CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TRONG NỀN
KINH TẾ.
I. Sự cần thiết khách quan và vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt
trong nền kinh tế thị trường:
1. Sự cần thiết khách quan:
Từ sau nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, với sự chuyển biến mạnh mẽ
của nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị
trường, hoạt động của nền kinh tế đã trở nên sôi động hơn với nhiều loại hình kinh
doanh thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Các quan hệ hàng hoá - tiền tệ,
quan hệ thị trường ngày càng mở rộng.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII cũng đã khẳng định: “Hệ thống ngân
hàng cần phải vươn lên làm tốt chức năng trung tâm tiền tệ - tín dụng - thanh toán
của các thành phần kinh tế, huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, thúc
đẩy sản xuất phát triển, góp phần từng bước ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam”.
Là một ngành có vai trò trọng tâm của toàn bộ nền kinh tế, ngân hàng phải
đi trước các ngành kinh tế khác trong công cuộc đổi mới và phát triển của đất
nước. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000 của Đảng đã
khẳng định rõ: “Phải cải tổ hệ thống ngân hàng để hoạt động có hiệu quả, thực sự
trở thành trung tâm tiền tệ - tín dụng - thanh toán, đóng vai trò nòng cốt trên thị
trường vốn và tiền tệ”.
Thanh toán không dùng tiền mặt ra đời là do chính đòi hỏi ngày càng cao
của nền kinh tế. Sản xuất hàng hoá phát triển qua nhiều giai đoạn từ thấp đến cao.
Nhưng ở giai đoạn nào tiền tệ vẫn đóng vai trò là một công cụ có tầm quan trọng
lợi hại đặc biệt và có độ nhạy rất cao. Việc sử dụng công cụ tiền tệ như thế nào sẽ
gây tác động dây chuyền như là một tác nhân kinh tế đối với từng mắt xích hoặc có
khi đối với các quá trình kinh tế. Trong các học thuyết kinh tế, người ta đã xác định
ngân hàng có vai trò là trung tâm thanh toán của hệ thống ngân hàng ngày càng rõ
nét và to lớn. Tái sản xuất xã hội là một quá trình liên hoàn, trong đó tồn tại các
quan hệ trao đổi, mua bán hàng hoá dịch vụ và do đó phát sinh quan hệ thanh toán.
Mặt khác, tập trung thanh toán vào ngân hàng là một vấn đề thiết yếu đối với
mỗi doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư trong điều kiện nền kinh tế phát triển.
Ngân hàng là nơi tập trung một khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế, số tồn khoản
này dành cho các tổ chức kinh tế trong nước để tiến hành mở rộng công việc làm
ăn, kinh doanh buôn bán. Trong nền kinh tế hiện đại, ngân hàng kiểm soát và điều
động một cách hợp lý khối lượng tiền tệ, chịu ảnh hưởng của mọi chính sách phát
triển kinh tế quốc gia. Tập trung công tác thanh toán vào ngân hàng có một ý nghĩa
to lớn không chỉ đối với xã hội, chính phủ mà còn với cả các doanh nghiệp và các
tầng lớp dân cư.
Ngân hàng đứng trên phương diện rộng lớn, nó phản ánh kinh tế của một
nước. Nhìn vào những hoạt động và trình độ công nghệ của các nghiệp vụ trong
ngân hàng là ta có thể đánh giá được trình độ phát triển kinh tế của nước đó. Hệ
thống ngân hàng phát triển mạnh mẽ sẽ tạo ra động lực cho mọi ngành kinh tế khác
trong nước phát triển và ngược lại.
Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hóa thanh toán bằng tiền mặt ngày
càng bộc lộ nhiều nhược điểm. Các quan hệ kinh tế trở nên đa dạng, phức tạp,
thanh toán không ngừng tăng lên về khối lượng và chất lượng. Như vậy, chính sự
phát triển của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá đã dẫn đến sự ra đời của một
phương thức thanh toán mới ưu việt hơn: “Thanh toán không dùng tiền mặt”
Thanh toán không dùng tiền mặt là một nấc thang phát triển tất yếu của
nghiệp vụ thanh toán trong nền kinh tế thị trường và chính nó đã từng bước đáp
ứng được yêu cầu của nền kinh tế hiện đại.
2. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường:
Công tác thanh toán là một trong những chức năng trung tâm của ngân hàng.
Theo đà phát triển chung của xã hội và hệ thống ngân hàng, thanh toán không dùng
tiền mặt ngày trở nên quan trọng.
Ngày nay, thanh toán không dùng tiền mặt là một phần không thể tách rời
các doanh nghiệp, các cá nhân và các đoàn thể. Trong nền kinh tế thị trường, thanh
toán không dùng tiền mặt được thực hiện trôi chảy sẽ đem lại hiệu quả thiết thực
cho tất cả các đối tác tham gia.
- Thứ nhất: Tăng tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt trong lưu chuyển
hàng hoá tiền tệ góp phần làm giảm lượng tiền mặt trôi nổi trên thị trường, tiết
kiệm được chi phí xã hội gắn liền với việc in tiền, huỷ tiền, hư hỏng, bảo quản,
kiểm đếm...
Khối lượng tiền cần thiết để thanh toán trong lưu thông có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Nếu thanh toán không dùng tiền mặt tăng sẽ làm giảm khối lượng
tiền mặt cần thiết. Vì vậy khối lượng tiền mặt trong lưu thông giảm xuống, sẽ giảm
được chi phí lưu thông mà chủ yếu là chi phí phát hành, bảo quản, kiểm đếm, cất
giữ v.v... Giảm được chi phí này sẽ tạo điều kiện tốt để điều hoà lưu thông tiền tệ vì
quá trình thanh toán này chịu giám sát trực tiếp hoặc gián tiếp của ngân hàng nhà
nước. Vì vậy mà chúng ta kế hoạch hoá và điều hoà lưu thông tiền tệ.
- Thứ hai: Thanh toán không dùng tiền mặt phục vụ sản xuất và lưu thông
hàng hoá. Bất kỳ một chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá nào đều bắt đầu bằng
khâu thanh toán. Do vậy, phải tổ chức thanh toán nhanh gọn, chính xác vừa đảm
bảo an toàn về vốn vừa rút ngắn được chu kỳ sản xuất, tăng tốc độ luân chuyển
vốn. Đứng ở tầm vĩ mô, khâu thanh toán ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng
vốn, đến kết quả sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp. Nếu như thanh toán
được tiến hành trôi chảy sẽ giúp cho lưu thông hàng hoá thông suốt, các hoạt động
của nền kinh tế sẽ tiến hành thuận lợi.
Để tiến hành thanh toán qua ngân hàng, các tổ chức, cá nhân phải mở tài
khoản tiền gửi thanh toán thông qua việc gửi một khoản tiền nhất định vào ngân
hàng. Tính chất của tài khoản này là luôn dư có, đó là nguồn vốn huy động tạm
thời tồn đọng trên các tài khoản tiền gửi thanh toán nhưng chưa sử dụng đến. Hơn
nữa, xuất phát từ tính chất không liên tục của việc nộp tiền bán hàng hoá, dịch vụ
vào tài khoản và việc chi trả từ tài khoản, do không phải lúc nào các lệnh chi trả
cũng được tiến hành cùng một lúc với giá trị như nhau, nên trên tài khoản luôn lưu
ký một số dư nhất định. Đây là nguồn vốn tín dụng khá lớn và có chi phí thấp (vì
trả lãi thấp), mà ngân hàng được phép sử dụng để mở rộng đầu tư và tín dụng cho
nền kinh tế, (sau khi duy trì một tỷ lệ nhất định để đảm bảo chi trả cho chủ tài
khoản trong mọi trường hợp).
- Thứ ba: Thanh toán không dùng tiền mặt giúp ngân hàng và các tổ chức tín
dụng tập trung được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư vào nền kinh tế để mở rộng
việc cấp tín dụng ngân hàng.
Như đã đề cập trong vai trò thứ hai, ngân hàng có thể sử dụng một phần
nguồn vốn từ tài khoản tiền gửi thanh toán để cho vay, mở rộng việc cấp tín dụng
cho nền kinh tế.
Chỉ tiêu kế hoạch tín dụng tổng hợp là một trong những chỉ tiêu kế hoạch
quan trọng của nền kinh tế, mà kế hoạch tín dụng muốn thực hiện được tốt thì phải
đẩy mạnh công tác thanh toán qua ngân hàng. Việc thanh toán này diễn ra càng
nhanh chóng thì sẽ giải phóng nhanh vốn trong khâu thanh toán, kết quả là tạo ra
nguồn vốn nhàn rỗi lớn thì đẩy mạnh hoạt động cho vay của ngân hàng và cuối
cùng là tạo điều kiện để kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân.
Xu hướng trong thời gian tới khối lượng thanh toán sẽ tiếp tục tăng nhanh,
do vậy nguồn vốn tiền gửi thanh toán sẽ chiếm một tỷ trọng đáng kể trong toàn bộ
cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng.
Thứ tư: Thanh toán qua ngân hàng đã và đang trở thành công cụ cạnh tranh
có hiệu quả của các ngân hàng nhằm thu hút khách hàng. Điều này thể hiện trên
hai khía cạnh sau:
+ Về dịch vụ ngân hàng:
Mục đích của khách hàng gửi tiền vào ngân hàng không chỉ đề hưởng lãi mà
còn để mua các dịch vụ ngân hàng và dịch vụ dần sẽ trở thành mục đích chính của
khách hàng. Vì vậy sức mạnh và khả năng cạnh tranh của các ngân hàng được đo
bằng số lượng và chất lượng các dịch vụ ngân hàng trong đó có dịch vụ thanh toán.
+ Về chi phí ngân hàng:
Lãi suất ngân hàng phải trả cho số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán là rất
thấp, thậm chí một số nước trên thế giới người gửi tiền không được hưởng lãi trên
số dư tài khoản tiền gửi thanh toán. Vì vậy ngân hàng có thể lợi dụng việc mở rộng
thanh toán không dùng tiền mặt như một giải pháp hữu hiệu để thay đổi cơ cấu
nguồn vốn theo xu hướng tăng tỷ trọng nguồn vốn có chi phí thấp, giảm tỷ trọng
nguồn vốn có chi phí cao.
Bên cạnh đó, thông qua việc quản lý biến động về số dư trên tài khoản tiền
gửi ngân hàng thực hiện chức năng kiểm tra và giám sát hoạt độn, khả năng tài
chính của các doanh nghiệp. Đây là cơ sở rất quan trọng để ngân hàng thực hiện
nghiệp vụ tư vấn, đầu tư có hiệu quả.
- Thứ năm: Vai trò đối với quản lý vĩ mô của Nhà nước, ngân hàng là tổ
chức kinh tế thông qua đó các chính sách của Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và
thanh toán được thực hiện. Vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước qua các ngân hàng
chỉ thực sự phát huy đầy đủ tác dụng khi phần lớn khối lượng thanh toán tập trung
qua các ngân hàng. Mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện cho
ngân hàng Nhà nước quản lý một cách tổng thể quá trình sản xuất và lưu thông
hàng hoá.
II. Quá trình phát triển của nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt
nam.
1. Thanh toán không dùng tiền mặt trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
Ở nước ta từ khi có hệ thống ngân hàng ra đời, phương thức thanh toán
không dùng tiền mặt đã được áp dụng.
Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp nền kinh tế được thực
hiện theo cơ chế hành chính, mệnh lệnh, sản xuất hàng hoá và tiêu thụ sản phẩm
được thực hiện theo kế hoạch từ trên giao xuống cho các doanh nghiệp sản xuất và
thương nghiệp làm công việc phân phối tiêu thụ hàng hoá. Do vậy sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm trong xã hội tốt hay xấu cũng không ảnh hưởng gì đến nền kinh tế
bao cấp này. Hoạt động của ngân hàng cũng được thực hiện theo cơ chế đó, cho
nên hiệu quả kinh tế của ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế không được quan
tâm nhiều. Thanh toán không dùng tiền mặt trong thời kỳ kế hoạch hoá được thực
hiện theo Nghị định 75/NĐ-CP. Với nguyên tắc cứng nhắc, kém hiệu quả. Cụ thể
phương thức thanh toán lòng vòng, chậm chạp (một khoản chuyển tiền thanh toán
chi trả tiền hàng khi thực hiện phải mất rất nhiều thời gian từ 5-10 ngày). Vì công
cụ thanh toán kém linh hoạt, thủ tục phức tạp, các phương tiện làm việc lạc hậu, và
thực hiện thanh toán bằng thủ công. Do điều kiện kỹ thuạt lạc hậu, công cụ thanh
toán nói trên dẫn đến tốc độ luân chuyển vốn chậm chạp, thiếu chính xác, cung cấp
thông tin không kịp thời và không đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia thanh
toán làm ảnh hưởng đến tốc độ và kéo dài chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Ngoài công cụ thanh toán nghèo nàn ngân hàng còn có quy định cho các
doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế chỉ được mở tài khoản tiền gửi tại địa phương
mình hoạt động (cùng địa phương).Khách hàng không được tự do lựa chọn ngân
hàng dẫn đến không có sự cạnh tranh giữa các ngân hàng.
Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp việc thanh toán không
dùng tiền mặt ở nước ta tuy đã được áp dụng khá rộng rãi trong nền kinh tế nhằm
giảm bớt lượng tiền mặt đi vào lưu thông bằng cách ngân hàng đã quy định cho các
doanh nghiệp định mức tồn quỹ tiền mặt, định mức tạo chi... nhưng vẫn kém hiệu
quả, cụ thể những năm đó lượng tiền mặt trong lưu thông rất lớn, ngân hàng ở
trong tình trạng khan hiếm tiền mặt, như vậy ngân hàng chưa làm tốt chức năng
thanh toán của mình để giúp cho nền kinh tế phát triển. Ngân hàng được xây dựng
theo mô hình một cấp gồm Ngân hàng Nhà nước và các chi nhánh vừa thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ tín dụng ngân hàng vừa thực hiện chức năng
kinh doanh hoạt động theo phương thức kế hoạch hoá tập trên từ dưới lên trên.
2. Thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần.
Khi nền kinh tế của nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế thị trường đòi hỏi ngành ngân hàng phải tiến hành sửa đổi, bổ
sung nhằm hoàn thiện chế độ, thể lệ thanh toán và áp dụng tiến bộ khoa học vào kỹ
thuật thanh toán không dùng tiền mặt cho phù hợp và đáp ứng được yêu cầu đa
dạng hoá của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Ngày 26/03/1988 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 53 về tổ chức bộ
máy ngân hàng theo Nghị định này hệ thống ngân hàng bắt đầu được chia thành
hai cấp.
- Cấp quản lý: Là Ngân hàng Nhà nước có chức năng độc quyền phát triển
tiền, quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ngân hàng trên tầm quản lý vĩ
mô.
- Cấp kinh doanh: Là các ngân hàng chuyên doanh thuộc sở hữu nhà nước
và vẫn trực thuộc ngân hàng trung ương. Các ngân hàng này có chức năng kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng.
Sau khi hai pháp lệnh ngân hàng ra đời ngày 23/05/1990 đã đáp ứng nhu
cầu phát triển của nền kinh tế thị trường là lần lượt các Ngân hàng Thương mại,
ngân hàng cổ phần được thành lập, chi nhánh ngân hàng nước ngoài... Năm 1990
hệ thống kho bạc ra đời mà chức năng quản lý quỹ ngân sách nhà nước. Bắt đầu
của thời kỳ thanh toán không dùng tiền mặt được thực hiện bằng quyết định
101/NH-QĐ ngày 30/07/1991. Quyết định này ban hành các thể lệ chế độ thanh
toán không dùng tiền mặt bằng bốn công cụ sau:
- Séc,
- Uỷ nhiệm chi,
- Uỷ nhiệm thu,
- Thẻ tín dụng,
Sau một thời gian thực hiện bốn công cụ trên chưa đáp ứng được đầy đủ
nhu cầu đa dạng hoá của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Để
đáp ứng nhu cầu cấp bách của thị trường Ngân hàng Nhà nước đã bổ sung và ra
quyết định số 22/QĐ - NH1 ngày 22/02/1994 theo quyết định này đã bổ sung thêm
hai công cụ thanh toán mới đó là :
- Ngân phiếu thanh toán
- Thẻ thanh toán
Riêng thanh toán bằng séc đã được bổ sung thêm séc cá nhân nhằm thu hút
và tạo điều kiện cho người dân quen dần với công việc thanh toán qua ngân hàng.
Sau đó ngày 09/05/1996 Chính phủ ban hành Nghị định 30/CP về việc sử dụng séc
mới trong cả nước áp dụng kể từ ngày 01/04/1997 thay thế cho các loại séc cũ. Việc
áp dụng công cụ thanh toán mới đã đáp ứng được những yêu cầu thanh toán đa thành
phần trong nền kinh tế, mọi tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế đều có thể tham gia
trực tiếp thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng nhằm thúc đẩy sản xuất hàng
hoá, dịch vụ phát triển, góp phần phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, thu hút vốn
đầu tư nước ngoài.
Từ khi đổi mới chế độ thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta đã có
nhiều chuyển biến tốt và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Điều này đã được chứng
minh trên các mặt sau:
- Qua các công cụ thanh toán liên hàng giữa các ngân hàng trong toàn quốc
và thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước đã có bước tiến bộ rõ
rệt. Từ khi áp dụng kỹ thuật máy vi tính để thanh toán liên hàng (trong cùng hệ
thống ngân hàng công thương) tiến tới thanh toán điện tử thực hiện từ ngày
01/07/1996 trong toàn hệ thống ngân hàng công thương Việt Nam. Khi thanh toán
điện tử các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong thanh toán điện tử được hoàn tất trong
một ngày làm việc. Trường hợp khách hàng yêu cầu chuyển nhanh và hoàn tất
trong thời gian từ 1-3 giờ (khách hàng phải chịu phí dịch vụ khẩn theo quy định).
- Qua thanh toán bù trừ: Các Ngân hàng Thương mại, tổ chức tín dụng, kho
bạc khi tham gia thanh toán bừ trừ được giao nhận chứng từ hai phiên trong ngày
qua đĩa mềm (tại ngân hàng chủ trì là ngân hàng nhà nước).
Việc áp dụng thanh toán điện tử, thanh toán bừ trừ đã làm tăng nhanh tốc
độ thanh toán, giảm bớt thời gian chiếm dụng vốn, mức độ an toàn cao, tiện lợi cho
các khách hàng, rút ngắn thời gian chu chuyển vốn của doanh nghiệp và cá nhân.
- Bổ sung hai công cụ thanh toán mới: ngân phiếu thanh toán và thẻ thanh
toán, sửa đổi một số quy định trong các công cụ thanh toán truyền thống lạc hậu đã
thấy rõ ngân hàng đã làm tốt chức năng thanh toán, đáp ứng yêu cầu đổi mới của
nền kinh tế nhiều thành phần.
- Việc ngân hàng từng bước áp dụng công nghệ tin học tiên tiến vào thanh
toán nhằm hạn chế sai sót nhỏ của thao tác thủ công, tăng nhanh tốc độ luân
chuyển nhằm thu hút khách hàng, tạo lòng tin của ngân hàng đối với doanh nghiệp
và cá nhân. Đồng thời cũng nâng cao trình độ của ngành ngân hàng trong nước tiến
kịp các ngân hàng trong khu vực và thế giới.