Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước thực tiễn tại việt nam qui phạm pháp luật hành chính và quan hệ pháp luật hành chính cơ sở lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.12 KB, 61 trang )

Nhóm 1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LUẬT

BÀI THẢO LUẬN
Đề tài: Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước – thực tiễn tại Việt Nam. Qui phạm
pháp luật hành chính và quan hệ pháp luật hành chính – cơ sở lý luận và thực
tiễn

Nhóm thực hiện: Nguyễn Phi Hồng Vũ (Nhóm trưởng)
Nguyễn Nam Anh
Nguyễn Thanh Hằng
Nguyễn Cảnh Hưng
Đồn Bích Khánh

Người hướng dẫn khoa học: Ths.NCS. Lâm Thị Thu Huyền

Hà Nội – 2018
LỜI NÓI ĐẦU
Page | 1


Nhóm 1

Luật hành chính là ngành luật độc lập về lĩnh vực quản lý hành chính nhà
nước. Nhưng thật chính xác thì quản lý là gì và quản lý hành chính nhà nước là
gì? Đã có vơ số các định nghĩa được đưa ra nhằm làm rõ vấn đề này, và mục
đích của chúng em, nhóm 1, là đưa ra một cách hiểu khách quan và chính xác
nhất có thể về vấn đề này, các hình thưc, phương pháp cũng như các góc nhìn về
quy phạm pháp luật hành chính và quan hệ pháp luật hành chính, những chủ đề


được sử dụng rất nhiều trong ngành luật nói riêng và đời sống nói chung.
Bài nghiên cứu sau đây có thể khơng hồn tồn phân tích được đầy đủ
mọi khía cạnh của một vấn đề lớn như vậy. Cho nên trong q trình tìm hiểu và
hồn thiện bài nghiên cứu, khơng thể tránh khỏi sự thiếu sót. Vì vậy, rất mong
cơ và các bạn có thể đưa ra những ý kiến, đóng góp để hồn thiện hóa hiểu biết
của chúng ta về vấn đề này.
Trân trọng cảm ơn cô và các bạn.

Page | 2


Nhóm 1

MỤC LỤC
Lời nói đầu………………………………………………………………………3
1. Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước - thực tiễn tại Việt Nam………………..4
1.1. Quản lý và quản lý nhà nước………………………………………4
1.2. Thực tiễn về quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam…………..8
2. Các nguyên tắc cơ bản của quản lý hành chính nhà nước………………….9
2.1. Khái niệm và hệ thống các nguyên tắc cơ bản của quản lý hành chính
nhà nước…………………………………………………………………………9
2.2. Các nguyên tắc cơ bản của quản lý hành chính nhà nước…………11
3. Hình thức quản lý hành chính nhà nước…………………………………..36
3.1. Khái niệm…………………………………………………………..36
3.2. Phân loại……………………………………………………………36
4. Phương pháp quản lý hành chính nhà nước……………………………….39
4.1. Khái niệm…………………………………………………………..40
4.2. Những yêu cầu đối với phương pháp quản lý hành chính nhà nước..40
4.3. Những phương pháp quản lý hành chính nhà nước………………41
5. Quy phạm pháp luật hành chính…………………………………………..44

5.1. Định nghĩa…………………………………………………………44
5.2. Đặc điểm…………………………………………………………..45
5.3. Phân loại quy phạm pháp luật hành chính………………………47
5.4. Thực hiện quy phạm pháp luật hành chính………………………51
5.5. Thực tiễn……………………………………………………………54
6. Quan hệ pháp luật hành chính……………………………………………..55
6.1. Khái niệm…………………………………………………………..55
6.2. Đặc điểm……………………………………………………………55
6.3. Phân loại……………………………………………………………58
Tài liệu tham khảo……………………………………………………………..62

1. Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước – thực tiễn tại Việt Nam
Page | 3


Nhóm 1

1.1. Quản lý và quản lý nhà nước
1.1.1. Quản lý
Quản lý là đối tượng nghiên cứ của nhiều ngành khoa học, trong đó có cả
khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Nhiều lĩnh vực, ngôn ngữ khác nhau đã
có những định nghĩa khác nhau về quản lý. Trong tiếng Việt, “quản” là trơng coi
và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định, “lý” là tổ chức và điều khiển các hoạt
động theo yêu cầu nhất định. Như vậy, ta có thể hiểu “quản lý” trong tiếng Việt
là việc giữ gìn, duy trì các hoạt động ở trạng thái ổn định, cũng như tổ chức, sắp
xếp các hoạt động để phát triển các hoạt động đó theo một yêu cầu nhất định.
Theo từ điển Cambridge, quản lý mang những lớp nghĩa của kiếm soát và điều
khiển, được định nghĩa là chịu trách nhiệm điều khiển và tổ chức một cá nhân
hoặc một tổ chức, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh và nhân sự, kiểm soát
việc điều hành hoặc sắp xếp cá nhân hay tổ chức đó. Như vậy, từ những định

nghĩa cơ bản này, ta có thể thấy được “quản lý” là khái niệm có liên quan mật
thiết đến việc quản trị và điều khiển. Định nghĩa chung nhất về quản lý, ta có thể
hiểu theo định nghĩa của ngành điều khiển học: “Quản lý là sự tác động liên tục
có tổ chức, có định hướng, có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến
đối tượng quản lý để chỉ huy, điều khiển, liên kết các yếu tố tham gia vào hoạt
động thành một chỉnh thể thống nhất, điều hoà hoạt động của các khâu một
cách hợp quy luật nhằm đạt đến mục tiêu xác định trong điều kiện biến động
của mơi trường.”
Đó là quan điểm của các ngành nghiên cứu. Các nhà khoa học, nhà nghiên
cứu trong suốt triều dài lịch sử cũng đã đưa ra cách hiểu của mình về vấn đề
này, đơn cử như:



Harold Koontz, nhà lý thuyết tổ chức, giáo sư quản lý kinh

doanh người Mỹ tại Đại học California, cho rằng: “Quản lý là một hoạt
động thiết yếu đảm bảo sự phối hợp nỗ lực của các cá nhân nhằm đạt đến
mục tiêu tổ chức nhất định.”

Page | 4


Nhóm 1



Mary Parker Follett, tư vấn quản lý và tiên phong trong lĩnh

vực lý thuyết tổ chức và hành vi tổ chức người Mỹ, lại có quan điểm rằng:

“Quản lý là một nghệ thuật khiến công việc được thực hiện ang qua
người khác.”



Karl Marx: “Quản lý là một chức năng đặc biệt nảy sinh từ

bản chất xã hội của quá trình lao động.”



V.I.Lenin: “Muốn quản lý tốt mà chỉ biết thuyết phục thơi thì

chưa đủ, mà cần phải biết tổ chức về mặt thực tiễn.”
Theo hướng tiếp cận này, luận điểm của Marx được angà chính xác nhất
và có thể áp dụng với mọi hoạt động chung của con người trong xã hội.
Đó là các cách hiểu chung nhất và cơ bản nhất khi định nghĩa về quản lý.
Tất nhiên, để có thể quản lý tốt, chủ thể quản lý cũng phải có được sự tuân theo
của các đối tượng quản lý. Vậy nên, để có được sự quản lý hiệu quả, địi hỏi
phải có sự phục tùng của các đối tượng đối với chủ thể quản lý. Mà cơ sở của sự
phục tùng này là quyền uy, hoặc là uy tín, mà đóng vai trị cơ sở là quyền uy.
Quyền uy là phương tiện rất quan trọng để chủ thể quản lý buộc đối tượng phải
phục tùng theo ý chí của mình. Ý chí đó có thể phục vụ lơi ích chung của tất cả
các thành viên trong tổ chức, hoặc chủ phục vụ lợi ích của một nhóm thành viên
hoặc một cá nhân nhất định trong tổ chức. Vì ý chí của tổ chức được angà ý chí
của chủ thể quản lý, cho nên việc sử dụng quyền uy phục tùng cũng chia làm
nhiều trường hợp khác nhau như sau:


Sự quyền uy phục tùng, thống nhất ý chí được thực hiên chủ


yếu qua thuyết phục của chủ thể quản lý và được đảm bảo bằng kỷ luật tự
giác của các đối tượng quản lý.


Sự quyền uy phục tùng, thống nhất ý chí được đảm bảo thực

hiện bằng cưỡng chế, bạo lực, và “có thể mang những hình thức độc tài,
nghiêm khắc” (V.I. Lenin).
Chủ thể của quản lý có thể là một cá nhân hoặc tổ chức các cá nhân, là đại
diện có quyền uy, có quyền hạn và trách nhiệm liên kết, phối hợp những hoạt
Page | 5


Nhóm 1

động riêng lẻ của từng cá nhân đề hướng đến mục tiêu chung nhằm đạt được kết
quả nhất định.
1.1.2. Quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của nhà nước, khi
mà nhà nước quản lý phần lớn các công việc của xã hội. Khối lượng công việc
cần quản lý của nhà nước đều là các cơng việc vơ cùng quan trọng, đóng vai trò
chủ chốt cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Quản lý nhà nước bao gồm các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp
nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước. Từ đó có thể
khẳng định rằng, quản lý nhà nước là sự tác động của các chủ thể mang quyền
lực nhà nước, chủ yếu bằng pháp luật, tới các đối tượng quản lý, nhằm thực hiện
các chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước. Do đó, tất cả các cơ quan nhà
nước đều thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Quản lý nhà nước trong lĩnh
vực hành pháp là quản lý hành chính nhà nước.

Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động đảm bảo sự chấp hành luật,
pháp lệnh, nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước, đảm nhiệm phần lớn
bởi các cơ quan hành chính nhà nước, nhằm tổ chức và chỉ đạo một cách thường
xuyên và trực tiếp công cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa – xã hội và hành chính –
chính trị. Cho nên có thể nói rằng, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động
chấp hành – điều hành của nhà nước.
Nếu xét tổng thể, quản lý hành chính nhà nước là việc thực thi nhiệm vụ,
quyền hạn của mọi cơ quan trong bộ máy nhà nước, hay bất kỳ cá nhân, tổ chức
nào mang trong mình quyền lực của nhà nước. Nhưng nếu đánh giá sát hơn,
quản lý hành chính nhà nước là hình thức hoạt động chấp hành – điều hành của
nhà nước, được thực hiện chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, nhằm
đảm bảo việc chấp hành các quy định của cơ quan quyền lực nhà nước.
Tính chất chấp hành được thể hiện ở mục đích của việc quản lý hành
chính nhà nước là đảm bảo thực hiện trên thực tế các văn bản pháp luật do cơ
quan quyền lực nhà nước ban hành. Mọi chủ thể trong xã hội, kể cả những chủ
thể mang trong mình quyền lực nhà nước cũng phải chấp hành nghiêm chỉnh
Page | 6


Nhóm 1

theo các văn bản pháp luật đã được ban hành. Mọi hoạt động quản lý hành chính
nhà nước đều được tiến hành trên cơ sở pháp luật và để thực hiện cho pháp luật.
Hoặc có thể nói rằng, cơ quan hành chính các cấp đưa lý thuyết luật trở thành
thực tiễn.
Tính chất điều hành được thể hiện ở việc để đảm bảo cho các văn bản
pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước ban hành được thực hiện trên thực tế,
cơ quan hành chính nhà nước phải tiến hành hoạt động tổ chức và chỉ đạo trực
tiếp đối với các đối tượng quản lý thuộc quyền, mà ở nước ta là Ủy ban nhân
dân các cấp. Trong quá trình thực hiện điều hành, cơ quan hành chính nhà nước

có quyền nhân danh nhà nước ban hành các văn bản pháp luật để đặt ra các quy
phạm pháp luật hoặc các mệnh lệnh cụ thể bắt buộc đối với các đối tượng quản
lý liên quan phải thực hiện. Như vậy, mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và các
đối tượng quản lý là quan hệ “quyền lực – phục tùng”.
Từ đó ta có thể thấy, hoạt động điều hành là một nội dung cơ bản của hoạt
động chấp hành quyền lực nhà nước, gắn liền với hoạt động chấp hành và cùng
hoạt động chấp hành tạo thành hai mặt thống nhất của quản lý hành chính nhà
nước.
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước, dù đặt dưới sự giám sát của cơ
quan quyền lực nhà nước, nhưng vẫn giữ được sự chủ động, sang tạo trong công
tác điều hành. Điều đó được minh chứng qua các chủ trương, biện pháp quản lý
thích hợp đối với các đối tượng khác nhau của chủ thể quản lý, tạo cho họ điều
kiện để lựa chọn cách thức hoàn thành nhiệm vụ trên cơ sở nghiên cứu, xem xét
tình hình cụ thể.
Tất cả các cơ quan nhà nước đều tiến hành hoạt động quản lý hành chính
nhà nước, nhưng hoạt động này là hoạt động chủ yếu là do cơ quan hành chính
nhà nước thực hiện, phản ánh chức năng cơ bản của các cơ quan hành chính nhà
nước. Tuy vậy, khơng nên cho rằng mỗi cơ quan nhà nước chỉ có thể thực hiện
một loại hành vi nhất định, tương ứng với hình thức hoạt động và chức năng cơ
bản của nó. Trên thực tế, nước ta là một nước mà có sự phân chia khá rõ rang
nhưng vẫn có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư
Page | 7


Nhóm 1

pháp, đơn cử như việc các tịa án cũng có thẩm quyền nhất đinh trong việc xử lý
vi phạm hành chính.
Chủ thể của quản lý nhà nước là các tổ chức cá nhân mang quyền lực nhà
nước trong quá trình tác động tới các đối tượng quản lý, đơn cử như là Nhà nước

và các cơ quan nhà nước, cùng với các cá nhân, tổ chức được nhà nước trao
quyển thực hiện hoạt động quản lý nhà nước. Và khách thể trong trường hợp
này, khách thể của quản lý nhà nước là trật tự quản lý nhà nước, do pháp luật
quy định.
Cịn chủ thể của quản lý hành chính nhà nước là các cơ quan nhà nước mà
chủ yếu là cơ quan hành chính nhà nước, các cán bộ nhà nước có thẩm quyền
cũng như các cá nhân, tổ chức được nhà nước trao quyền thực hiện hoạt động
quản lý hành chính nhà nước trong những trường hợp cụ thể. Khách thể của
trường hợp này là trật tự quản lý hành chính nhà nước, do các quy phạm pháp
luật hành chính quy định.
1.2. Thực tiễn về quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam
Trên thực tế ở Việt Nam, lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước chủ yếu
thuộc quyền quản lý của Chính phủ (ở Trung ương) và Ủy ban nhân dân các cấp
(ở địa phương). Nhưng với sự khẳng định rằng “…quyền lực nhà nước là thống
nhất, nhưng có sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát quyền giữa các cơ quan
trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp…” thì các cơ quan
nhà nước khác (như cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan xét xử, cơ quan kiểm
sát) cũng có vai trị thực hiện quản lý hành chính nhà nước trong một số các điều
kiện, hoàn cảnh nhất định. “Sự phân công rành mạch giữa các cơ quan nhà
nước là tiền đề quan trọng để kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo đảm nguyên
tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mặt khác, sự phân cơng đó cũng rất
cần thiết để xây dựng một nền hành chính quốc gia ổn định, thống nhất từ
Trung ương đến cơ sở. Yếu tố kiểm sốt ở đây khơng phải là sự “kiềm chế”,
“đối trọng”, mà là để ang sự giám sát giữa các cơ quan thực hiện quyền lực
nhà nước.”
2. Các nguyên tắc cơ bản của quản lý hành chính nhà nước
Page | 8


Nhóm 1


2.1. Khái niệm và hệ thống các nguyên tắc cơ bản của quản lý hành
chính nhà nước
2.1.1. Khái niệm
Quản lý hành chính nhà nước là một hoạt động có mục đích. Những mục
đích, mục tiêu cơ bản được đặt ra cho việc quản lý hành chính nhà nước, và kết
quả thu được sẽ là thước đo để đánh giá cho hiệu quả của việc quản lý hành
chính nhà nước.Muốn đạt được hiệu quả cao trong việc quản lý hành chính nói
riêng và các cơng việc khác nói chung, đều có những nguyên tắc làm cơ sở cho
việc tiến hành cơng việc. Đặc biệt khi mà Luật hành chính ở nước ta vẫn chỉ là
một tập hợp của nhiều văn bản quy phạm pháp luật riêng rẽ về vấn đề quản lý
nhà nước, nên để việc tiến hành quản lý hành chính nhà nước thực tiễn diễn ra
một cách có hiệu quả cao, thì việc đặt ra những nguyên tắc quản lý hành chính
nhà nước là một vấn đề quan trọng, cần thiết và việc tuân thủ các nguyên tắc này
thì càng quan trọng và cần thiết hơn.
Các nguyên tắc quản lý hành chính được ghi nhận trong các văn bản pháp
luật do Nhà nước ban hành, từ các văn bản có tính pháp lý cao như Hiến pháp,
các Bộ luật cho đến các văn bản dưới luật có tính thực hành cao, khẳng định cho
vị trí tối quan trọng của các nguyên tắc này trong lĩnh vực quản lý hành chính
nhà nước. Hiến pháp – đạo luật cơ bản của Nhà nước – ghi nhận những quy tắc
cơ bản trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong đó có cả các
cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Và các văn bản luật và dưới luật lại cụ thể
hóa các nguyên tắc này dưới góc độ thực hành.
Các ngun tắc quản lý hành chính nhà nước mang tính khoa học và
khách quan, được xây dựng dựa trên sự tổng kết và rút ra từ thực tiễn, cho nên
các nguyên tắc chủ quan do các chủ thể quản lý hành chính nhà nước đặt ra mà
phải là cơ sở của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Nhưng tất nhiên, các
nguyên tắc này lại được ghi nhận lại thông qua nhận thức của con người, cho
nên dù khách quan như thể nào đi chăng nữa, chúng cũng chịu sự chi phối của
các điều kiện về chính trị, giai cấp và xã hội. Ở điều kiện thực tiễn cụ thể ở Việt

Nam, nội dung các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước thể hiện rõ nét bản
Page | 9


Nhóm 1

chất của nhà nước ta – Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân.
Các ngun tắc của quản lý hành chính nhà nước có tính ổn định, do các
nguyên tắc này là sự phản ánh các quy luật khách quan của quản lý hành chính
nhà nước, được áp dụng trong thời gian dài áp dụng các quy định quản lý hành
chính nhà nước, cho nên chúng phải ln giữ được tính đúng đắn trong áp dụng
thực tiễn. Nhưng tất nhiên, nếu một nguyên tắc trở nên lạc hậu, lỗi thời haowjc
khơng cịn giữ ngun được giá trị áp dụng thực tiễn trước sự thay đổi của xã
hội và hệ thống pháp luật, nó phải liên tục được xem xét, nghiên cứu để loại bỏ
các nội dung khơng cịn phù hợp, bổ sung các nội dung, nguyên tắc mới.
Các nguyên tắc này không thể là các nguyên tắc đơn lẻ, riêng rẽ, thiếu
thống nhất, mà chúng phải là một hệ thống thống nhất, có liên kết chặt chẽ, áp
dụng nguyên tắc này phải bổ sung cho nguyên tắc khác chứ không thể việc hai
nguyên tắc bất kỳ có sự mâu thuẫn trong áp dụng với nhau. Vì vậy, tính thống
nhất, hệ thống trở thành một thuộc tính vốn có của các ngun tắc này.
Tất nhiên, việc quản lý hành chính nhà nước ảnh hưởng đến nhiều đối
tượng với các tính chất khác nhau, vì vậy đều có các nguyên tắc bổ sung và nâng
cao trong vấn đề này. Ở đây chúng ta chỉ đề cập đến các ngun tắc cơ bản nhất,
có tính bao trùm, làm tiền đề cho các nguyên tắc khác của quản lý hành chính
nhà nước.
2.1.2. Hệ thống các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước
Để có thể xác định cụ thể vị trí, vai trị của các ngun tắc này trong lĩnh
vực quản lý hành chính nhà nước, ta sẽ phân loại các nguyên tắc này thành các
nhóm, mà trên cơ sở đó xây dựng và áp dụng chúng một cách có hiệu quả trong

thực tiễn quản lý hành chính nhà nước.
Cách tiếp cận cơ bản và phổ biến nhất được sử dụng là dựa trên biểu hiện
cụ thể ở hoạt động tổ chức, bao gồm tổ chức chính trị và tổ chức kỹ thuật. Từ đó
có thể phân thành hai nhóm ngun tắc chính là nhóm ngun tắc chính trị - xã
hội và nhóm nguyên tắc tổ chức – kỹ thuật.
Page | 10


Nhóm 1

Các ngun tắc chính trị - xã hội là các nguyên tắc chung, được quán triệt
trong toàn bộ tổ chức và hoạt dộng của các cơ quan nhà nước trong đó là hoạt
động quản lý hành chính nhà nước. Các nguyên tắc này thể hiện sâu sắc bản chất
giai cấp của nhà nước, bao gồm:
 Nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước
 Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành
chính nhà nước
 Nguyên tắc tập trung dân chủ
 Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc
 Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Các nguyên tắc tổ chức – kỹ thuật là các nguyên tắc đặc thù cho hoạt
động quản lý hành chính nhà nước, chi phối các yếu tố mang tính chất kỹ thuật
của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Đây là nhóm ngun tắc có tính ổn
định cao, vì dù trong bất kỳ điều kiện chính trị hoặc giai cấp như thế nào thì việc
quản lý hành chính nhà nước vẫn phải tuân theo các nguyên tắc này. Mặc dù
nhóm này bao trùm rất nhiều nguyên tắc khác nhau, nhưng ta chỉ đề cập đến hai
nguyên tắc cơ bản nhất là:
 Nguyên tắc quản lý theo ngành, chức năng kết hợp với quản
lý theo địa phương
 Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo chức

năng và phối hợp quản lý liên ngành.
2.2. Các nguyên tắc cơ bản của quản lý hành chính nhà nước
2.2.1. Các nguyên tắc chính trị - xã hội


Nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà

nước
Xuất phát từ thực tiễn lịch sử cho thấy, việc Đảng định hướng, lãnh đạo là
hạt nhân trong những thắng lợi của đất nước ta, từ việc giành lại chính quyền,
kháng chiến cứu nước cho đến cơng cuộc đổi mới cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Trên cơ sở đó, ta có thể thấy rằng, sự lãnh đạo của Đảng trong quản lý nhà
Page | 11


Nhóm 1

nước nói chung và quản lý hành chính nhà nước nói riêng là một nguyên tắc cơ
bản, quan trọng, được đặt lên hang đầu trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà
nước. Khoản 1, Điều 4 Hiến pháp 2013 đã khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt
Nam – Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Marx –
Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội.”
Cần chú ý rằng, nguyên tắc này không thừa nhận sự can thiệp của các tổ
chức Đảng vào trong các hoạt động chuyên môn của các cơ quan nhà nước. Sự
lãnh đạo của Đảng ở đây chỉ dừng lại ở việc định hướng tư tưởng, xác định các
đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách và công tác tổ chức trong lĩnh vực
chuyên môn, và cũng bị giới hạn can thiệp theo khoản 3, Điều 4 Hiến pháp

2013: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”
Đảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước bằng việc đưa ra những
đường lối, chủ trương, chính sách của mình về các lĩnh vực hoạt động khác nhau
trong quản lý hành chính nhà nước. Hình thức lãnh đạo này cịn được nêu rõ
trong Điều 22 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật: “Chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh được xây dựng trên cơ sở đường lố, chủ trương, chính
sách của Đảng, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội…”
Đảng lãnh đạo cịn là cơ bản trong cơng tác tổ chức cán bộ, được khẳng
định ở khoản 1, Điều 5, Luật cán bộ công chức 2008: “Bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý của Nhà nước.” Nhưng vấn đề bầu, bổ
nhiệm cán bộ công chức phải theo thủ tục do pháp luật quy định.
Thêm vào đó, Đảng cịn có vai trị kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ
quan hành chính nhà nước để đảm bảo các công việc đi theo đúng tư tưởng,
quan điểm, chủ trương, chính sách đã đề ra để có các biện pháp uốn nắn các sai
phạm đã, đang và sẽ xảy ra.
Page | 12


Nhóm 1

 Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đơng đảo vào quản
lý hành chính nhà nước
Điều 2, Hiến pháp 2013 đã khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân.” Điều 3, Hiến pháp 2013 cũng nêu rõ: “Nhà nước bảo
đảm và phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của Nhân dân; công nhận, tôn trọng
và bảo đảm quyền con người, quyền công dân.”. Đây là sự khẳng định vai trò
của nhân dân trong việc khẳng định quyền làm chủ của mình trong các lĩnh vực
đời sống nói chung và lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước nói riêng.

Nhân dân lao động tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Đây là hình thức tham gia tích cực, hiệu quả nhất của người dân trong
quản lý hành chính nhà nước. Các cơ quan nhà nước là công cụ thực hiện quyền
lực nhà nước, do vậy việc để nhân dân lao động có quyền tham gia vào hoạt
động của các cơ quan sẽ phát huy tính dân chủ cao độ, đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của tồn thể người dân. Trên thực tế có nhiều cách thức để nhân dân
lao động tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước, cụ thể:
Thứ nhất, nhân dân lao động có thể tham gia trực tiếp vào cơ quan quyền
lực nhà nước. Các cơ quan quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay gồm: Quốc
hội ở Trung ương và Hội đồng nhân dân các cấp ở địa phương. Con đường để
tham gia các cơ quan này thơng qua bầu cử đầu phiếu, theo đó những người dân
có đủ điều kiện ,được đơng đảo nhân dân lao động tín nhiệm đề cử hoặc tự mình
ứng cử sẽ trở thành đại biểu, thay mặt nhân dân lao động cả nước hoặc từng địa
phương tham gia vào hoạt động của cơ quan trên. Khi đã trở thành thành viên
của những cơ quan mà mình được bầu, những người được tín nhiệm có quyền
xem xét và quyết định trực tiếp những vấn đề quan trọng của đất nước, của từng
địa phương trong đó có có lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước.

Page | 13


Nhóm 1

Thứ hai, nhân dân lao động có thể tham gia trực tiếp vào hoạt động của
các cơ quan nhà nước khác: cơ quan xét xử (Tòa án nhân dân các cấp), cơ quan
kiểm sát (Viện kiểm sát nhân dân các cấp), các cơ quan hành chính (Chính phủ,
Uỷ ban nhân dân các cấp…) với tư cách là những cán bộ, công chức. Khi ở
cương vị là những cán bộ, công chức, nhân dân lao động sử dụng trực tiếp
quyền lực nhà nước để tiến hành các hoạt động khác nhau trong quản lý hành
chính nhà nước, thực hiện nhiệm vụ chức năng đặc thù của mỗi cơ quan,thể hiện

vai trò của người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.
Thứ ba,ngoài việc trực tiếp tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà
nước, nhân dân lao động có thể gián tiếp tham gia vào hoạt động của các cơ
quan nhà nước thông qua việc thực hiện quyền lựa chọn những đại biểu xứng
đáng thay mặt mình vào cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương hay địa
phương .Đây là cách thức rộng rãi nhất để nhân dân lao động có thể tham gia
vào quản lý cơng việc của Nhà nước nói chung cũng như quản lí hành chính nhà
nước nói riêng.
Nhân dân lao động tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội.
Tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội là một hình thức gián tiếp
để nhân dân lao động tham gia vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Pháp luật Việt Nam trao cho các tổ chức xã hội quyền tham gia thành lập các cơ
quan nhà nước, quyền giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động của các cơ
quan nhà nước, trong đó có hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân lao động tham gia tich
cực vào hoạt động của các tổ chức xã hội. Thông qua tổ chức xã hội, vai trò chủ
động sáng tạo của nhân dân lao động được phát huy.
Nhân dân lao động tham gia hoạt động tự quản ở cơ sở.
Page | 14


Nhóm 1

Hoạt động tự quản ở cơ sở là hoạt động được diễn ra thường xuyên, gần
gũi, gắn liền với đời sống của nhân dân lao động. Những hoạt động này được
diễn ra ngay tại nơi người dân cư trú: khu dân cư, cộng đồng các làng, xã v.v…
và do người dân tự mình thực hiện , Nhà nước khơng ép buộc họ phải làm . Hoạt
động này được diễn ra trên nhiều lĩnh vực khác nhau, có thể là trong lĩnh vực
bảo vệ trật tự an toàn xã hội, vệ sinh mơi trường, an tồn giao thơng v.v… với ý
nghĩa tích cực, thể hiện sự dân chủ sâu sắc.

Nhà nước tạo mọi điều kiện để nhân dân lao động tham gia một cách tích
cực, chủ động đối với những hoạt động mang tính tự quản ở cơ sở. Chính quyền
địa phương thể hiện sự quan tâm, hỗ trợ thông qua việc ban hành những quy
định cụ thể nhằm điều chỉnh, định hướng cho việc thực hiện các hoạt động tự
quản của người dân được diễn ra một cách thường xuyên, đạt hiệu quả cao, đúng
pháp luật và phát huy quyền làm chủ trực tiếp của người dân ở cơ sở.
Nhân dân lao động trực tiếp thực hiện quyền và nghĩa vụ của cơng dân
trong quản lý hành chính nhà nước.
Kế thừa những quy định từ các bản Hiến pháp trước đây, Khoản 1 Điều
28 Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định: “Cơng dân có quyền tham gia quản lý
nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về
các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước”. Đây là một quyền cơ bản của
công dân và để thực hiện quyền cơ bản này, pháp luật đã quy định các quyền và
nghĩa vụ cụ thể của công dân trong các lĩnh vực khác nhau của quản lí hành
chính nhà nước. Những quyền và nghĩa vụ này của cơng dân có thể thực hiện
thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội (như đã phân
tích ở trên) hoặc cũng có thể do chính người dân thực hiện.
Việc trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của cơng dân trong quản
lý hành chính nhà nước là một hình thức có ý nghĩa quan trọng để nhân dân lao
động phát huy vai trị làm chủ của mình.
Page | 15


Nhóm 1

 Nguyên tắc tập trung – dân chủ trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước
Nguyên tắc này được thể hiện trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước ở một số khía cạnh cơ bản như sau:
Thứ nhất, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước do nhân dân xây

dựng nên. Quốc hội, hội đồng nhân dân và các cơ quan nhà nước đều được tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc này. Nhân dân bầu ra đại diện cho mình
trong cơ quan quyền lực nhà nước là Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Cơ
quan quyền lực nhà nước lại bầu ra các thành viên của Chính phủ, ủy ban nhân
dân các cấp là những cơ quan hành chính nhà nước, xây dựng pháp luật về tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trên nguyên tắc tập trung – dân chủ.
Như vậy, nguyên tắc này được tuân thủ trong toàn bộ máy nhà nước.
Thứ hai, quyết định của cấp trên, của trung ương buộc cấp dưới, địa
phương phải thực hiện. Đây là biểu hiện của sự tập trung quyền lực vào cơ quan
cấp trung ương, đồng thời dân chủ trong việc huy động sự chủ động, sáng tạo
trong thực hiện quyết định của các cấp địa phương.
Thứ ba, những vấn đề quan trọng của cơ quan nhà nước phải được đưa ra
thảo luận tập thể và quyết định theo đa số. Đây là biểu hiện của sự tập trung
trong việc thống nhất ý kiến, dân chủ trong việc đóng góp ý kiến và quyết định
cuối cùng.
Thứ tư, mọi vấn đề quan trọng của đất nước phải được Quốc hội thông
qua, trước khi Quốc hội thảo luận và thông qua phải được đưa ra trưng cầu ý
kiến của nhân dân. Biểu hiện của tập trung thông qua quyết định tối cao của
Quốc hội, đồng thời dân chủ thể hiện trong việc lấy ý kiến của nhân dân.

Page | 16


Nhóm 1

Đây là ngun tắc kết hợp hài hịa giữa chỉ đạo tập trung thống nhất của
cấp trên với việc mở rộng dân chủ cho cấp dưới, đảm bảo nâng cao hiệu lực,
hiệu quả trong quản lí nhà nước. Dân chủ là bản chất của nhà nước XHCN, có
đảm bảo dân chủ mới có thể tập trung sức mạnh của tập thể và phát huy trí tuệ,
phát huy tính chủ động và sức sáng tạo của nhân dân. Quản lí nhà nước, quản lí

xã hội địi hỏi phải có sự tập trung quyền lực, có tập trung quyền lực mới quản lí
được xã hội, mới thiết lập được trật tự xã hội.
Tập trung và dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất kết hợp hài hòa
với nhau. Nếu thiên về tập trung mà không chú trọng tới dân chủ sẽ dẫn đến tập
trung quan liêu, độc đoán trái với bản chất của nhà nước ta. Ngược lại nếu quá
thiên về dân chủ mà coi nhẹ tập trung sẽ dẫn đến dân chủ quá trớn làm cho hoạt
động của nhà nước kém hiệu quả. Vì vậy, tập trung phải luôn gắn liền với dân
chủ. Tập trung và dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất không thể tách rời.
Nguyên tắc tập trung – dân chủ trong quản lý hành chính nà nước là sự
kết hợp giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ. Nguyên tắc tập trung – dân chủ
trong quản lí hành chính nhà nước được biểu hiện ở những nội dung sau:
Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền
lực nhà nước cùng cấp
Hiến pháp 1992 quy định : “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông
qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và
nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân
dân.”
Như vậy, Hiến pháp quy định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân, nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan quyền lực nhà
nước do chính họ bầu ra để thay mặt mình trực tiếp thực hiện những quyền lực
đó. Ðể thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước, hệ thống cơ quan
Page | 17


Nhóm 1

hành chính nhà nước được thành lập và nó ln có sự phụ thuộc vào các cơ quan
quyền lực nhà nước cùng cấp.
Tập trung được thể hiện ở việc các cơ quan quyền lực nhà nước có những
quyền hạn nhất định trong việc thành lập, sáp nhập hay giải thể các cơ quan

hành chính nhà nước cùng cấp. Ở trung ương Quốc hội thành lập ra Chính phủ
và trao cho nó quyền hành pháp. Ở địa phương các UBND do HĐND cùng cấp
bầu ra và thực hiện hoạt động quản lí hành chính nhà nước ở địa phương.
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 quy định:
Khoản 3 Điều 17 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp tỉnh:
“Phê chuẩn cơ cấu cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp
huyện; quyết định thành lập, sáp nhập, giải thể một số cơ quan chuyên môn
thuộc Uỷ ban nhân dân cùng cấp theo hướng dẫn của Chính phủ”
Điều 2: “Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp
hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu
trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên.
…Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương,
góp phần bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà
nước từ trung ương tới cơ sở”.
Tập trung còn được thể hiện trong hoạt động, các cơ quan hành chính nhà
nước ln chịu sự chỉ đạo, giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước và chịu
trách nhiệm báo cáo hoạt động của mình với cơ quan quyền lực nhà nước cùng
cấp. Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định:
Điều 1: “Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động
của Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân,…”
Page | 18


Nhóm 1

Điều 120: “Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước
Hội đồng nhân dân cùng cấp và Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp.
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước
Hội đồng nhân dân cùng cấp và Chính phủ.”
Dân chủ được thể hiện trong việc cơ quan quyền lực nhà nước trao quyền

chủ động sáng tạo cho các cơ quan hành chính nhà nước trong việc chỉ đạo thực
hiện hiến pháp, luật và các văn bản khác của cơ quan quyền lực nhà nước.
Khoản 1 Điều 94 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định
nhiệm vụ quyền hạn của UBND cấp tỉnh như sau: “Tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra
việc thi hành Hiến pháp, luật, các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà
nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp; tổ chức thực
hiện công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật ở địa phương”
Thêm vào đó, cơ quan quyền lực nhà nước còn tạo điều kiên thuận lợi
cần thiết để các cơ quan hành chính nhà nước hồn thành tốt chức năng, nhiệm
vụ của mình là quản lí hành chính nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Điều đó được thể hiện trong việc: Chính phủ, bộ và các cơ quan ngang bộ
ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội. Tất cả sự phụ thuộc này nhằm mục đích bảo đảm cho hoạt
động của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, phù hợp với ý chí, nguyện
vọng và lợi ích của nhân dân lao động, bảo đảm sự tập trung quyền lực vào cơ
quan quyền lực, cơ quan do dân bầu và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, của địa phương đối với
trung ương
Nhờ có sự phục tùng này cấp trên và trung ương mới tập trung quyền lực
nhà nước để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa phương, nếu
Page | 19


Nhóm 1

khơng có sự phục tùng sẽ xảy ra tình trạng cục bộ địa phương, tùy tiện, vơ chính
phủ. Điều này được thể hiện ở một số khía cạnh cơ bản sau:
Tất cả các yêu cầu, mệnh lệnh do cấp trên và Trung ương đưa ra cấp dưới
và địa phương phải có nghĩa vụ thực hiện.
Theo Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, Điều 7: “Uỷ ban nhân

dân cấp dưới chịu sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân cấp trên. Uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh chịu sự chỉ đạo của Chính phủ”. Khoản 7 Điều 17 quy định về nhiệm
vụ, quyền hạn của HĐND cấp tỉnh: “Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định,
chỉ thị trái pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, nghị quyết trái pháp luật
của Hội đồng nhân dân cấp huyện”
Mặt khác, cấp trên, trung ương cũng phải tôn trọng ý kiến của cấp dưới,
địa phương về công tác tổ chức, hoạt động và về các vấn đề khác của quản lý
hành chính nhà nước. Sự phục tùng mệnh lệnh khơng mang ý nghĩa tuyệt đối,
phục tùng vô điều kiện mà là sự phục tùng những mệnh lệnh hợp pháp trên cơ
sở quy định của pháp luật. Cấp trên, trung ương phải tạo điều kiện để cấp dưới,
địa phương phát huy sự chủ động, sáng tạo nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao, nhằm chủ động thực hiện được "thẩm quyền cấp mình". Có như thế mới
khắc phục tình trạng quan liêu, áp đặt ý chí, làm mất đi tính chủ động sáng tạo
tự chịu trách nhiệm của địa phương, cấp dưới.
Sự phân cấp quản lý
Phân cấp quản lý là sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp
dưới nhằm đạt được một cách có hiệu quả mục tiêu chung của hoạt động quản lí
hành chính nhà nước. Khi tiến hành phân cấp quản lí đã có sự phân định rõ chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp trong bộ máy hành chính nhà nước. Mỗi
cấp quản lý có những mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền và những phương thức
cần thiết để thực hiện một cách tốt nhất những mục tiêu, nhiệm vụ của cấp mình.
Page | 20



×