biện
pháp chế tài do vi phạm HĐDVPL.
Những điểm mới của luận án.
Luận án có những điểm mới đóng góp cho sự phát triển của khoa học pháp lý
chuyên ngành, bao gồm:
Thứ nhất, Xây dựng được khái niệm dịch vụ pháp lý và chỉ ra được tính
thương mại của DVPL; chỉ ra được các đặc điểm và xác lập được các tiêu chí để
phân biệt DVPL mang tính thương mại và DVPL khơng mang tính thương mại
đồng thời xác lập được các tiêu chí để phân loại DVPL mang tính thương mại;
Thứ hai, Xây dựng được hệ thống lý luận khoa học về pháp luật HĐDVPL ở
Việt Nam. Đặc biệt là đã xây dựng được khái niệm HĐDVPL, chỉ ra được những
đặc điểm của HĐDVPL; làm rõ nội dung pháp luật điều chỉnh HĐDVPL về những
vấn đề: chủ thể HĐDVPL; điều kiện hành nghề cung ứng DVPL; nội dung
HĐDVPL; thực hiện HĐDVPL; điều kiện có hiệu lực của HĐDVPL và trách nhiệm
do vi phạm HĐDVPL;
Thứ ba, Phân tích, đánh giá một cách có hệ thống những hạn chế, bất cập của
pháp luật HĐDVPL ở Việt Nam. Quá trình nghiên cứu, luận án đã phát hiện ra vấn
đề quan trọng là pháp luật về HĐDVPL ở Việt Nam chưa quan tâm xử lý đầy đủ,
đúng đắn giữa pháp luật HĐDVPL và pháp luật có liên quan đặc biệt là chưa thể
hiện được một cách đầy đủ cam kết mở cửa thị trường TMDVPL quốc tế, nhiều
quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực cung ứng DVPL chưa được điều chỉnh đến;
Thứ tư, Luận án đã xác định các căn cứ cho việc hình thành các quan điểm và
giải pháp hoàn thiện pháp luật HĐDVPL ở Việt Nam; bước đầu xây dựng hệ quan
điểm khoa học cũng như đưa ra hệ thống giải pháp hữu hiệu, hiện đại không chỉ bao
gồm những giải pháp chung cho pháp luật HĐDVPL mà còn bao gồm giải pháp
riêng cho pháp luật về từng loại hình DVPL cụ thể và cho pháp luật có liên quan,
làm cho việc hồn thiện pháp luật HĐDVPL của Việt Nam phù hợp với pháp luật
và tập quán thương mại quốc tế đáp ứng yêu cầu HNKTQT của Việt Nam.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án.


5


Những quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật HĐDVPL được đề xuất
trong luận án có khả năng ứng dụng trong q trình hồn thiện chính sách, pháp luật
về DVPL và HĐDVPL cũng như hoạt động của các nhà cung cấp DVPL.
Luận án cũng có thể là tài liệu tham khảo hữu ích cho hoạt động đào tạo,
nghiên cứu khoa học pháp lý ở Việt Nam.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo chính,
nội dung Luận án được kết cấu thành 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương pháp
nghiên cứu
Chương 2. Những vấn đề lý luận về hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam
Chương 3. Thực trạng pháp luật hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam
Chương 4. Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật hợp đồng dịch vụ
pháp lý ở Việt Nam.

6


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Dịch vụ pháp lý đã xuất hiện rất sớm trên thế giới, với các thể chế Luật sư,
Chưởng khế (Công chứng viên) và Thừa phát lại. Điển hình như thể chế cơng
chứng đã xuất hiện từ thế kỷ X, thứ XI ở các nước thuộc Châu âu, đặc biệt là Pháp

cũng như các nước Mỹ - Anh và sau đó tiếp tục phát triển tại Châu Phi và trên tồn
thế giới. Do đó, cũng đã có rất nhiều đề tài, cơng trình nghiên cứu về hợp đồng,
HĐDVTM và DVPL, nhưng chưa có cơng trình nào nghiên cứu về HĐDVPL.
Trong số những nghiên cứu có liên quan đến HĐDVPL chủ yếu là các cơng trình
nghiên cứu của thời kỳ hiện đại, như:
- Contract Law (Luật hợp đồng), Eric Talley, University of Southern
California Law School (Fall 1999)
- Contracts (Hợp đồng), Amy Bushaw, Lewis & Clark College, Northwestern
School of Law (Fall, 2001)
- William J.Robert, N.Cerley, Essel R. Dullavou, Chartles G.Hawrd ( ),
Principles of Business Law (Nguyên tắc của luật doanh nghiệp), Eighth Edition –
Prentice Hall. Tr. 109.
- OECD, Liberaliziation of Trade in Professional Services (Giới hạn, phạm vi
của dịch vụ thương mại chuyên nghiệp), OECD Documents, 1995.
- Peter Goldsmith, Globalisation of Law (Luật toàn cầu) – Tearing down the
Wall, in Harper, Ros (Ed.), Global Law in Practice (luật toàn cầu trong thực tiễn),
Kluwer Law Intenational and International Bar Association (luật quốc tế và hiệp hội
luật sư quốc tế), London, 1997.
- Cuốn sách “Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc
tế 2004” do Nxb Từ điển Bách khoa xuất bản năm 2010. Phiên bản 2004 (ra đời
năm 1994) nhằm tạo nên sự phù hợp với thực tiễn phát triển của hợp đồng điện tử
và với mục đích chính là giải quyết các vấn đề mới và quan trọng đối với cộng đồng
pháp lý và kinh tế quốc tế.
- Cuốn sách “Quản lý hợp đồng trong kinh doanh” do Nxb Lao động - Xã
hội xuất bản năm 2008 - Cuốn sách này được tham khảo từ cuốn sách tiếng Trung

7


mang tên “Làm thế nào để quản lý hợp đồng” do tác giả Phong Bảo Thanh biên

soạn, Nxb Đại học Bắc Kinh - đã được hiệu chỉnh, biên soạn theo các quy định của
pháp luật Việt Nam. Nội dung cuốn sách đã phân tích các kỹ năng cơ bản về soạn
thảo và thực hiện các loại hợp đồng, kỹ năng phòng tránh những sơ hở nhằm bảo vệ
tốt nhất quyền lợi của chủ thể hợp đồng.
- Cuốn sách “ Hướng dẫn soạn thảo và ký kết 30 loại hợp đồng kinh tế” của
Vụ Hợp đồng kinh tế, Cục quản lý hành chính cơng thương nhà nước Trung Quốc
biên soạn, Nxb Chính trị Quốc gia xuất bản năm 1995. Nội dung cuốn sách đã giới
thiệu, hướng dẫn cụ thể, tỉ mỉ cách soạn thảo các điều khoản cơ bản của từng loại
hợp đồng nhằm giúp các doanh nghiệp nâng cao chất lượng và hiệu quả trong ký
kết tránh sơ hở trong kinh doanh.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công,
DVPL đã được ghi nhận, cho phép thành lập và hoạt động (tuy chỉ đối với hoạt
động của luật sư) và chỉ được xác lập trở lại và phát triển khá mạnh mẽ từ hơn hai
thập kỷ qua. Trong khoảng thời gian đó, đã có một số nghiên cứu về DVPL ở các
khía cạnh khác nhau với phạm vi nghiên cứu khác nhau, như giáo trình, sách
chuyên khảo, chuyên đề, nhưng chủ yếu tồn tại dưới hình thức những bài viết đăng
trên tạp chí, đăng trên kỷ yếu hội thảo và đề tài nghiên cứu của một số cá nhân, tổ
chức về DVPL. Hiện nay, chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về
HĐDVPL. Có thể sắp xếp nhóm các cơng trình nghiên cứu có liên quan đến
HĐDVPL đã được thực hiện ở Việt Nam trong thời gian qua như sau:
1.1.2.1. Những cơng trình nghiên cứu về hợp đồng và pháp luật hợp đồng.
- Nghiên cứu về khái niệm hợp đồng, có các nghiên cứu như: Giáo trình
“Luật Thương mại” của tập thể tác giả do TS. Bùi Ngọc Cường chủ biên, Nxb Giáo
dục xuất bản năm 2008. Xác định bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận và hợp
đồng trong thương mại là một loại hợp đồng dân sự có những đặc điểm riêng, quan
hệ với hợp đồng dân sự theo nguyên lý cái chung với cái riêng; Giáo trình “Pháp
luật kinh tế” của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân
xuất bản năm 2008. Quan niệm hợp đồng theo nghĩa rộng là sự thỏa thuận và hợp
đồng trong hoạt động thương mại là sự thỏa thuận giữa các thương nhân để thực

hiện các hoạt động thương mại. Hợp đồng trong hoạt động thương mại nhưng chủ
thể không phải là các thương nhân thì được coi là hợp đồng dân sự theo nghĩa hẹp.
Giáo trình này chưa xác định những hợp đồng trong hoạt động thương mại giữa
8


thương nhân (có mục đích lợi nhuận hoặc thu thù lao) với tổ chức, cá nhân khác
không phải là thương nhân (mục đích nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng)
là hợp đồng dân sự hay thương mại; Nghiên cứu của TS. Nguyễn Ngọc Khánh, đã
xác định thời điểm xuất hiện của thuật ngữ hợp đồng ở Việt Nam, phân tích, đã chỉ
ra bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận và mục đích là tạo hệ quả pháp lý; Đặc
biệt, bài viết “Điều chỉnh thông tin bất cân xứng và quản lý rủi ro trong pháp luật
hợp đồng Việt Nam” của TS. Phạm Duy Nghĩa đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lập
pháp số 5 năm 2003, đã đưa ra quan niệm mới về hợp đồng, theo đó hợp đồng từ
chỗ là sự thống nhất ý chí vào thời điểm giao kết, nay “hợp đồng ngày càng mang
tính chất của một q trình có điều tiết”;…Các nghiên cứu nêu trên đều thống nhất
với nhau trong việc xác định hợp đồng nói chung là sự thỏa thuận. Đây là những
nghiên cứu nền tảng để tác giả luận án tiếp cận, kế thừa nghiên cứu khái niệm
HĐDVPL.
- Nghiên cứu về pháp luật điều chỉnh hợp đồng, có các nghiên cứu như: Luận
án tiến sĩ luật học năm 2002 của tác giả Nguyễn Viết Tý về “Phương hướng hoàn
thiện pháp luật kinh tế trong điều kiện có bộ luật dân sự”, đã giải quyết được mối
quan hệ giữa luật kinh tế và luật dân sự sau khi có BLDS 2005; Nghiên cứu của TS.
Phan Chí Hiếu, đã xác định phạm vi áp dụng của chế định hợp đồng; nguyên tắc áp
dụng phối hợp BLDS với các văn bản pháp luật chuyên ngành khác có liên quan
đến hợp đồng [25]; Giáo trình “Pháp luật kinh tế” của Trường Đại học Kinh tế
Quốc dân năm 2008, xác định mối quan hệ giữa BLDS với các luật riêng (LTM và
các luật chuyên ngành) và nguyên tắc áp dụng trong việc điều chỉnh quan hệ hợp
đồng;…Nghiên cứu về mối quan hệ và nguyên tắc áp dụng pháp luật nêu trên cho
phép tác giả luận án kế thừa, phát triển trong việc nghiên cứu pháp luật điều chỉnh

HĐDVPL.
- Nghiên cứu về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, có các nghiên cứu như:
Luận án tiến sĩ luật học năm 2002 của tác giả Lê Thị Bích Thọ về “Hợp đồng kinh
tế vơ hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng kinh tế vô hiệu” đã phân tích, đánh các
điều kiện làm cho HĐKT bị vô hiệu và hậu quả pháp lý của các hợp đồng kinh tế vô
hiệu; Bài viết “Ảnh hưởng của điều kiện hình thức hợp đồng đến hiệu lực hợp
đồng” của tác giả Phạm Hồng Giang đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3
năm 2007. Nêu quan điểm về hình thức hợp đồng, phân tích và rút ra đặc điểm
chung của hình thức hợp đồng của một số quốc gia là đều thể hiện nguyên tắc tự do
hình thức hợp đồng tuy vẫn quy định các trường hợp ngoại lệ về hình thức hợp
9


đồng. Nêu quan điểm về vấn đề điều kiện hình thức hợp đồng còn bao gồm cả điều
kiện về thủ tục giao kết, chỉ ra điểm giống nhau của pháp luật hợp đồng nước ta và
pháp luật hợp đồng các nước là đều thừa nhận nguyên tắc tự do hình thức hợp đồng,
nhưng có điểm khác cơ bản khi xây dựng các quy định về hình thức hợp đồng là,
các nước xây dựng theo phương pháp tiếp cận “chọn – bỏ”, còn Việt Nam xây dựng
theo phương pháp tiếp cận “chọn – cho”, chỉ ra những hạn chế trong việc thừa nhận
nguyên tắc tự do hợp đồng của pháp luật Việt Nam;…Các nghiên cứu này khuyến
nghị Việt Nam nên thừa nhận nguyên tắc tự do hợp đồng của một số nước phát
triển, mà chưa kiến nghị quy định chính thức về điều kiện hình thức hợp đồng.
- Nghiên cứu về giao kết hợp đồng, có các nghiên cứu như: Luận án tiến sĩ
luật học năm 2010 của tác giả Nguyễn Văn Thoan về “Ký kết và thực hiện hợp
đồng điện tử trong điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế”. Nghiên cứu quy
trình, thực trạng ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử từ ba góc độ là kỹ thuật,
thương mại và pháp lý ở Việt Nam; những thuận lợi và khó khăn khi ký kết và thực
hiện HĐĐT; Luận án tiến sĩ luật học năm 2001 của tác giả Bùi Ngọc Cường về
“Xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh
ở nước ta”, đã chỉ rõ bản chất và những nội dung cơ bản của quyền tự do kinh

doanh, trong đó có quyền tự do hợp đồng; Nghiên cứu của tác giả Phạm Hoàng
Giang, đã xác định bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận (thống nhất ý chí tự chủ)
của các bên và xác định hai nội dung cơ bản của tự do giao kết hợp đồng, đưa ra
nguyên tắc công bằng trong giao kết hợp đồng và sự cần thiết của sự can thiệp vào
quan hệ hợp đồng nhằm mục đích bảo đảm quyền tự do hợp đồng của bên yếu hơn
[16];…
- Nghiên cứu về thực hiện hợp đồng và quản lý nhà nước về hợp đồng, gồm:
Nghiên cứu của TS. Phạm Duy Nghĩa về sự cần thiết phải có sự can thiệp của nhà
nước trong việc xử lý thông tin bất cân xứng giữa các chủ thể hợp đồng, đặc biệt là
vấn đề nghĩa vụ tiết lộ thơng tin của bên có thơng tin và quản lý rủi ro. Đề xuất các
biện pháp quản lý rủi ro hợp đồng gồm nghĩa vụ trung thành, nghĩa vụ cẩn trọng và
nghĩa vụ tiết lộ thông tin [42]; Bài viết “Điều kiện thương mại chung và nguyên tắc
tự do khế ước” của PGS.TS Nguyễn Như Phát đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp
luật số 6 năm 2003. Đã chỉ ra một vấn đề pháp lý có tính chất nền tảng, chi phối đến
tồn bộ việc ký kết và thực hiện hợp đồng đó là “tinh thần tự do khế ước” của hợp
đồng. Chỉ rõ nguồn gốc, chức năng, quan niệm và ý nghĩa của các điều kiện thương
mại chung; khẳng định sự cần thiết bảo vệ khách hàng trước những điều kiện
10


thương mại chung “trái pháp luật” bằng công quyền và pháp luật, theo đó nhất thiết
phải có sự điều chỉnh pháp luật riêng rẽ.
- Nghiên cứu về hoàn thiện pháp luật hợp đồng, có các nghiên cứu như: Luận
án tiến sĩ của tác giả Bùi Ngọc Cường, đã nêu ra giải pháp nhằm hoàn thiện quyền
tự do hợp đồng [10]; Bài viết của PGS.TS. Trần Ngọc Dũng năm 2002 về “Hệ
thống pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường – Thực trạng và phương hướng
hoàn thiện” đăng trên tạp chí Luật học số 4, đã đưa ra những phương hướng hoàn
thiện đồng bộ hệ thống pháp luật kinh tế trong đó có hồn thiện pháp luật hợp đồng;
Bài viết của PGS.TS. Lê Hồng Hạnh năm 2003 về “Bàn thêm về hoàn thiện pháp
luật kinh tế ở Việt Nam hiện nay” đăng trên tạp chí Luật học số 3; Luận án tiến sĩ

Luật học năm 1996 của tác giả Nguyễn Am Hiểu về “Hoàn thiện Luật Kinh tế ở
Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”; Cuốn sách “Thống nhất
luật hợp đồng ở Việt Nam” của tác giả Đinh Thị Mai Phương, Nxb Tư pháp xuất
bản năm 2005. Đưa ra một số giải pháp nhằm thống nhất và đồng bộ hóa các quy
định pháp luật Việt Nam về hợp đồng; Bài viết “Hoàn thiện chế định hợp đồng”
của TS. Phan Chí Hiếu đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 4 năm 2005, đề
xuất những sửa đổi, bổ sung đối với một số quy định liên quan đến việc giao kết
hợp đồng như hình thức hợp đồng, đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và
phương hướng hoàn thiện các quy định liên quan đến hợp đồng trong các văn bản
pháp luật chuyên ngành; Luận án phó tiến sĩ khoa học luật học năm 1996 của tác
giả Phạm Hữu Nghị về “Chế độ hợp đồng trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay”, đã làm sáng tỏ bản chất của hợp đồng kinh tế trong điều
kiện kinh tế thị trường, luận giải những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây
dựng, đổi mới và hoàn thiện chế độ hợp đồng kinh tế ở Việt Nam; Nghiên cứu của
tác giả Sỹ Hồng Nam năm 2012 về “Một số bất cập về giao dịch dân sự trong
BLDS 2005 và thực tiễn áp dụng khi giải quyết tranh chấp tại tòa án”, đã đề xuất
sửa đổi, bổ sung về các vấn đề hình thức giao dịch dân sự, thời hiệu khởi kiện yêu
cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức và bảo vệ quyền của người thứ
ba ngay tình trong giao dịch dân sự vơ hiệu [40]; Nghiên cứu của tác giả Phạm
Hoàng Giang, đưa ra giải pháp để hoàn thiện pháp luật hợp đồng ở Việt Nam nhằm
bảo vệ bên ở vị trí yếu hơn [16];…Tuy cách tiếp cận và mục đích khác nhau nhưng
các cơng trình nghiên cứu này đều có chung quan điểm về việc hồn thiện pháp luật
kinh doanh, thương mại trong đó có hồn thiện pháp luật về hợp đồng phải được
tiến hành đồng bộ với các bộ phận pháp luật khác như pháp luật về doanh nghiệp,
11


pháp luật về đầu tư, pháp luật cạnh tranh, pháp luật về các lĩnh vực kinh tế và đáp
ứng nhu cầu HNKTQT.
Cùng với các nhóm nghiên cứu nêu trên, cịn có các nghiên cứu đề cập đến

hợp đồng và hợp đồng thương mại. Như: Tham luận (2005) "Pháp luật về hợp đồng
và giải quyết tranh chấp hợp đồng - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện" tại
Hội thảo về Bộ luật dân sự (sửa đổi), của PGS.TS Dương Đăng Huệ; Dự án
PUBBLICATION PROJEC VIE/95/017, Kiến nghị về xây dựng pháp luật hợp
đồng kinh tế tại Việt Nam, Kỷ yếu. Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội; Cuốn sách
"Những quy định chung của Luật Hợp đồng ở Pháp, Đức, Anh, Mỹ" do Phạm Thái
Việt biên dịch (1993) từ cuốn Pháp luật về dân sự, thương mại và giao dịch của các
nước tư bản. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;…
1.1.2.2. Những nghiên cứu về dịch vụ và thương mại dịch vụ
- Nghiên cứu về dịch vụ ở các góc độ khác nhau, như: Tiếp cận dịch vụ theo
nghĩa rộng và gắn với quá trình sản xuất, như: K. Marx: “Dịch vụ là con đẻ của nền
kinh tế sản xuất hàng hóa khi mà nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, địi hỏi một
sự lưu thơng trơi chảy thơng suốt, liên tục để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của
con người thì dịch vụ phát triển”; Tiếp cận dịch vụ dưới góc độ kinh tế, như Colin
Clark: “Dịch vụ là các dạng hoạt động kinh tế không được liệt kê vào ngành thứ
nhất và thứ hai (nông nghiệp và công nghiệp); T.P.Hill tiếp cận dịch vụ dưới góc độ
pháp lý như là đối tượng của các quan hệ xã hội mà pháp luật cần điều chỉnh: “Dịch
vụ là sự thay đổi về điều kiện hay trạng thái của người hay hàng hóa thuộc sở hữu
của một chủ thể kinh tế nào đó do sự tác động của chủ thể kinh tế khác với sự đồng
ý trước của chủ thể kinh tế ban đầu”; Luận án tiến sĩ kinh tế năm 2012 của tác giả
Vũ Thị Hiền về “Nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành dịch vụ hướng về
xuất khẩu của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, nghiên cứu dịch
vụ dưới cả hai góc độ kinh tế và pháp lý và gắn với xuất khẩu: “dịch vụ là sản phẩm
lao động, không tồn tại dưới hình thức vật thể, được tiêu dùng đồng thời với quá
trình cung cấp, nhằm thỏa mãn nhu cầu của sản xuất, của tiêu dùng và của sức khỏe
con người”; Nghiên cứu của Phan Thảo Nguyên, quan niệm dịch vụ là sản phẩm
của quá trình lao động sản xuất của con người, dịch vụ tham gia vào quá trình phân
phối, lưu thông để thỏa mãn nhu cầu của mỗi cá nhân, tổ chức và đời sống xã hội
[43];…Các nghiên cứu nêu trên đều tiếp cận dịch vụ dưới các góc độ khác nhau và
với tư cách độc lập. Tuy nhiên, do mục đích tiếp cận khác nhau nên vấn đề xem xét


12


khái niệm dịch vụ trong mối quan hệ với khái niệm thương mại và TMDVPL là vấn
đề còn bỏ ngỏ.
- Nghiên cứu về thương mại dịch vụ, dịch vụ trong thương mại và hợp đồng
cung ứng dịch vụ trong thương mại, có các nghiên cứu như: Luận án tiến sĩ luật học
năm 2006 của Phan Thảo Nguyên về “Hoàn thiện pháp luật về thương mại dịch vụ
đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế”, đã đưa ra khái niệm, bản chất của
TMDV, xác định nội hàm và phân tích các yếu tố tạo nên pháp luật TMDV. Theo
đó, TMDV chỉ tất cả các hành vi sản xuất, cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm
mục đích thu lợi nhuận cịn DVTM chỉ bao gồm loại hình dịch vụ phục vụ cho hoạt
động sản xuất, mua bán, trao đổi hàng hóa trên thị trường; Đề tài khoa học cấp bộ,
Bộ Thương mại "Cơ sở khoa học cho sự lựa chọn giải pháp và bước đi nhằm đẩy
mạnh tiến trình mở cửa về dịch vụ thương mại" năm 2003, của nhóm tác giả do
GS.TS Nguyễn Thị Mơ làm chủ nhiệm, đã phân tích các quan điểm, nhận thức về
khái niệm DVTM và TMDV, và đưa ra quan niệm rằng khái niệm DVTM và
TMDV ngày càng tiệm cận với nhau; Giáo trình “Luật Thương mại” do TS. Bùi
Ngọc Cường chủ biên, xác định cung ứng dịch vụ trong thương mại là những hoạt
động được tiến hành nhằm mục đích sinh lợi và hợp đồng cung ứng dịch vụ trong
thương mại có bản chất giống như một hợp đồng dân sự tuy nội dung có những
điểm khác biệt [8]; Bài viết của TS. Bùi Ngọc Cường năm 2007, đã tóm tắt các cam
kết gia nhập WTO của Việt Nam về thương mại dịch vụ, cam kết cụ thể về mức độ
mở cửa thị trường dịch vụ trong đó có DVPL, xác định lộ trình được phép thành lập
doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ kinh doanh kể từ
khi Việt Nam gia nhập WTO [9]; Cuốn sách “Sổ tay về các quy định của WTO và
cam kết gia nhập của Việt Nam” do Ủy ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế
xuất bản năm 2007. Nội dung cuốn sách tập trung vào những khía cạnh liên quan
thiết thực đến việc triển khai thực hiện cam kết của các Bộ, ngành, địa phương,

trong đó có đề cập, giải nghĩa, so sánh và phân tích nội dung cơ bản, bản chất của
vấn đề trong mối liên hệ giữa các quy định của WTO và cam kết mà Việt Nam phải
thực hiện; Nghiên cứu của PGS.TS. Lê Hồng Hạnh (2006), "Gia nhập WTO Thách thức về mặt pháp luật và những điều cần quan tâm", đăng trên Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật, số 11;…Các nghiên cứu này chủ yếu chỉ tiếp cận TMDV nói
chung, về các quy định của WTO và triển khai thực hiện các cam kết gia nhập
WTO, vấn đề xây dựng hệ thống pháp luật quốc gia phù hợp với pháp luật và cam
kết quốc tế mà chưa đi sâu về TMDVPL nói riêng.
13


- Nghiên cứu về hoàn thiện pháp luật thương mại dịch vụ, gồm có: Bài viết
của PGS.TS Nguyễn Như Phát về “Minh bạch hóa pháp luật và yêu cầu đặt ra đối
với hệ thống pháp luật trong quá trình HNKTQT”, đã đưa ra quan niệm về tính minh
bạch và những địi hỏi của minh bạch hóa pháp luật, từ đó kiến nghị các biện pháp để
nâng cao chất lượng của hệ thống pháp luật Việt Nam; Nghiên cứu của tác giả Phan
Thảo Nguyên, đã chỉ ra các yêu cầu và tác động của HNKTQT đến TMDV và pháp
luật TMDV làm cơ sở lý luận và thực tiễn để hoàn thiện pháp luật TMDV; chỉ ra
những thiếu sót, bất cập của pháp luật về TMDV, từ đó đề xuất giải pháp đổi mới và
hoàn thiện pháp luật về TMDV theo lộ trình HNKTQT của Việt Nam [43];…
1.1.2.3. Những cơng trình nghiên cứu về dịch vụ pháp lý
- Nghiên cứu về khái niệm, phạm vi và đề cập đến một số khía cạnh khác
nhau của DVPL, gồm có: Luận văn thạc sỹ luật học năm 2011 của tác giả Nguyễn
Như Chính về “Pháp luật về dịch vụ thương mại pháp lý – những vấn đề lý luận và
thực tiễn”. Xác định phạm vi các loại hình DVTMPL tại Việt Nam bao gồm dịch vụ
tư vấn, dịch vụ tranh tụng, dịch vụ trọng tài thương mại, dịch vụ công chứng và
dịch vụ thừa phát lại; Bài viết “Từng bước xây dựng quan niệm về dịch vụ pháp lý
phù hợp tiến trình hội nhập quốc tế” của TS. Phan Trung Hoài đăng trên tạp chí
Nhà nước và Pháp luật số 2 năm 2007, cho rằng DVPL chỉ có thể do luật sư thực
hiện; Bài viết “Dịch vụ pháp lý và nhu cầu trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam” của TS. Nguyễn Văn Tuân đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số

Chuyên đề Pháp luật về Doanh nghiệp. Đã xác định thời điểm xuất hiện thuật ngữ
DVPL ở Việt Nam, khẳng định DVPL là hoạt động rất đặc thù so với các loại dịch
vụ thông thường khác và xác định phạm vi DVPL ở Việt Nam gồm DVPL của luật
sư và DVPL của tổ chức, đoàn thể xã hội; Luận án tiến sĩ luật học năm 2008 của tác
giả Tuấn Đạo Thanh về “Nghiên cứu so sánh pháp luật về công chứng một số nước
trên thế giới nhằm góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp
luật về công chứng ở Việt Nam hiện nay”. Đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ
bản về công chứng như: khái niệm, bản chất, mục đích, chức năng, chủ thể và quản
lý công chứng; Luận án tiến sĩ luật học năm 2008 của tác giả Đặng Văn Khanh về
“Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi, nội dung hành vi
công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở nước ta hiện nay”. Đã làm
sáng tỏ những vấn đề về phạm vi, nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý
của văn bản công chứng; Đề tài “Dịch vụ pháp lý tại Việt Nam – Thực trạng, nhu
cầu và định hướng phát triển” do TS. Đặng Vũ Huân làm chủ nhiệm, đã đưa ra
14


khái niệm, phạm vi DVPL, bản chất, đặc điểm, tiêu chí phân loại DVPL; kinh
nghiệm pháp luật của một số nước tiên tiến về DVPL; đánh giá nhu cầu DVPL ở
Việt Nam;…Các nghiên cứu này tiếp cận ở từng khía cạnh nhất định của DVPL
như: người thực hiện DVPL, chủ thể cung ứng DVPL hoặc về phạm vi DVPL gồm
những loại hình nào mà khơng nghiên cứu các vấn đề dưới góc độ là chủ thể của
các loại HĐDVPL tương ứng. Đồng thời, hầu hết các nghiên cứu này cũng chưa
bao quát và/hoặc đề cập hết các loại hình DVPL theo quy định của GATS/WTO và
cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO hoặc những vấn đề sâu hơn như điều kiện
kinh doanh DVPL, người đại diện của tổ chức hành nghề, điều kiện hành nghề cung
ứng DVPL của người thực hiện DVPL…là những vấn đề chưa được quan tâm làm
rõ.
- Nghiên cứu pháp luật và thực tiễn hoạt động của một số loại hình DVPL,
trước đây thuộc hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc chỉ tồn tại trong chế độ cũ (là

tiền thân của DVPL), và xác định sự cần thiết xác lập ở Việt Nam, gồm có: Chun
đề “Cơng chứng” của tập thể tác giả do TS. Hoàng Thế Liên làm chủ biên, xuất bản
năm 1995. Đã phân tích, đánh giá thực trạng của tổ chức và hoạt động công chứng
nhà nước ở Việt Nam, nêu những vấn đề cần đổi mới, đồng thời cung cấp nội dung
tổng quát thể chế công chứng của một số nước trên thế giới, về Liên đồn Cơng
chứng quốc tế hệ La tinh. Qua đó, chỉ rõ tầm quan trọng và sự cần thiết của sự phát
triển của hoạt động công chứng ở Việt Nam; Chuyên đề “Thừa phát lại” do TS.
Hoàng Thế Liên làm chủ biên, đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, nguồn gốc, danh
xưng, mơ hình tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại; sự cần thiết cũng như khả
năng thực thi của tổ chức này ở Việt Nam [36]; Cuốn sách “Tổ chức thừa phát lại”
của nhóm tác giả do TS. Nguyễn Đức Chính làm chủ biên, xuất bản năm 2006, giới
thiệu sự xuất hiện, hình thành, phát triển của thừa phát lại ở Việt Nam, vai trò của
TPL trong hoạt động tư pháp (trước đây); lý do phải có và lợi ích của hoạt động của
TPL (hiện nay), mối quan hệ giữa TPL với các chức danh tư pháp (hiện nay), nhiệm
vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mơ hình tổ chức TPL; giải pháp, điều kiện và các bước
nên thực hiện để TPL hình thành và hoạt động; Cuốn sách “ Những điều cần biết về
công chứng nhà nước” của Nguyễn Văn Yểu và Dương Đình Thành, đã làm rõ
những vấn đề chung về công chứng nhà nước như nguồn gốc, khái niệm, các việc
công chứng (phạm vi công chứng), yêu cầu công chứng; tổ chức và quản lý công
chứng nhà nước Việt Nam [71]; Bài viết của TS. Phạm Văn Lợi về “Công chứng,
chứng thực ở Việt Nam thực trạng và định hướng phát triển”, đăng trên tạp chí Dân
15


chủ và Pháp luật số 16 năm 2004, đã giới thiệu khái quát hệ thống văn bản pháp luật
về công chứng, chứng thực, phân tích đánh giá những hạn chế, bất cập của hoạt
động này, chỉ ra một số nguyên nhân dẫn đến hạn chế bất cập và đưa ra một số giải
pháp nhằm phòng ngừa tranh chấp từ hoạt động này;…
- Nghiên cứu về trách nhiệm pháp lý của người thực hiện DVPL gây thiệt hại
cho bên sử dụng DVPL, gồm có: Bài viết của Tuấn Đạo Thanh về “Trách nhiệm

dân sự của công chứng viên” đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 10 năm
2004, đã xác định thẩm quyền công chứng thuộc về cá nhân cơng chứng viên (viên
chức nhà nước) do đó cơng chứng viên phải chịu trách nhiệm cá nhân (cả hình sự và
dân sự) về mọi hoạt động của mình;
- Nghiên cứu về kỹ năng thực hiện DVPL, gồm có: Giáo trình “Kỹ năng giải
quyết vụ án hình sự” và Giáo trình “kỹ năng giải quyết vụ việc dân sự” của Học
viện Tư pháp, Nxb. Công an nhân dân xuất bản năm 2010. Xác định lĩnh vực và
biên soạn kỹ năng hành nghề của Luật sư. Theo đó, kỹ năng hành nghề của luật sư
được xác định là việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của luật sư; Cuốn sách
“Nghiệp vụ của luật sư” của tập thể tác giả do TS.LS. Nguyễn Thanh Bình chủ
biên. Biên soạn kỹ năng tư vấn pháp luật và tư vấn hợp đồng của luật sư. Trong đó,
tư vấn pháp luật gồm các kỹ năng trong: hình thức tư vấn, nội dung tư vấn; kỹ thuật
tư vấn; kỹ năng tư vấn hợp đồng có các kỹ năng như kỹ năng soạn thảo văn bản, kỹ
năng soạn thảo hợp đồng; Nghiên cứu của Nguyễn Văn Yểu và Dương Đình Thành,
đã phân tích trình tự, thủ tục thực hiện các việc công chứng [71]; Nghiên cứu của
luật sư Nguyễn Thành Vĩnh, đã phân tích, đánh giá các vấn đề như chức năng,
nhiệm vụ, quyền và nghĩa vụ của luật sư trong tố tụng hình sự và tố tụng dân sự; đã
làm rõ được một số kỹ năng thực hiện DVPL của luật sư [70];…Những nghiên cứu
này mới đề cập ở các khía cạnh và mức độ nhất định đến vấn đề phương thức thực
hiện và một số yếu tố thuộc nội dung HĐDVPL;
- Nghiên cứu về vị trí, vai trị của DVPL, gồm có: Cuốn sách “Luật sư với
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân” của Luật sư Nguyễn Thành
Vĩnh, Nxb Pháp lý Hà Nội, xuất bản năm 1990; Bài viết của tác giả Trương Tuấn
Dũng và Nguyễn Thái Hà năm 2012; Cuốn sách “Vấn đề hoàn thiện pháp luật về
luật sư ở Việt Nam” của tác giả Phan Trung Hồi, Nxb Chính trị quốc gia, 2004. Đã
chỉ rõ vị trí, vai trị của người luật sư trong việc giúp ích cho cơng dân trong các vụ
án về hình sự, dân sự, đặc biệt là trong giai đoạn điều tra VAHS; góp phần bảo vệ
pháp chế XHCN, tăng cường quản lý kinh tế, quản lý xã hội theo pháp luật; góp
16



phần vào việc giải quyết các vụ án được khách quan, đúng pháp luật, bảo đảm
quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, thực hiện dân chủ XHCN.
- Nghiên cứu hồn thiện pháp luật DVPL, gồm có: Nghiên cứu của tác giả
Phan Trung Hoài, đưa ra một số giải pháp để xây dựng quan niệm về DVPL phù
hợp tiến trình hội nhập thị trường DVPL quốc tế, đó là cần quan niệm DVPL như
một ngành sản xuất vật chất [26]; Nghiên cứu của TS. Đặng Văn Khanh đã phân
tích, đánh giá pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật của Việt Nam về
phạm vi, nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng,
đề xuất một số vấn đề hồn thiện pháp luật về phạm vi cơng chứng, tổ chức hệ
thống cơ quan công chứng, xây dựng quy chế công chứng viên, đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ công chứng viên ở Việt Nam [32]; Nghiên cứu của tác giả Trương Tuấn
Dũng và Nguyễn Thái Hà, nêu những quy định của BLTTHS và pháp luật có liên
quan về quyền và nghĩa vụ của luật sư trong việc tham gia tố tụng và những vướng
mắc, khó khăn luật sư gặp phải trong quá trình tham gia tố tụng vụ án hình sự tại
giai đoạn điều tra, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của luật sư trong
giai đoạn điều tra VAHS [11]; Nghiên cứu của tác giả Tuấn Đạo Thanh đã đưa ra
một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về công chứng trong điều kiện nhà nước ta đã
ban hành LCC 2006 [52];…Những nghiên cứu này chỉ nghiên cứu thuần túy vấn đề
hoàn thiện pháp luật về một số loại hình DVPL, khơng nghiên cứu việc hồn thiện
DVPL dưới góc độ hồn thiện pháp luật HĐDVPL.
Ngồi ra, cịn có nhiều nghiên cứu về DVPL dưới các khía cạnh khác nhau.
Như; Chuyên đề nghiên cứu khoa học cấp trường “Một số vấn đề về xây dựng nội
dung chương trình giảng dạy pháp luật về dịch vụ pháp luật” của tác giả Nguyễn
Thanh Tâm (chuyên đề số 10); Cuốn sách “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị
buộc tội”, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1999 của tác giả Phạm Hồng Hải;
Chuyên đề “Luật sư và hành nghề luật sư”, Thơng tin khoa học pháp lí của Viện
khoa học pháp lí Bộ tư pháp, năm 1999; Bài viết “Về chức năng bào chữa trong tố
tụng hình sự” của tác giả Phạm Hồng Hải đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
số 2 năm 1994; Bộ Tư pháp - Chương trình đối tác tư pháp (2011); Tài liệu Hội

thảo Triển khai Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020, Thành phố Hồ
Chí Minh; Dự án Hỗ trợ Phát triển Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (2006); Tài liệu
hội thảo công chứng của Bộ Tư pháp - Hải Phịng;…
Tóm lại, các nhóm cơng trình trên đã nghiên cứu, đánh giá những vấn đề có
liên quan đến HĐDVPL ở những khía cạnh khác nhau và là tài liệu tham khảo hữu
17


ích cho việc nghiên cứu pháp luật HĐDVPL. Tuy nhiên, do có những mục đích và
nhiệm vụ nghiên cứu khác nhau nên các tác giả chưa đề cập một cách tồn diện, sâu
sắc và có hệ thống các vấn đề lý luận về DVPL cũng như pháp luật về HĐDVPL.
Do vậy, các cơng trình này chưa chỉ rõ được một cách hệ thống những ưu điểm,
thành công cũng như những khiếm khuyết, bất cập của các quy định pháp luật về
HĐDVPL ở Việt Nam từ trước đến nay. Những phương hướng và giải pháp hoàn
thiện pháp luật về HĐDVPL ở Việt Nam cũng chưa được các tác giả xác định một
cách đầy đủ và cụ thể. Nhưng nó được nghiên cứu sinh tìm hiểu, phân tích để hiểu
biết chuẩn xác và toàn diện hơn về đề tài và triển khai nội dung của đề tài luận án.
Luận án tiến sĩ với đề tài “Hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam” là cơng
trình đầu tiên được nghiên cứu ở cấp độ luận án tiến sĩ kế thừa và phát huy những
kết quả cũng như thành công của các công trình nói trên. Đồng thời, cơng trình này
sẽ giải quyết tiếp một cách đầy đủ và toàn diện hơn những vấn đề mà các cơng trình
nghiên cứu đã nêu chưa đạt được hoặc chưa có điều kiện giải quyết.
1.1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.3.1. Một số kết quả của hoạt động nghiên cứu
Qua tìm hiểu về tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài “Hợp đồng dịch
vụ pháp lý ở Việt Nam” mà nghiên cứu sinh tiếp cận được, xin đưa ra đánh giá
bước đầu như sau:
Thứ nhất: Về khái niệm DVPL và tính thương mại của DVPL
Ở Việt Nam, do những điều kiện về kinh tế, xã hội, những hoạt động liên quan
đến pháp luật như tư vấn; tranh tụng; đại diện; công chứng; lập vi bằng; xác minh

điều kiện thi hành án và thi hành án;... mới được phát triển như một "nghề" mang
tính chun nghiệp và được cơng nhận là một loại dịch vụ. Các nghiên cứu về
DVPL cũng mới xuất hiện cùng với việc xác lập trở lại hoặc xã hội hóa từng bước
một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước trong vài thập kỷ gần đây. Tuy nhiên, quan
niệm về DVPL còn nhiều ý kiến khác nhau. Đặc biệt là tính thương mại của loại
dịch vụ này. Các cơng trình nghiên cứu tiếp cận DVPL dưới các góc độ khác nhau
và mới tập trung vào một số loại hình DVPL. Đó là các vấn đề: quy định của
GAST/WTO về TMDVPL; quan niệm về DVPL, phạm vi DVPL, đối tượng và điều
kiện hành nghề cung ứng DVPL; giá trị pháp lý của sản phẩm DVPL; kỹ năng thực
hiện một số loại hình DVPL; quá trình hình thành và phát triển một số loại hình
DVPL; vị trí, vai trị của DVPL trong đời sống xã hội và nhận thức của xã hội về
vấn đề này; khó khăn, vướng mắc khi thực hiện các DVPL bị phụ thuộc vào bên thứ
18


ba; nhu cầu, định hướng và xu thế phát triển một số loại hình DVPL; giải pháp hồn
thiện pháp luật về một số loại hình DVPL. Từ đó có thể khẳng định rằng hiện nay,
các nhà nghiên cứu và lập pháp ở Việt Nam chưa đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh
về DVPL, đặc điểm và phạm vi DVPL cũng như chưa xác định rõ các loại DVPL,
điều kiện hành nghề cung ứng DVPL và phạm vi nhà cung cấp DVPL.
Thứ hai: Về hợp đồng dịch vụ pháp lý
Tại Việt Nam, hầu như chưa có nghiên cứu nào về HĐDVPL. Hiện chỉ có các
nghiên cứu, phân tích, đánh giá từng khía cạnh liên quan đến HĐDVPL như về hợp
đồng hoặc về HĐTMDV. Ở mức độ nhất định, các nghiên cứu đã làm rõ những vấn
đề lý luận cơ bản về hợp đồng và hợp đồng thương mại, như: khái niệm, bản chất,
chủ thể, mục đích, nội dung, nguyên tắc, phương thức giao kết, quản lý rủi ro; luận
giải một số vấn đề thực tiễn về các hợp đồng này.
Đặc biệt, Giáo trình "Một số hợp đồng đặc thù trong hoạt động thương mại
và kỹ năng đàm phán, soạn thảo" của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an
nhân dân xuất bản năm 2012. Giáo trình cung cấp một số kiến thức chuyên sâu về

một số hợp đồng thương mại đặc thù, trong đó có HĐDVPL cho doanh nghiệp. Tại
Chương 6 về "hợp đồng dịch vụ pháp lý cho doanh nghiệp", đã đưa ra một số kiến
thức về DVPL và HĐDVPL cho doanh nghiệp. Theo đó: i) hiện nay ở Việt Nam
chưa có một khái niệm thống nhất về DVPL nhưng đã đưa ra sự phân loại các
DVPL ở Việt Nam, gồm: dịch vụ tư vấn pháp luật; dịch vụ tranh tụng; dịch vụ đại
diện ngoài tố tụng; dịch vụ trọng tài thương mại và DVPL khác, như công chứng,
thừa phát lại…; ii) Về đặc điểm của DVPL: Chủ thể cung cấp phải đáp ứng được
những điều kiện hành nghề nhất định; là dịch vụ gắn liền với quá trình xây dựng
nhà nước pháp quyền và thực thi công lý, đảm bảo cơng bằng xã hội; về hình thức
quan hệ DVPL được thiết lập thông qua hợp đồng; về mục đích của chủ thể, bên sử
dụng DVPL có mục đích tìm kiếm sự hỗ trợ về pháp luật, bên cung ứng DVPL có
mục đích tìm kiếm lợi nhuận, hưởng thù lao; iii) Về HĐDVPL cho doanh nghiệp,
giáo trình chưa đưa ra một khái niệm về HĐDVPL cho doanh nghiệp nhưng đưa ra
một số đặc điểm của loại hợp đồng này, gồm: chủ thể hợp đồng bên cung ứng
DVPL có thể là luật sư hoặc tổ chức hành nghề luật sư, bên sử dụng DVPL là tổ
chức, cá nhân có nhu cầu; về đối tượng hợp đồng là những công việc cụ thể; về hình
thức của HĐDVPL có thể bằng lời nói, bằng hành vi hoặc bằng văn bản; về nội
dung hợp đồng là toàn bộ những điều khoản do các bên thỏa thuận. Như vậy, có thể
nhận thấy, Giáo trình này cũng đã đi từ những cơ sở nền tảng của HĐDVPL là
19


×